* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ | KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ |HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

Số 0602

PHẬT THUYT ĐẠI AN BAN THỦ Ư KINH

Hán dịch: Đời Hậu Hán, Tam tạng Pháp sư An Thế Cao,

người nước An Tức.
Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

-o0o-

 

Trang Chủ

Kinh Điển

Đại Tạng Kinh

Thần Chú

Hình Ảnh

Liên Lạc

 

Số 0602
PHẬT THUYT ĐẠI AN BAN THỦ Ư KINH  2 Quyển

BÀI TỰA

QUYỂN THƯỢNG

QUYỂN HẠ

 

BÀI TỰA CỦA NGÀI KHƯƠNG TĂNG HỘI

Phàm An ban là Đại thừa của các Đức Phật, dùng cứu tế sự trôi dạt của chúng sinh. Việc ấy có sáu để trị sáu t́nh. T́nh có trong và ngoài. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư gọi là nội t́nh. Sắc thanh, hương, vị, xúc, tà niệm gọi là ngoại t́nh. Kinh nói rằng, các biển có mười hai việc là gọi sự thọ tà hạnh của sáu t́nh trong và ngoài, giống như biển thọ nhận các ḍng chảy, người đói mơ ăn cơm dường như không đầy đủ. Đồ chứa tâm tràn đầy, không vật nhỏ nào chẳng thấm, hoảng hốt, phảng phất, ra vào không gián đoạn, nh́n không thấy h́nh, nghe không có tiếng, ngược về trước không có, t́m về sau cũng không, vi tế thâm diệu h́nh thể không sợi tơ, cọng tóc, Phạm thiên, Đế Thích, Tiên thánh đă chẳng soi sáng, giống lặng yên đến đây hóa sinh ra ư? Đó chẳng phải là cái nh́n thấy của phàm phu gọi là ấm. Giống như người gieo giống âm thầm kín đáo mở tay đổ hạt giống, chúng sinh sôi có đến hàng vạn ức mà người bên cạnh chẳng nh́n thấy h́nh dạng chúng, người gieo giống chẳng biết số lượng của chúng, một cái nát rơi xuống th́ vạn cái mọc lên. Trong khoảnh khắc gảy móng tay, tâm có chín trăm sáu mươi là chuyển, một ngày  một đêm có mười ba ức ư. Ư có một mà thân tâm chẳng tự biết, giống như người gieo giống kia vậy. Do đó dùng hạnh tịch tĩnh ràng buộc ư vào hơi thở đếm từ một đến mười. Đến số mười chẳng lầm lẫn ư định tại đó. Tiểu định ba ngày, đại định bảy ngày, tịch tĩnh không ư niệm khác ngây ra như chết gọi là Nhất thiền. Thiền là bỏ vậy! Bỏ mười ba ức ư niệm dơ bẩn. Đă thu hoạch số định rồi th́ chuyển niệm trước theo trừ sạch tám ư ấy mà chính có hai ư Ià ư định ở chỗ dựa theo, do ở pháp tính vậy. Cặn đục tiêu diệt, tâm hơi trong sạch th́ gọi đó là Nhị thiền. Lại trừ đi sự chú ư vào đầu mũi ấy th́ gọi là Chỉ. Được hạnh Chỉ th́ ba độc chạy tứ tán, năm ấm, sáu tối, các bẩn diệt hết. Đuốc tâm thắp sáng vượt qua ngọc Minh nguyệt, ḷng dâm tà bẩn giống như gương soi ở dưới bùn dơ lấm bẩn vậy. Ngửa lên dùng soi trời, úp xuống dùng thấu đất, sáng suốt thánh đạt vạn cơi soi thấu, tuy có cái lớn của trời đất, nhưng không một người mà có thể nh́n thấy. Sở dĩ vậy là do sự vẩn đục ấy. Mọi tâm cấu bẩn có thể vượt qua gương soi kia nếu được thầy giỏi nạo vót, mài dũa cho bụi mỏng, tối mờ quét sạch không c̣n. Đem tâm đó chiếu soi th́ sợi lông, cọng tóc nhỏ nhặt mà không cái nhỏ nào chẳng rơ rệt. Bẩn lui đi, sáng c̣n lại khiến cho tâm ấy hiển nhiên vậy. T́nh tràn đầy, ư tán loạn th́ nghĩ muôn điều chẳng biết một vậy. Giống như ở chợ buông thả ḷng nghe ngóng, rộng tiếp nhận mọi âm thanh, lui về ở yên, nghĩ suy chẳng nhận biết tiếng nói một người. Ḷng buông ư thả, vẩn đục che sự thông suôt ấy. C̣n như tự ở chỗ nhàn, tâm tư tịch mịch, chỉ không tà dục, kề tai lắng nghe th́ vạn câu chẳng mất. Nửa lời nói ra ấy là do ḷng lắng, ư trong vậy. Hành tịch, chỉ ư treo ở đầu mũi gọi là Tam thiền vậy. Trở lại quan sát thân ấy, từ đầu đến chân, ngược lại xét kỹ nước bẩn của nội thể, lông dựng đứng rậm rạp, c̣n nh́n thấy máu mủ, nước miếng, nước mũi. Đối với tâm ấy đủ chiếu soi trời, đất, người, vật. Những thứ ấy thịnh hoặc suy, không c̣n cũng chẳng mất, tin Phật, Tam bảo, mọi tối đều sáng… Đó gọi là Tứ thiền. Nhiếp lấy tâm trở lại nghĩ các ấm đều diệt. Đó gọi là trở lại. Uế dục lặng hết, tâm ấy vô tưởng. Đó gọi là tịnh. Người được hạnh An ban th́ ḷng phát lạnh liền sáng. Dùng ánh sáng này quan sát th́ không chỗ tối nào chẳng nh́n thấy, việc từ vô số kiếp, việc mới đến, sự đổi thay nhân vật, các cơi hiện tại. Trong đó sẵn có pháp hóa của Thế Tôn, việc tụng tập của đệ tử, không ǵ xa chẳng thấy, không tiếng ǵ chẳng nghe, hoảng hốt phảng phất, c̣n mất tự do, lớn khắp tám cực, nhỏ suốt mao ly, chế trời đất trụ mạng sống, thần đức mạnh hoại bệnh trời, khuấy động ba ngàn - di dời các cơi. Tám bất tư nghị chẳng phải chỗ Phạm thiên ḍ, thần đức vô hạn là do sáu hạnh. Khi Đức Thế Tôn bắt đầu muốn nói kinh ấy th́ lớn đến chấn động, người trời đổi sắc, ba ngàn An ban, người không thể tin. Đến đây, Đức Thế Tôn hóa làm hai thân, một là Hà Đẳng, một là Tôn Chủ, diễn cho nghĩa ấy xuất hiện vậy. Đại sĩ, Thượng nhân sáu đôi, mười hai nhóm không ai chẳng chấp hành. Có vị Bồ-tát tên là An Thanh tự là Thế Cao, con của chính hậu vua nước An Tức, nhường nước cho chú đi lánh vào bản thổ, ngao du khắp nơi, sau cùng liền vào ở kinh sư. Ngài ấy là người học rộng, hiểu nhiều, thông suốt như thần, bảy chính đầy vơi, phong khí tốt xấu, núi lở đất động, châm cứu… các thuật, nh́n sắc diện biết bệnh, chim thú hót kêu không âm thanh nào chẳng soi thấu, ôm sự rộng răi của hai nghi thức. Thương xót sự ngu tối của lê dân, ngài trước móc tai họ, rồi mở mắt họ, muốn cho họ nh́n sáng, nghe thông. Rồi từ từ mới diễn bày Lục độ chánh chân, ngài dịch kinh An ban bí mật thâm áo này. Người học mà bụi trần dấy lên th́ không ǵ chẳng trừ khử, gặp uế trược th́ giữ ǵn đạo đức thanh bạch vậy. Tôi sinh ra muộn màng, bắt đầu có thể vác củi th́ cha mẹ chết mất, ba thầy vĩnh biệt, ngước nh́n mây bay, buồn không tín thọ, nói lời thương nhớ, nước mắt thầm rơi. Phước xưa chưa hết nên tôi được hội kiến với ngài Hàng Lâm ở Nam Dương, ngài B́ Nghiệp ở Dĩnh Xuyên và ngài Trần Tuệ ở Cối Kê. Ba vị Hiền giả này hết ḷng tin đạo, chấp tŕ đức hạnh, hoằng dương chánh pháp, hăng hái tiến tới, chí đạo chẳng mệt mỏi. Tôi theo những vị ấy thỉnh vấn th́ khuôn đồng phép hợp, nghĩa không sai khác. Ngài Trần Tuệ chú nghĩa, tôi giúp châm chước, chẳng phải sự truyền dạy của thầy nên chẳng dám tự do. Lời nói của kẻ hèn nhiều vụng về, chẳng thấy ư Phật! Nguyện xin những vị Hiền minh Thánh triết cùng chung thẩm xét. Nghĩa cú thêm sự san định của bậc Thánh triết, chung hiển hiện thần dung.

 

PHẬT THUYẾT ĐẠI AN BAN THỦ Ư KINH

 QUYỂN THƯỢNG 

Đức Phật ở tại nước Việt kỳ, là nước Xá-kỳ-sấu cũng c̣n một tên là nước Già-nặc-ca-la.

Bấy giờ, Ngài ngồi thực hành An ban Thủ ư chín mươi ngày. Ngồi một ḿnh chín mươi ngày là để suy nghĩ tính toán, muốn độ thoát con người và những loài biết cử động khắp mười phương. Ngài lại nói rằng:

- Ta hành An ban Thủ ư chín mươi ngày th́ An ban Thủ ư được ư từ niệm tự tại. Rồi trở lại thực hành An ban Thủ ư, lạí thu ư, thực hành niệm.

An là thân, Ban là hơi thở, Thủ ư là đạo. Thủ tức là cấm, cũng gọi là chẳng phạm giới. Cấm cũng là giữ, giữ là giữ khắp tất cả, không phạm điều ǵ. Ư là hơi thở, ư cũng là đạo vậy.

An là sinh, Ban là diệt, ư là nhân duyên, Thủ tức là đạo vậy.

An là đếm, Ban là theo dơi, Thủ ư là dừng vậy.

An là niệm đạo, Ban là giải kết, Thủ ư là chẳng rơi vào tội lỗi.

An là tránh tội, Ban là chẳng mắc tội, Thủ ư là đạo.

An là định, Ban là không làm cho lay động, Thủ ư là không loạn ư.

An ban Thủ ư gọi là chế ngự ư, đến được vô vi.

An là có, Ban Ià không. Ư niệm có chẳng được đạo, ư niệm không th́ chẳng được đạo, cũng chẳng nghĩ có, cũng chẳng nghĩ không, chính là ứng với định không, ư theo đạo mà làm. Có th́ gọi là muôn vật, không th́ gọi là nghi, cũng gọi là trống rỗng vậy.

An là nhân duyên gốc, Ban là không xử sở. Đạo nhân biết vốn không từ đâu đến, cũng biết diệt không đi về đâu. Đó Ià Thủ ư vậy.

An là thanh, Ban là tịnh, Thủ là vô, Ư là vi. Đó là thanh tịnh vô vi. Vô là sống, vi là sinh, chẳng bị khổ nữa nên gọi là sống vậy.

An là chưa, Ban là khởi, do chưa khởi nên liền thủ ư. Nếu đă khởi ư th́ thủ ư. Nếu ư đă khởi th́ chạy đi, v́ chẳng thủ nên phải làm cho nó trở lại. Vậy nên Đức Phật nói An ban Thủ ư vậy.

An là thọ năm ấm, Ban là trừ năm ấm, Thủ ư là hiểu biết nhân duyên, chẳng theo thân, miệng, ư. Thủ ư th́ không vướng mắc vào đâu là thủ ư, có chỗ vướng mắc là chẳng thủ ư. V́ sao? V́ ư khởi rồi lại diệt. Ư chẳng khởi lên lại là đạo. Đó là thủ ư. Thủ ư 1à không khiến cho ư sinh. Làm phát sinh nhân có chết là chẳng thủ ư, không khiến cho ư chết; có chết nhân có sinh, ư cũng chẳng chết th́ đó gọi là đạo.

An ban Thủ ư có mười thông tuệ là Sổ tức, Tương tùy, Chỉ, Quán, Hoàn, Tịnh, Tứ đế. Đó là mười trí thành tựu; nếu hợp với kinh ba mươi bảy phẩm th́ hạnh thành tựu.

Thủ ư ví như lửa đèn có hai công dụng: Một là phá trừ tối, hai là chiếu sáng, c̣n Thủ ư th́ một là phá hoại si, hai là thấy tuệ.

Thủ ư th́ ư từ nhân duyên sinh, sẽ duyên theo nhân duyên không chấp trước. Đó là Thủ ư.

Thủ ư có ba nhóm:

1. Giữ khiến cho chẳng được sinh.

2. Đă sinh th́ phải mau chóng diệt.

3- Việc đă làm th́ phải từ đây về sau kể hàng ức vạn kiếp, hối hận chẳng làm lại nữa.

Thủ cùng ư đều khác nhau, giữ cho tất cả mười phương, biết đối pháp chẳng phạm th́ đó là Thủ; biết đó là vô vi th́ đó là ư. Đó là sự khác nhau của Thủ và Ư. Trong Thủ ư có bốn niềm vui:

1. Biết cái vui cần thiết.

2. Biết cái vui pháp.

3. Biết cái vui cao thượng.

4. Biết có vui thích đúng.

Pháp là hạnh, đắc là đạo. Sáu việc Thủ ư có trong, có ngoài. Sổ, Tùy, Chỉ đó là ngoài? Quán, Hoàn, Tịnh đó là trong là tùy theo đạo vậy. V́ sao? V́ niệm tức, tương tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh là muốn tu tập ư gần đạo. Ĺa khỏí sáu việc này là theo thế gian. Sổ tức là ngăn chận ư, tương tùy là thâu ư, chỉ là định ư, quán là ĺa ư, hoàn là nhất ư, tịnh là giữ ư. Do con người chẳng thể chế ngự ư nên hành sáu việc này. V́ sao sổ tức? Do loạn ư vậy. V́ sao chẳng được? Do chẳng biết. V́ sao chẳng được thiền? Do chẳng bỏ tập để chứng diệt, thực hành đạo vậy!

Sổ tức là đất, tương tùy là cày, chỉ là cái ách, quán là hạt giống, hoàn là mưa, tịnh là làm việc. Sáu việc như vậy mới theo đạo được. Sổ tức cắt đứt bên ngoài, tương tùy cắt đứt bên trong, chỉ là dừng tội, hành quán từ bỏ ư, chẳng thọ thế gian là hoàn, niệm đứt là tịnh. Ư loạn phải sổ tức, ư định phải tương tùy, ư dứt phải hành chỉ, muốn đắc đạo phải quán, chẳng hướng ngũ ấm nên hoàn, không có sở hữu là tịnh. Nhiều việc phải sổ tức, ít việc phải tương tùy, ư bên trong hết phải hành chỉ, sợ thế gian phải quán, chẳng muốn thế gian là hoàn, niệm dứt là tịnh vậy. V́ sao sổ tức? V́ chẳng muốn theo năm ấm. V́ sao tương tùy? V́ muốn biết năm ấm. V́ sao Chỉ? V́ muốn quán sát năm ấm. V́ sao quán ấm? V́ muốn biết gốc của thân. V́ sao muốn biết gốc của thân? V́ muốn bỏ khổ. V́ sao hoàn? V́ chán sinh tử. V́ sao tịnh? V́ phân biệt năm ấm chẳng thọ nhận, rồi theo tám con đường trí tuệ mà để được hiểu biết, mà đạt sở nguyện. Khi hành tức là tùy theo đếm, khí tương tùy là theo niệm, khi Chỉ là theo định, khi quán là theo tịnh, khi hoàn là theo ư, khi tịnh là theo đạo, cũng 1à theo hành vậy.

Sổ tức là bốn Ư chỉ, Tương tùy là bốn Ư đoạn, Chỉ là niệm bốn Thần túc, Quán là năm căn và năm Lực, Hoàn là bảy Giác ư, Tịnh là tám Chánh đạo vậy. Được Tức mà chẳng Tương tùy th́ chẳng phải là Thủ ư. Được Tương tùy mà chẳng Chỉ th́ chẳng phải là Thủ ư. Được Chỉ mà chẳng quán th́ chẳng phải là Thủ ư. Được Quán mà chẳng Hoàn th́ chẳng phải là Thủ ư. Được Hoàn mà chẳng Tịnh th́ chẳng phải là Thủ ư. Được Tịnh mà lại Tịnh mới là Thủ ư. Đă niệm Tức th́ ác chẳng sinh. Lại thêm sổ là cùng ngăn chận ư, chẳng theo sáu suy. Hành Tương tùy là muốn ĺa sáu suy; hành Chỉ là muốn khước trừ sáu suy; hành Quán là muốn đoạn trừ sáu suy; hành Hoàn là muốn chẳng thọ sáu suy; hành Tịnh là muốn diệt sáu suy; đă diệt hết th́ theo đạo.

Sổ tức là muốn ngăn chận ư. Hơi thở có dàí có ngắn nên phải lại ngăn chận ư dài ư ngắn. V́ sao Thủ ư? V́ muốn dừng ác. Ác cũng có thể giữ, cũng chẳng thể giữ. V́ sao? V́ ác đă hết th́ chẳng phải giữ vậy.

Sổ tức có ba việc:

1. Phải ngồi mà thực hành.

2. Thấy sắc phải nghĩ là vô thường bất tịnh.

3. Phải hiểu sân nhuế, ngu si, tật đố khiến cho qua đi.

Sổ tức loạn th́ phải biết nhân duyên phát khởi, phải biết chính là nội ư.

Hơi thở thứ nhất loạn th́ chính là lỗi của ngoại ư. V́ hơi thở từ bên ngoài vào.

Hơi thở thứ hai loạn th́ chính là lỗi của nội ư v́ hơi thở từ trong ra.

Hơi thở ba, năm, bảy, chín... thuộc về ngoại ư.

Hơi thở bốn, sáu, tám, mười... thuộc về nội ư.

Tật đố, sân nhuế, ngu si là ba ư ở bên trong. Sát, đạo, dâm, hai lưỡi ác khẩu, nói dối, thêu dệt là bảy ư và các việc c̣n lại thuộc về bên ngoài. Được hơi thở là ngoài, chẳng được hơi thở là trong.

Hơi thở từ ư sinh ra, ư niệm, hơi thở hợp làm một lần đếm. Hơi thở hết th́ đếm là một cũng chẳng phải là một v́ ư ở ngoài, hơi thở chưa hết vậy. Ví như đếm tiền, ư ở số năm đếm là một. Sổ tức sở dĩ trước đếm hơi thở vào là v́ bên ngoài có bảy ác, bên trong có ba ác. Do ít chẳng thể thắng nhiều nên trước đếm hơi thở vào. Sổ tức chẳng được th́ mất ư căn bản. Ư căn bản gọi là phi thường, khổ, không, phi thân. Mất ư này th́ rơi vào điên đảo cũng là mất thầy. Thầy là khi bắt đầu ngồi, hơi thở hít vào thứ nhất mà được thân an th́ liền theo thứ lớp tiến hành. V́ mất ư căn bản ấy nên chẳng được hơi thở. Khi Sổ tức, ư thường phải nghĩ về phi thường, khổ, không, phi thân, đếm là hơi thở ra cũng diệt, hít vào cũng diệt. Biết được thế rồi th́ được đạo mau chóng, phải giữ ǵn ư sợ phi thường. Được ư này tức là được hơi thở vậy.

Hơi thở vào, hơi thở ra sở dĩ khác là v́ hơi thở ra là sinh tử ấm, hơi thở vào là tưởng ấm. Có lúc hơi thở ra là thống dương ấm, hơi thở vào là thức ấm. Do đó nên là khác. Đạo nhân phải phân biệt ư này.

Hơi thở vào là chẳng thọ tội, hơi thở ra là trừ tội, thủ ư là ĺa khỏi tội.

Hơi thở vào là thọ nhân duyên, hơi thở ra là đến với nhân duyên, thủ ư là chẳng ĺa khỏi nhân duyên.

Sổ tức chẳng được có ba lư do:

1. Tội đến.

2. Hành chẳng đắp đổi nhau.

3. Chẳng tinh tấn.

Hơi thở vào ngắn, hơi thở ra dài, không có cái để nghĩ đến là ư đạo. Có cái để nghĩ là tộí. Tội cốt ở ngoài chẳng ở trong. Khi sổ tức, có ĺa khỏi ư là hơi thở nhanh dài, đạt được thở là hơi thở nhanh ngắn. Chẳng an mà thở là dài, an định mà thở là ngắn. Nghĩ đến muôn vật th́ thở dài, không nghĩ ǵ là thở ngắn. Chưa đến mười hơi thở mà quên đi rồi đếm lại th́ hơi thở dài, được mười hơi thở th́ hơi thở ngắn. Đạt được hơi thở là ngắn. V́ sao? V́ dừng chẳng đếm lại. Đạt được hơi thở cũng là dài. V́ sao? V́ hơi thở chẳng ngưng nên là dài. Thở nhanh dài tự biết, thở nhanh ngắn tự biết th́ đó gọi là ư có mặt tự biết dài ngắn. Ư biết dài ngắn là tự biết. Ư chẳng biết dài ngắn là chúng tự biết vậy.

Đạo nhân hành An ban Thủ ư muốn dừng ư th́ phải có nhân duyên ǵ mới được dừng ư? Phải nghe nóí về An ban Thủ ư!

Thế nào là An? Thế nào là Ban? An là hơi thở vào, Ban là hơi thở ra. Niệm hơi thở chẳng ĺa th́ gọi là An ban. Thủ ư là muốn được dừng ư. Đối với người tu hành mới học th́ có bốn thứ hành An ban Thủ ư; diệt trừ hai ác, mười sáu thắng, tức thời tự biết đến hạnh An ban Thủ ư, khiến cho họ được dừng ư.

Những ǵ là bốn thứ?

1. Đếm.

2. Tương tùy.

3. Dừng.

4. Quán.

Những ǵ là hai ác?

1. Không quá mười hơi thở.

2. Không giảm mười số.

Những ǵ mười sáu thắng?

Tức thời tự biết thở nhanh dài, tức tự biết thở nhanh ngắn, tức tự biết thở nhanh động thân, tức tự biết thở nhanh yếu, tức tự biết thở nhanh an ổn, tức tự biết thở nhanh chẳng an ổn, tức tự biết thở nhanh dừng, tức tự biết thở nhanh chẳng dừng, tức tự biết thở nhanh ḷng hoan lạc, tức tự biết thở nhanh ḷng chẳng hoan lạc, tức tự biết nội tâm nghĩ vạn vật đă qua đi chẳng thể trở lại, tự biết đạt được hơi thở nhanh, tự biết bên trong không nghĩ ǵ, tự biết nghĩ hơi thở nhanh, tự biết ném bỏ việc suy nghĩ hơi thở nhanh, tự biết chẳng ném bỏ sự suy nghĩ hơi thở nhanh, tự biết buông bỏ thân mạng hơi thở nhanh, tự biết chẳng buông bỏ thân mạng hơi thở nhanh tự biết. Đó là mười sáu thứ tức thời tự biết.

Hỏi:

- Những ǵ là Không quá mười số? Không dưới mười số?

Đáp:

- Hơi thở đă hết mà chưa đếm th́ đó là quá. Hơi thở chưa hết mà đếm th́ đó là dưới. Mất đếm cũng xấu, chẳng đếm kịp cũng xấu. Đó là hai thứ ác. Đến hơi thở thứ hai mà loạn là hơi thở ngắn. Đến hơi thở thứ chín mà loạn là hơi thở dài. Được mười hơi thở là hơi thở an ổn. Tương tùy là nhỏ. Ư tại hơi thở dài liền chuyển ư: v́ sao ta nghĩ dài? Ư tại hơi thở ngắn th́ tức thời hiểu chẳng được khiến cho ư dừng. Dừng là chấp trước. Buông bỏ thân mạng th́ gọi là hành tức. Được ư đạo liền buông bỏ thân mạng, chưa được ư đạo thường yêu thích thân nên chẳng buông bỏ thân mạng.

Hơi thở ví tế là đạo, hơi thở dài là sinh tử. Hơi thở ngắn động là sinh tử. Dài đối với đạo là ngắn. V́ sao? V́ chẳng được ư đạo, không tri kiến nên là ngắn vậy. Sổ tức là đơn, tương tùy là kép, chỉ là một ư, quán là biết ư, hoàn là làm đạo, tịnh là vào đạo.

Khi đếm là niệm đến hơi thở thứ mười là giữ lại. Đó là thiền bên ngoài.

Nghĩ thân bất tịnh, theo sự trống rỗng th́ đó là thiền bên trong.

Khi thiền mà ác pháp đến chẳng thọ th́ đó gọi là bỏ. Ngậm miệng đếm hơi thở, theo luồng hơi ra vào, biết hơi phát ra ở đâu, diệt đi ở chỗ nào, Ư có điều nghĩ nhớ th́ chẳng đếm hơi thở được. Ư có chậm nhanh, lớn nhỏ cũng chẳng đếm hơi thở được. Tai nghe thanh âm hỗn loạn cũng chẳng đếm hơi thở được vậy. Đếm hơi thở mà ư ở tại số hơi thở là chẳng khéo. Hành ư ở tại ư th́ là dừng, đếm hơi thở mà ư chỉ ở tại hơi thở th́ đó là chẳng khéo. Phải biết rằng, ư từ đâu khởi th́ hơi theo đó diệt. Đó mới ứng hợp với nhân duyên đếm hết th́ liền được định ư.

Thủ ư là nghĩ hơi thở ra, vào. Đă nghĩ đến hơi thở th́ chẳng sinh ra ác nên gọi là thủ ư.

Hơi thở thấy nhân duyên sinh, không nhân duyên diệt nhân duyên đoạn th́ hơi thở dừng vậy.

Đếm hơi thở là chí thành, hơi thở chẳng loạn là nhẫn nhục. Đếm hơi thở vi tế, lại chẳng biết ra hay vào th́ như vậy phải giữ một niệm là Chỉ vậy.

Hơi thở ở tại thân cũng ở bên ngoài. Được nhân duyên th́ hơi thở sính ra. Tội chưa hết nên có hơi thở. Đoạn dứt nhân duyên th́ hơi thở chẳng sinh ra nữa.

Đếm hơi thở dùng làm thiền thứ hai. V́ sao? V́ do chẳng đợi niệm nên làm theo thiền thứ hai. Đếm hơi thở là chẳng thủ ư, niệm hơi thở mới là thủ ư. Hơi thở từ ngoài vào mà hơi thở chưa hết th́ hơi thở ở tại nhập, ư ở tại tận, thức ở tại số vậy. Mười hơi thở có mười ư là mười bó buộc. Tương tùy có hai ư là hai bó buộc. Chỉ là một ư là một bó buộc, chẳng đếm được hơi thở là ác, v́ ư chẳng thể bó buộc. Ác ư dừng th́ mới đếm được. Đó là điều ḥa có thể buộc ư được. Đă được hơi thở, bỏ hơi thở; đă được tương tùy, bỏ tương tùy; đă được chỉ, bỏ chỉ; đă được quán, bỏ quán, không trở lại. Không trở lại là không đếm hơi thở.

Hơi thở cũng sai khiến ư, ư cũng sai khiến hơi thở. Hơi thở có sở niệm là hơi thở sai khiến ư, không sở niệm là ư sai khiến hơi thở vậy. Hơi thở có bốn việc:

1. Gió.

2. Hơi.

3. Tức.

4. Suyển.

Có tiếng là gió, không tiếng là khí, ra vào là tức, hơi ra vào bất tận là suyển vậy. Sổ tức cắt đứt bên ngoài, tương tùy cắt đứt bên trong.

Đếm từ ngoài vào là cắt đứt bên ngoài, cũng muốn ĺa nhân duyên bên ngoài. Đếm từ trong ra là muốn ĺa nhân duyên bên trong. Ngoài là ly thân, trong là ly ư. Ly thân, ly ư đó là tương tùy; hơi thở ra vào đó là hai việc vậy. Sổ tức là muốn cắt đứt nhân duyên trong ngoài.

Những ǵ là trong ngoài?

Đó là nhăn, nhĩ, tỹ khẩu, thân, ư là bên trong. Sắc, thanh, hương, vị, tế hoạt niệm là bên ngoàí. Hành hơi thở là khiến cho ư hướng về không, chỉ muốn dừng những ư c̣n lại.

Thế nào là hướng về không?

Trong hơi thở không ǵ vậy!

Đếm hơi thở ư có rong ruổi không?

Tức thời biết là tội nặng, ư nhẹ, tội dẫn ư đi nhanh chóng nên chẳng biết vậy. Hành đạo rồi được hơi thở, tự chán hơi thở th́ ư muốn chuyển chẳng muốn đếm. Như vậy mà được hơi thở. Tương tùy, chỉ, quán cũng vậy. Biết hơi thở ra vào diệt mà diệt là được tướng của hơi thở và biết sinh tử, chẳng cho là được tướng sinh tử, rồi được Tứ Thiền mà chỉ niệm “không” là trồng cây đạo.

Hành hơi thở rồỉ được định, lại chẳng lạí hay biết hơi ra vào th́ liền có thể quán.

1. Phải quan sát năm mươi lăm việc.

2. Phải quan sát mười hai nhân duyên trong thân.

Hỏi:

- Hơi thở ra vào chắc có chỗ không?

Đáp:

- Khi hơi thở vào chính là chỗ ấy, khi hơi thở ra chính là chỗ ấy! Khi sổ tức, thân ngồi, thống dương, tư tường, sinh tử thức dừng lại chẳng hành. Đó là ngồi. Niệm hơi thở được đạo, lại tính toán th́ hơi thở không biết ǵ.

Hỏi:

- Niệm tức được đạo v́ sao là không biết ǵ?

Đáp:

- Ư biết hơi thở, hơi thở không biết ư. Đó là không biết ǵ! Con người chẳng thể tính toán được ư, liền điều khiển đếm hơi thở là muốn khiến cho ư định. Tuy đếm hơi thở chỉ chẳng sinh ra ác nhưng không có thông tuệ. Phải hành những ǵ th́ được thông tuệ? Phảỉ đếm hơi thở từ một đến mười, phân biệt định loạn, hiểu biết phương cách đối trị. Đă được định ư th́ liền theo thông tuệ. Nếu được tính toán là rơi vào quán vậy.

Hỏi:

- Những ǵ là đếm?

- Đếm th́ gọi là sự việc. Ví như người có việc lại c̣n cầu t́m. Đó là tánh tội, c̣n đạo nhân th́ tính phước. V́ sao chính là số mười. Một ư khởi lên tính là một, hai ư khởi lên tính là hai... cuối cùng tính đến mười mà đến mười là hết nên nói rằng số mười là phước. Lại người có tội th́ do chẳng thể hủy hoại hơi thở nên là tội, cũng gọi là sinh tử của ư chẳng diệt. Rơi vào thế gian rồí chẳng cắt đứt việc thế gian là tội vậy. Sáu t́nh là sáu việc cùng thống dương, tư tưởng, sinh tử, thức hợp làm mười việc để ứng với mười hơi thở bên trong. Sát sinh, trộm cắp, dâm dật, lưỡng thiệt, ác khẩu, vọng ngôn, ỷ ngữ, tật đố, sân nhuế, ngu si ứng với mười hơi thở bên ngoài. Đó gọi là dừng chẳng hành vậy.

Hỏi:

- Những ǵ là mười sáu việc?

Đáp:

- Mười sáu việc là đếm đến mười sáu th́ gọi là sổ tức, tương tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh. Đó là mười sáu việc, là hành động chẳng rời khỏi, là theo đạo vậy.

Hỏi:

- Sổ tức nghĩ đến gió là theo sắc, th́ v́ sao ứng với đạo?

Đáp:

Hành ư tại đạo, đếm chẳng nghĩ đến sắc, hơi hết liền diệt. Rơí vào vô thường mà biết vô thường là đạo vậy. Đạo nhân muốn đạt đạo th́ cần phải biết hai việc ngồi, hành: một là ngồi, hai là hành.

Hỏi:

- Ngồi cùng hành là đồng hay chẳng đồng?

Đáp:

- Có lúc đồng có lúc chẳng đồng. Sổ tức, tương tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh, sáu việc này có khi là ngồi, có khi là hành. V́ sao? V́ sổ tức định ư đó là ngồi, ư theo pháp đó là hành. Đă khởi lên ư chẳng rời khỏi là hành, cũng là ngồi vậy. Pháp tọa thiền th́ một chẳng tính hai, hai chẳng tính một. Một mà tính hai là đếm một hơi thở chưa hết liền nói rằng hai th́ đó là một tính ra hai. Như vậy là vượt qua. Hai tính một là hơi thở đă vào là hai. Mà nói Ià một. Đó là hai tính một. Như vậy là đếm chẳng kịp. Từ ba đến bốn, năm đến sáu, bảy đến tám, chín đến mười đều tự có phân biệt sắp xếp, phải phân biệt sự tùy thuộc, ở một tính một, ở hai tính hai. Đó pháp thực hành theo tŕnh tự đi lên. Có ba cách ngồi tùy theo đạo:

1. Ngồi đếm hơi thở.

2. Ngồi tụng kinh.

3. Ngồi hoan hỷ nghe kinh.

Đó là ba vậy.

Ngồi có ba thứ:

1. Ngồi vị hợp.

2. Ngồi tịnh.

3. Ngồi không có kết.

Thế nào là ngồi vị hợp? Đó là ư đặt vào hành động chẳng rời, gọi là ngồi vị hợp.

Sao gọi là ngồi tịnh? Gọi ngồi chẳng niệm là ngồi tịnh.

Sao gọi là ngồi không có kết? Đó là kết sử đă hết, gọi là ngồi không có kết vậy.

Hơi thở có ba nhóm:

1. Hơi thở tạp.

2. Hơi thở tịnh.

3. Hơi thở đạo.

Chẳng làm đạo đó là hơi thở tạp. Đếm đến mười hơi thở chẳng loạn th́ đó là hơi thở tịnh. Đă được đạo th́ đó là hơi thở đạo vậy. Hơi thở lại có ba nhóm, có hơi thở lớn, có hơi thở trung, có hơi thở vi tế. Miệng có nói gọi là hơi thở lớn dừng, niệm đạo là hơi thở trung dừng, được Tứ thiền là hơi thở vi tế dừng vậy.

Hỏi:

- V́ sao Đức Phật dạy người đếm hơi thở để Thủ ư?

Đáp:

- Có bốn nhân duyên:

1. Do chẳng muốn đau.

2. Do tránh loạn ư.

3. Do đóng lại, chẳng muốn gặp gỡ sinh tử.

4. Muốn được đạo Nê-hoàn.

Ví như nói mặt trời không ánh sáng th́ có bốn nhân duyên:

1. Do có mây.

2. Do có bụi.

3. Do có gió lớn.

4. Do có khóí.

Đếm hơi thở chẳng được cũng có bốn nhân duyên:

1. Do niệm sinh tử tính toán.

2. Do ăn uống nhiều.

3. Do mệt mỏi cực nhọc.

4. Do ngồi chẳng được lại thêm gốc tội lỗi.

Bốn việc này đến đều có tướng. Ngồi đếm hơi thở mà bỗng nhiên nghĩ đến việc khác th́ làm mất đi ư của hơi thở, đó là tướng của niệm tính toán. Xương cốt đau hết chẳng thể ngồi lâu. Đó là tướng của ăn nhiều. Thân nặng nề, ư mơ màng chỉ muốn ngủ nghỉ, đó là tướng mệt mỏi. Ngồi măi mà chẳng đếm được một hơi thở th́ đó là tướng của gốc tội lỗi. Do biết tội phải kinh hành. Hoặc ngồi đọc kinh văn, ư chẳng tập quen tội th́ họa cũng tiêu tan vậy. Đạo nhân hành đạo phải nghĩ đến gốc. Những ǵ là gốc? Tâm, ư, thức, chính là gốc. Ba cái này đều chẳng thấy, sinh ra rồi liền diệt, ư gốc chẳng sinh ra lại, được ư này là đạo. Ư gốc của ư đă diệt th́ không có đau, lại thêm nhân duyên sinh liền cắt đứt vậy. Định ư càng ngày càng tiến bộ hơn. V́ định ư có lúc từ đếm hơi thở được, có lúc từ tương tùy được, có lúc từ chỉ được, có lúc từ quán được. Tùy theo nhân duyên được định ư mà trực tiếp tu hành. Hành hơi thở cũng rơi vào tham. V́ sao? V́ ư đă định th́ liền vui mừng nên liền chấp hơi thở ra, hơi thở vào. Khi niệm diệt, hơi thở sinh ra th́ thân sinh ra, hơi thở diệt th́ thân diệt, c̣n chưa thoát khỏi khổ sinh tử. V́ sao? V́ vui mừng rồi th́ cho là như vậy nên liền tham mà dừng lại vậy.

Đếm hơi thở muốn mau, tương tùy muốn chậm, có lúc đếm hơi thở phải chậm răi, có lúc tương tùy phải nhanh chóng. V́ sao? V́ đếm hơi thở mà ư chẳng loạn th́ phải chậm răi, đếm hơi thở mà ư loạn th́ phải là nhanh chóng. Tương tùy cũng đồng như vậy.

Đếm lần thứ nhất cũng khác với sở niệm của tương tùy! Tuy đếm hơi thở phải biết hơi ra vào, nhưng ư đặt ở tại số vậy.

Đếm hơi thở lại đi với tương tùy. Chỉ, quán là chẳng đếm được hơi thở v́ đời trước có tập quen tương tùy. Chỉ, quán tuy được tương tùy nhưng chỉ, quán phải trở lại từ việc đếm hơi thở mà khởi lên vậy.

Đếm hơi thở mà ư chẳng ĺa th́ đó là ĺa pháp, chẳng phải pháp. Đếm hơi thở th́ ư chẳng tùy theo tội. Ư ở tại thế gian th́ liền rơi vào tội lỗi vậy.

Đếm hơi thở là chẳng muốn ư loạn. Ư do chẳng loạn lại hành tương tùy th́ chứng tiếp ư cao hơn và biết là chỉ. Chỉ cùng quán đồng, hoàn cùng tịnh đồng vậy. Hành đạo được ư vi tế th́ phải đảo ư là phải trở lại đếm hơi thở.

Nếu đọc kinh rồi mới lại hành thiền mà ư vi tế th́ chẳng đếm hơi thở và hành tương tùy vậy.

Đức Phật có sáu ư thanh khiết là: Đếm hơi thở, tương tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh. Đó là sáu việc có thể chế ngự vô h́nh vậy. Hơi thở cũng là ư, cũng chẳng phải là ư. V́ sao? V́ khi đếm ư ở ngay tại hơi thở. Khi chẳng đếm th́ ư và hơi thở đều tự hoạt động. Đó là chẳng phải ư từ hơi thở sinh ra. Chỉ th́ không có ư vậy.

Có người chẳng sai khiến ư mà ư sai khiến con người. Người sai khiến ư là đếm hơi thở, tương tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh, niệm kinh ba mươi bảy phẩm, đó là sai khiến ư. Có người chẳng hành đạo, tham cầu theo dục th́ đó là ư sai khiến con người vậy. Hơi thở có hơi thở bẩn mà bẩn chẳng khử trừ th́ chẳng được hơi thở.

Những ǵ là dơ bẩn của hơi thở? Đó là ba thứ tối kịch liệt trong các tối, là cấu bẩn của hơi thở.

Những ǵ là ba tối? Đó chính là sự tối tăm trong thân khí ba độc khởi lên nên nói ba tối. Ba độc:

1. Tham dâm.

2. Sân nhuế.

3. Ngu si.

Con người đều v́ ba việc này mà chết nên nói là độc vậy.

Khi đếm hơi thở, ư ở tại đếm; khi hơi thở chưa đếm th́ có ba ư: Có ư thiện, có ư ác, có ư chẳng thiện chẳng ác. Người muốn biết đắc tướng hơi thở th́ phải quan sát muôn vật và những sắc đẹp, ư chẳng lại chấp trước th́ đó là đắc tướng hơi thở, c̣n ư lại chấp trước th́ đó là chưa đắc, phải lại tinh tấn.

Hành giả muốn trừ hết ư th́ phải biết là gọi sáu t́nh là nhà của ư, tham ái muôn vật đều là nhà của ư vậy. Tương tùy là gọi việc làm pháp thiện mà từ đó được giải thoát. Phải cùng với tương tùy, cũng gọi là chẳng theo năm ấm, sáu nhập. Hơi thở cùng ư theo nhau vậy.

Hỏi:

- Thứ ba là Chỉ v́ sao dừng ở đầu mũi?

Đáp:

- Do đếm hơi thở, tương tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh đều từ mũi ra vào. Ư quen chỗ cũ, cũng là dễ nhận biết. Do đó nên đặt ở đầu mũi vậy. Ác ư đến th́ cắt đứt là Thiền. Có lúc dừng lại ở đầu mũi, có lúc dừng lại ở trong tâm. Ở tại chỗ dừng lại là chỉ. Khi tà đến làm loạn ư người th́ Quán thẳng vào một việc, các ác đến tâm sẽ không động, v́ tâm chẳng sợ! Chỉ có bốn:

1. Số đếm.

2. Chỉ tương tùy.

2. Chỉ đầu mũi.

4. Chỉ dứt tâm.

Chỉ nghĩa là phải chế ngự làm dừng lại năm lạc, sáu nhập vậy.

Hơi thở vào đến hết, dừng ở đầu mũi, nghĩa là ác chẳng vào nữa, đến đầu mũi dừng lại.

Hơi thở ra đến hết th́ đặt ở đầu mũi, nghĩa là ư chẳng ĺa khỏi thân hành hướng theo ác nên đặt ở đầu mũi. Cũng có nghĩa là hơi thở khí mới vào, liền nhất niệm hướng về chẳng chuyển đổi, hơi thở ra vào cũng chẳng biết th́ đó là Chỉ vậy.

Chỉ là như hơi thở ra, hơi thở vào ư biết trước khi ra, chẳng biết sau khi ra. Hay biết trước là ư quan sát lẫn nhau, tức là xem xét hơi thở ra vào thấy suy bại, tức là thọ tướng sợ sinh tử, tức là khước từ ư, theo tướng đạo ư vậy.

Không tương tùy là chỉ đặt niệm ở đầu mũi, chẳng nghĩ đến nhân duyên năm ấm. Tội đoạn, ư diệt cũng chẳng thở mau. Đó là Chỉ vậy.

Không tương tùy nghĩa là không có ư niệm ra vào nữa, theo nhân duyên năm ấm, lại chẳng thở mau.

Thứ tư là Quán, khi quán hơi thở hoại cùng quán thân thể khác với hơi thở th́ thấy nhân duyên sinh, không có nhân duyên diệt. Tâm ư thọ tướng là ư muốn có sở đắc. Tâm cho là nhân duyên hội tụ th́ phải diệt vong, liền cắt đứt ư muốn, chẳng hướng đến nữa. Đó gọi là tâm ư thọ tướng.

Do nhận thức được nhân duyên mà cùng quan sát lẫn nhau, nghĩa là biết được nhân duyên năm ấm. Hơi thở ra cũng quán, hơi thở vào cũng quán mà quán nghĩa là quan sát năm ấm. Đó gọi là cùng quán, cũng ứng với ư và ư quan sát lẫn nhau, là nhân duyên đôi, ở bên trong cắt đứt ác mà niệm đạo vậy.

Quán hơi thở ra khác, hơi thở vào khác, nghĩa là hơi thở ra là sinh tử ấm, hơi thở vào là tư tưởng ấm. Có lúc hơi thở ra là thống dương ấm, hơi thở vào là thức ấm. Tùy theo nhân duyên khởi lên là thọ ấm. Chỗ hướng về của ư không có thường dùng, cho nên là khác. Đạo nhân nên phân biệt để biết, cũng gọi là hơi thở ra diệt, hơi thở vào sinh, hơi thở vào diệt, hơi thở ra sinh vậy. Không có nghĩa là ư người và ư vạn vật khởi lên rồi diệt, vật sống lại chết. Đó là không có vậy.

Chẳng phải hơi thở ra là hơi thở vào, chẳng phải hơi thở vào là hơi thở ra. Chẳng phải nghĩa là khi hơi thở ra th́ ư chẳng niệm hơi thở vào, khi hơi thở vào ư chẳng niệm hơi thở ra. Do sở niệm khác nên nói là chẳng phải vậy. Trung tín nghĩa là vào trong đạo thấy nhân duyên của đạo mà tin đạo. Đó là trung tín vậy.

Thứ năm là Hoàn bỏ kết, nghĩa là bỏ bảy ác của thân. Thứ sáu là Tịnh bỏ kết, nghĩa là bỏ ba ác của ư. Đó gọi là hoàn. Hoàn tức là ư chẳng khởi ác nữa. Ác là chẳng hoàn; Hoàn thân nghĩa là hoàn ác. Đạt được thứ năm là hoàn th́ c̣n có thân mà cũng không thân. V́ sao? V́ có ư th́ có thân, không ư th́ không thân. Ư là hạt giống của người. Đó gọi là hoàn.

Hoàn nghĩa là ư chẳng khởi ác. Khởi ác th́ đó là chẳng hoàn, cũng gọi là trước giúp thân, sau giúp ư. Chẳng sát, đạo, dâm, hai lưỡi, ác khẩu, nói dối, nói thêu dệt, đó là giúp thân. Chẳng tật đố, sân nhuế, ngu si, đó là giúp ư.

Hoàn ngũ ấm th́ ví như mua vàng mà được đá liền ném bỏ xuống đất chẳng dùng.  Con người tham ái năm ấm bị thống khổ liền chẳng muốn. Đó là hoàn ngũ ấm vậy.

Thế nào là thấy chỗ diệt tận?

Đó Ià không sở hữu. Đó là chỗ diệt.

Hỏi:

- Đă không sở hữu th́ v́ sao gọi là chỗ?

Đáp:

- Chỗ không sở hữu có bốn chỗ:

1. Loài chim lấy không trung làm chỗ.

2. La-hán lấy Nê-hoàn làm chỗ.

3. Đạo lấy không có làm chỗ.

4. Pháp ở tại chỗ quan sát vậy.

Hơi thở ra, hơi thở vào thọ tướng của năm ấm nghĩa là ư tà niệm mau chóng chuyển trở lại chánh niệm do sinh tỉnh giác mà cắt đứt thọ tướng năm ấm. Nói rằng thọ nghĩa là thọ tướng chẳng thọ vậy. Do thọ tướng năm ấm nên biết khởi ở đâu và diệt ở đâu.

Diệt là thọ mười hai nhân duyên. Con người từ mười hai nhân duyên sinh ra, cũng từ mười hai nhân duyên chết đi. Chẳng niệm là chẳng niệm năm ấm vậy. Biết khởi ở đâu, diệt ở đâu nghĩa là nhân duyên thiện ác khởi lên liền lại diệt đi, cũng gọi là thân, cũng gọi là hơi sinh diệt.

Niệm th́ sinh, chẳng niệm th́ diệt, ư cùng thân đồng đẳng nhau. Đó là cắt đứt đường sinh tử. Tại ṿng sinh tử này, tất cả việc ác đều từ ư đến vậy. Hôm nay chẳng trước kia, trước kia chẳng là hôm nay, nghĩa là niệm trước đă diệt th́ niệm bấy giờ chẳng phải là niệm trước đó. Cũng có nghĩa là việc làm dời trước và việc làm đời nay đều tự được phước riêng. Cũng có nghĩa là việc làm thiện hôm nay chẳng phải là việc làm ác trước kia. Cũng nghĩa là hơi thở bây giờ chẳng phải là hơi thở trước đó, hơi thở trước đó chẳng phải hơi thở bây giờ vậy. V́ sinh tử phân biệt tức là ư niệm sinh th́ liền sinh ra, ư niệm diệt th́ liền diệt đi nên nói rằng sinh tử. Phải phân biệt vạn vật và thân, phước quá khứ, vị lai đă hết.

V́ sao vậy? V́ hết là do sinh ra liền diệt, mà diệt th́ liền hết. Đă biết hết th́ phải tận lực cầu vậy. Nh́n lên đầu không sở tùng lai nghĩa là người không từ đâu đến mà ư khởi lên là người. Cũng nghĩa là người chẳng tự làm người đến, tức là có chỗ từ đó đến, người tự làm tự được, đó là vô sở tùng lai vậy. Sinh tử phải phân biệt, nghĩa là biết phân biệt năm ấm. Cũng nghĩa là biết phân biệt sinh tử của ư, ư của người là thường. Biết không có thường cũng là phân biệt vậy.

Nh́n sau không xứ sở là hiện tại hôm nay chẳng thấy tội v́ ở hội sinh tử sẽ bị tội, không có ai thoát khỏi tội. Nên nói rằng, nh́n sau không có xứ sở chưa được Đạo tích th́ không chết giữa chừng, nghĩa là phải được mười lăm ư, th́ chẳng chết nửa chừng. Cần phải được mười lăm ư mới vào Đạo, cũng chuyển lên đến A-la-hán vậy. Được đạo nửa chừng cũng chẳng được nửa chừng, mạng tận là hơi thở, ư, thân gồm ba việc. Đó là, ư thiện ác cần phải được Đạo tích (dấu đạo), nhưng cũng lại nửa chừng bị hủy hoại. Hơi thở chết lại sinh, ư thiện khởi lại diệt. Thân cũng chẳng bị chết nửa chừng.

Những ǵ là tịnh? Gọi những sự tham dục là chẳng tịnh, trừ khử tham dục th́ đó là tịnh.

Những ǵ là tướng của năm ấm? Ví như lửa là ấm th́ củí là tướng vậy. Từ hơi thở đến tịnh đó đều là quán, nghĩa là quán thân tương tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh vốn Ià không có. Ư bên trong đếm hơi thở, ư bên ngoài cắt đứt nhân duyên ác. Đó là hai ư vậy.

Hỏi:

- V́ sao chẳng quan sát thân thể trong ngoài trước mà ngược lại quán sổ tức, tương tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh trước?

Đáp:

- Do ư bất tịnh nên chẳng thấy thân, ư tịnh rồi liền thấy hết trong ngoài thân. Đạo có mười chín hạnh; do người có mười chín bệnh nên cũng có muời chín thứ thuốc: Quán thân nghĩ chất dơ, đó là thuốc ngừng tham dâm; nghĩ bốn Đẳng tâm đó Ià thuốc dừng sân nhuế. Tự kể vốn do nhân duyên ǵ mà có, đó là thuốc dừng ngu si.

An ban Thủ ư, đó là thuốc trị nghĩ nhiều. Tự quan sát thân thể trong ngoài: Ǵ là thân, ǵ là thể? Xương thịt là thân! Sáu t́nh hợp làm thể! Những ǵ là sáu t́nh? Đó là mắt hợp với sắc, tai nhận lấy tiếng, mũi t́m về hương, miệng muốn nếm vị, thân ưa mịn láng, ư là hạt giống, là si… là vật có sinh.

Thân thể trong ngoài, sở dĩ xuất hiện lại là ở đâu? Đó là con người tham cầu có lớn nhỏ, có trước sau. Nghĩa là cái muốn được phải phân biệt quán. Quán mà thấy là niệm. Niệm mà nhân quán thấy th́ tức là biết. Thân thể chỉ nghĩa là ngồi th́ niệm khởi, mà niệm khởi th́ ư chẳng rời. Chỗ mà đặt ư bám vào là thức. Đó là thân quán dừng vậy.

Lúc hơi thở ra, hơi thở vào mà niệm diệt th́ niệm diệt cái ǵ? Đó là khi niệm hơi ra vào hết, ư, hơi thở diệt là khi niệm hơi thở ra, hơi thở vào diệt. Ví như vẽ vào hư không th́ không có; ư sinh tử, ư đạo đều vậy cả. Khi niệm hơi thở ra, hơi thở vào diệt th́ cũng chẳng nói hơi thở và ư đă đến lúc diệt. Khi niệm hơi thở ra, hơi thở vào diệt th́ vật từ nhân duyên sinh ra mà chặt đứt gốc là lúc diệt vậy. Thống dương trong ngoài quan sát thấy tức là thấy chỗ khởi lên của thống dương. Đó là quan sát thấy vậy. Thống dương trong ngoài là: vật đẹp bên ngoài là ngoại dương, vật xấu bên ngoài là ngoại thống. Ư vừa ḷng bên trong là nội dương, ư chẳng vừa ḷng bên trong là nội thống. Ở bên trong là nội pháp, ở nhân duyên bên ngoài là ngoại pháp. Cũng gọi mắt là nội và sắc là ngoại, tai là nộí và tiếng là ngoại, mũi là nội và hương là ngoại, miệng là nội và vị là ngoại, tâm là nội và niệm là ngoạí. Thấy sắc đẹp mịn màng ư muốn được th́ đó là dương, thấy thô xấu ư chẳng thích dụng th́ đó là thống, đều rơi vào tội lỗi vậy. Thống dương quán chỉ là, như người đau tay, ư chẳng nghĩ đau mà ngược lại nghĩ cái đau của tất cả thân khác. Như vậy đó ư chẳng ở tại chỗ đau, là ngưng đau. Cũng có thể nghĩ, cũng chẳng thể nghĩ, nghĩ đau không chỗ bám. Tự yêu thân th́ phải quan sát thân người khác. Ư yêu thân người khác th́ phải tự quan sát thân cũng là chỉ vậy.

Thống dương trong ngoài sở dĩ xuất hiện lại là tại sao? Đó là người thấy sắc yêu thích có mỏng có dày. Ư họ chẳng xem ngang bằng nhau, nhiều với ít có khác, lại phân biệt, quán đạo th́ nên quan sát bên trong; có sự si mê th́ phải quan sát bên ngoài để tự chứng nghiệm vậy. Thân, tâm, thống dương đều tự khác. Bị lạnh, nóng, dao, gậy làm cho đau th́ đó là thân thống. Được cơm ăn ngon, xe chở, áo đẹp... những tiện nghi của thân th́ đó là thân dương. Tâm Thống là thân tự lo, lại lo cho người khác và muôn việc th́ đó là tâm thống. Ḷng được sự tốt đẹp và những điều hoan hỷ th́ đó là tâm dương vậy. Quán tưởng của ư th́ có hai nhân duyên: ở bên trong cắt đứt ác niệm đạo.

Một là năm dục, sáu suy phải chế ngự và cắt đứt. Quán là tự quan sát thân mà thân chẳng biết to nhỏ. Do biết được mới hiểu, đó là Ư Ư quan sát nhau. Ư Ư quan sát nhau th́ hơi thở cũng là ư, đếm cũng là ư. Khi đếm quan sát hơi thở là Ư Ư quan sát nhau vậy. Ư quán chỉ là, muốn chế ngự dâm chẳng làm, muốn chế ngự sân nhuế chẳng nổi giận, muốn chế ngự ngu si chẳng tạo tác, muốn chế ngự tham chẳng cho cầu các việc ác, tất cả chẳng hướng đến. Đó là quán Chỉ. Cũng nghĩa là do biết kinh Ba mươi bảy phẩm thường niệm chẳng rời là Chỉ vậy. Hơi thở ra, hơi thở vào hết định liền quán là, hết nghĩa là tội hết, định nghĩa là hơi thở dừng. Định, quán nghĩa là quán chỉ, hoàn, tịnh vậy. Tận chỉ nghĩa là ta có thể nói là hiểu, là khắp cùng, là đổi. Đó là tận chỉ vậy. Hơi thở khởi lên như bố thí, làm phước, tất cả thiện pháp đă khởi rồi liền diệt. Lại ư nghĩ tà, hướng đến thói quen gây tội cũng vô số; ư đời xưa, đời nay chẳng tương tùy như vậy và người khác cũng vậy, đă hay biết th́ phải cắt đứt. Đă cắt đứt th́ tức là ư trong ngoài, ư quán dừng.

Pháp trong ngoài, pháp trong gọi thân, pháp ngoài là người khác, có pháp tŕ giới, có pháp chẳng tŕ giới. Đó là pháp trong và ngoài vậy. Pháp trong nghĩa là tu hành thông suốt chẳng rời kinh Ba mươi bảy phẩm, tất cả việc c̣n lại, ư chẳng vướng vào trong đó.

Làm đạo đạt được đạo. Đó là nội pháp. Ngoại pháp là rơi vào sinh tử, là tạo sinh tử nên bị sính tử chẳng thoát khỏi. Tất cả phải cắt đứt, mà cắt đứt rồi là quán nội ngoại pháp. Pháp Quán dừng là, mọi người đều cho tự thân là thân, nhưng suy tính kỹ càng th́ chẳng phải là thân của ta. V́ sao? V́ thân có mắt, có h́nh sắc mà mắt cũng chẳng phải là thân, sắc cũng chẳng phải là thân. V́ sao? V́ người đă chết dù có mắt cũng không thấy ǵ, cũng có h́nh sắc nhưng không phản ứng ǵ.

Thân như vậy chỉ có thức, mà thức cũng chẳng phải là thân. V́ sao? V́ thức không có h́nh sắc, cũng không có sự ngưng nhẹ, như vậy kể về mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư cũng vậy. Được vậy là pháp quán ngưng, cũng gọi chẳng nghĩ ác là ngưng, c̣n niệm ác là chẳng ngưng. V́ sao? V́ ư tạo tác vậy.

 

PHẬT THUYẾT ĐẠI AN BAN THỦ Ư KINH

 QUYỂN HẠ

Hơi thở ra, hơi thở vào tự hiểu, hơi thở ra, hơi thở vào tự biết. Đang lúc ấy là hiểu, về sau là biết. Hiểu là hiểu hơi thở dài, ngắn. Biết là biết hơi thở sinh, diệt, thô, tế, chậm, mau. Hơi thở ra, hơi thở vào hiểu hết tâm là hay biết hơi thở ra vào, lúc muốn báo là hết, cũng cho là thân, muôn vật sinh lại diệt. Tâm là tâm Ư. Thấy quán rỗng khôn là, hành đạo được quán, chẳng c̣n thấy thân th́ liền rơi vào trống rỗng. Không sở hữu là ư không có chỗ bám. Ư có chỗ bám là do có chỗ. Cắt đứt sáu nhập liền được hiền minh. Hiền gọi là thân, minh gọi là đạo vậy. Biết chỗ nào ra, chỗ nào diệt là ví như nghĩ về đá, đá ra, gỗ vào th́ đá liền diệt. Năm ấm cũng vậy, sắc ra thống dương vào, thống dương ra tư tưởng vào, tư tưởng ra sinh tử vào, sinh tử ra thức vào. Đă phân biệt thế mới theo kinh Ba mươi bảy phẩm.

Hỏi:

- Thế nào là tư duy đạo vô ví?

Đáp:

- Tư là tính toán, duy là nghe. Vô là chẳng nghĩ đến muôn vật, vi là đúng như lời nói làm, đạo là được, nên nói rằng, tư duy đạo vô vi vậy. Tư là nghĩ, Duy là phân biệt trắng đen. Đen là sinh tử, trắng là đạo. Đạo không sở hữu mà đă phân biệt không sở hữu th́ không làm ǵ, nên nói rằng tư duy đạo vô vi. Nếu chấp có việc làm, chỗ bám víu là chẳng phải tư duy. Tư cũng là vật, duy là hiểu ư; hiểu ư th́ liền biết mười hai việc nhân duyên. Cũng gọi tư là nghĩ, duy là suy xét vậy. Cắt đứt sinh tử được thần túc, nghĩa là ư có nghĩ là sinh, không nghĩ là chết. Được thần túc th́ có thể bay đi nên nói rằng sinh tử phải cắt đứt.

Được thần túc có năm ư:

1. Hỷ.

2. Tin.

3. Tinh tấn.

4. Định.

5. Thông.

Niệm bốn Thần túc chẳng tận lực th́ được năm thông, niệm tận lực th́ tự tại hướng đến sáu thông. Làm đạo nhân bốn Thần túc được năm thông, nếu tận ư có thể được sáu thông. Tận ư nghĩa là ư muôn vật chẳng muốn vậy.

1. Tín.

2. Tinh tấn.

3. Ư.

4. Định.

5. Thông tuệ.

Năm việc này là bốn Thần túc. Niệm là lực gồm có sáu việc. Theo Tín là thuộc về niệm bốn Thần túc. Theo Hỷ, theo Níệm, theo Tinh tấn, theo Định, theo Tuệ th́ thuộc năm căn vậy. Theo Hỷ định gọi là Tín đạo, theo Lực định gọi là Tinh tấn, theo Ư định gọi là Ư niệm định, theo Thí định gọi là hành đạo vậy. V́ gieo trồng nên có gốc, việc hữu vi đều là ác, sinh ra tư tưởng chẳng thể thắng được, nghĩa là đắc thiền th́ nhận chính là lực, cũng nghĩa là ác chẳng thể thắng thiện. V́ diệt lại khởi lên nên là lực. Lực định th́ ác ư muốn đến chẳng thể hoại được thiện ư nên là lực định vậy.

Đạo nhân hành đạo chưa đắc Quán th́ phải nỗ lực đắc quán. Đối với đối tượng quán, mà ư chẳng chuyển là đắc quán. Dừng ác là một pháp, ngồi thiền quán hai pháp, có khi quán thân, có khi quán ư, có khi quán hơi thở, có khi quán có, có khi quán không… tại nơi nhân duyên nên phân biệt quán. Dừng một pháp ác, quán hai pháp ác cho đến hết - Chỉ quán là quán đạo. Ác chưa hết chẳng thấy đạo, ác đă hết rồi mới được nh́n thấy đạo vậy. Dừng một pháp ác là biết có thể ngăn chận tất cả ác; chẳng chấp trước ư là Chỉ, cũng là được sổ tức, tương tùy, chỉ. Được sổ tức, tương tùy, chỉ tức là dừng một pháp ác, mà ác đă dừng th́ liền được quán, là quán hai pháp, là được bốn Đế, là hành tịnh. Sẽ lại tác tịnh là biết khổ th́ bỏ tập, biết tận th́ hành đạo, như khi mặt trời mọc th́ tịnh chuyển ra mười hai cửa.

Kinh nói rằng, theo đạo th́ được giải thoát, trừ tối thấy sáng như khỉ mặt trời mọc. Ví như mặt trời mọc thấy được nhiều nơi v́ loại bỏ bóng tối, mà tối là khổ. V́ sao biết nó là khổ? V́ có nhiều sự ngăn ngại nên biết là khổ.

Thế nào là bỏ tập? Đó là chẳng tạo tác sự việc.

Thế nào là chứng tận? Đó là không sở hữu. Đạo là nhận thức rơ Khổ, cắt đứt Tập, chứng Tận và niệm Đạo. Bất từ khổ sinh, chẳng bị khổ th́ cũng không có thức. Đó là Khổ. Chứng tận là biết người đều phải già, bệnh, chết. Chứng là biết vạn vật đều phải diệt. Đó là chứng tận. Ví như mặt trời mọc làm bốn việc:

1. Trừ tối như là trí tuệ có thể hoại ngu si.

2. Chiếu sáng, nghĩa là ngu si trừ rồỉ chỉ c̣n trí tuệ.

3. Thấy sắc muôn vật là thấy những chất dơ bẩn của thân.

4. Thành thục muôn vật.

Giả sử không có mặt trời, mặt trăng th́ vạn vật chẳng thành thục. Con người không có trí tuệ th́ ư ngu si chẳng bị nấu chín. Phần làm đầu tiên trên đều làm là, việc làm khi đă làm th́ chẳng phân biệt nói. Nghĩa là hành năm điều đúng. Niệm, thân, tâm đều làm. Theo Đế niệm pháp, ư bám vào trong pháp, theo Đế niệm pháp mà ư bám vào sở niệm phát sinh th́ cầu sinh tử, được sinh tử, cầu Đạo được đạo, trong ngoài tùy theo sự sinh khởi của ư. Đó là Niệm pháp.

Ư bám vào pháp là, từ bốn Đế tự biết ư sinh ra là sẽ được, chẳng sinh là chẳng được, liền khước từ ư, sợ chẳng dám phạm. Sở hành, sở niệm luôn ở tại đạo. Đó là ư bám trong pháp vậy. Đó gọi là pháp chính từ đế khởi lên, vốn bám vào ư. Pháp chính th́ gọi là Đạo pháp. Từ đế tức là bốn Đế. Vốn khởi bám vào ư, nghĩa là vạn sự hướng về sinh tử đều vốn từ ư khởi lên, liền bám vào ư, liền có ư do năm ấm khởi lên cần phải cắt đứt mà gốc cắt đứt th́ năm ấm liền cắt đứt. Có lúc tự cắt đứt chẳng niệm, ư tự khởi lên là tội lỗi.

Lại nữa, chẳng định tại đạo là tội chưa hết vậy. Ư bám vào pháp nghĩa là sự thật ư niệm muôn vật là nằm ngoài pháp, trong ư chẳng niệm muôn vật là đưa đến đạo pháp. Năm ấm là pháp sinh tử, kinh Ba mươi bảy phẩm là đạo pháp. Ư bám vào trong pháp nghĩa là chế ngự năm ấm chẳng phạm, cũng nghĩa là thường niệm đạo chẳng rời. Đó là ư bám vào trong pháp. Cái gốc chính là, cái ở bên ngoài là vật, gốc là phước ở bên trong, gồm lại là kinh Ba mươi bảy phẩm. Hành đạo chẳng phải là đầu mối nhất thời nên nói đến cái gốc, nghĩa là tu hành kinh pháp Ba mươi bảy phẩm. Như theo thứ lớp mà hành, ư chẳng vào tà là chính nên gọi là cái gốc chính. Cái gốc chính đều tự hành khác, dùng vô vi đối với gốc, dùng chẳng cầu là đối với chính, dùng vô vi là đối với vô vi, dùng chẳng thường là đối với đạo, dùng không có là đối với cái không có, cũng không có gốc, cũng không có chính, là không sở hữu. Định Giác thọ thân! Như vậy pháp nói đạo nghĩa là pháp định. Nói đạo nghĩa là nói từ nhân duyên được đạo. Thấy ấm thọ tức là thọ năm ấm. Có vào tức là vào trong năm ấm. Nhân có sính tử ấm tức là thọ chính. Chính là đạo tự chính, chỉ phải tự chính tâm vậy. Người hành An ban Thủ ư được sổ tức, được tương tùy, được chỉ th́ liền hoan hỷ. Bốn thứ này ví như dùi lửa thấy khói th́ chẳng thể làm chín được vật. Được những vui ǵ cho là chưa được xuất yếu?

An ban Thủ ư có mười tám phiền năo khiến cho người chẳng theo đạo:

1. Ái dục.

2. Sân nhuế.

3. Si.

4. Hư lạc.

5. Mạn.

6. Nghi.

7. Chẳng thọ hành tướng.

8. Thọ tướng người khác.

9. Chẳng niệm.

10. Niệm khác.

11. Niệm chẳng đầy.

12. Quá tinh tấn.

13. Tinh tấn bất cập.

14. Kinh sợ.

15. Ư cưỡng chế.

16. Lo.

17. Vội vàng.

18. Ư hành ái chẳng điều độ.

Đó là mười tám phiền năo. Chẳng hộ mười tám nhân duyên này th́ chẳng được đạo, nếu hộ th́ liền được đạo vậy.

Chẳng thọ hành tướng nghĩa là chẳng quan sát ba mươi sáu vật, chẳng niệm ba mươi bảy phẩm. Đó là chẳng thọ hành tướng. Thọ tướng người khác nghĩa là chưa được mười hơi thở liền hành tương tùy. Đó là thọ tướng người khác. Niệm khác là khi hơi thở vào nghĩ hơi thở ra, khi hơi thở ra nghĩ hơi thở vào. Đó là niệm khác. Niệm chẳng đầy nghĩa là chưa được nhất thiền liền nghĩ nhị thiền. Đó là niệm chẳng đầy. Ư cưỡng chế nghĩa là ngồi mà loạn ư chẳng được hơi thở th́ phải kinh hành, đọc kinh để loạn chẳng khởi. Đó là cưỡng chế ư. Tinh tấn là v́ trí tuệ mà theo sáu việc này, đó là sổ tức, tương tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh. Đó là sáu vậy.

Cái ǵ là thở? Cái ǵ là hơi thở? Cái ǵ là hơi? Cái ǵ là lực? Cái ǵ là gió?

Chế tức là ư, hơi thở là mạng, thủ là hơi, là thấy nghe gió, là lực có thể nói năng co duỗi theo đạo, là có thể cử động sân nhuế nặng. Cốt yếu là từ thủ ư được đạo.

Do duyên ǵ được thủ ư? Do từ đếm, chuyển được hơi thở; hơi thở chuyển th́ tương tùy. Chỉ, quán, hoàn, tịnh cũng lại như vậy.

Hành đạo muốn được chỉ ư phải biết ba việc:

1. Trước quán niệm thân vốn từ đâu lại? Nếu nó chỉ từ năm hành ấm mà có th́ chặt đứt năm ấm, nó chẳng sinh lại. Ví như kư thác giây lát vậy. Ư chẳng hiểu th́ niệm chín đường để tự chứng.

2. Tự phải nh́n thấy bên trong tâm theo hơi thở ra vào trong tâm.

3. Khi hơi thở ra, hơi thở vào mà niệm diệt th́ hơi thở ra nhỏ và nhẹ. Khi niệm diệt th́ những ǵ là biết không sở hữu? Ư định tức thời biết rỗng không, mà biết rỗng không th́ liền biết không sở hữu. V́ sao? V́ hơi thở chẳng đáp lại là liền chết. Biết thân chỉ là sở tác của khí hơi, mà khí hơi diệt là rỗng không. Biết rỗng không là đưa vào đạo. Vậy nên hành đạo có ba việc:

1. Quán thân.

2. Niệm nhất tâm.

3. Niệm hơi thở ra vào.

Lại có ba việc nữa:

1. Ngưng thống dương của thân.

2. Ngưng âm thanh của miệng.

3. Ngưng niệm hành của ư.

Sáu việc này mau chóng được hơi thở vậy.

Kinh cốt yếu nói nhất niệm nghĩa là nhất tâm, căn niệm nghĩa là xét thân, đa niệm nghĩa là nhất tâm, chẳng ĺa niệm nghĩa là chẳng ĺa niệm. Thân làm bốn việc này liền  mau chóng được hơi thở vậy.

Ngồi thiền đếm hơi thở tức thời định ư, đó là phước hiện nay; yên ổn chẳng loạn, đó là phước vị lai; càng lâu càng thêm an định, đó là phước quá khứ.

Ngồi thiền đếm hơi thở mà chẳng được định ư, đó là tội hiện nay; chẳng yên ổn, ư loạn đang khởi lên, đó là tội đương lai.

Ngồi thiền càng lâu mà chẳng an định th́ đó là tội quá khử vậy. Đó cũng có lỗi của thân, có lỗi của ư.

Thân đếm hơi thở đúng mà chẳng được th́ đó là lỗi của ư.

Thân đếm hơi thở quanh co chẳng được th́ đó là lỗi của thân. Tọa thiền tự giác được đỉnh ư, ư vui mừng là ư loạn, chẳng vui mừng là ư đạo.

Ngồi thiền niệm hơi thở đă dừng liền quán, quán dừng lại hành hơi thở. Người hành đạo phải lấy đó làm thường pháp vậy.

Đức Phật nói có năm niềm tin:

1. Tin có Phật có kinh.

2. Bỏ nhà, xuống tóc cầu đạo.

3. Ngồi hành đạo.

4. Được hơi thở.

5. Định ư.

Cái niệm chẳng niệm là không, khó chẳng niệm là không th́ v́ sao niệm hơi thở?

Đáp rằng:

- V́ trong hơi thở không có năm sắc: Tham, dâm, sân nhuế, ngu si, ái dục. Đó cũng là rỗng không. Có thể thủ ư trong thân nghĩa là quan sát ư tại thân. Đó là ư trong thân. Người chẳng thể chế ngự ư nên phải đếm hơi thở. Do thông tuệ có thể chế ngự ư th́ chẳng đếm hơi thở.

Hỏi:

- Thế nào là tự biết? Thế nào là tự chứng?

Đáp:

- Có thể phân biệt năm ấm th́ đó là tự biết. Chẳng nghi ngờ đạo, đó là tự chứng.

Hỏi rằng:

- Những ǵ là vô vi?

Đáp:

- Vô vi có hai nhóm, có ngoại vô vi, có nội vô vi. Mắt chẳng xem sắc, tai chẳng nghe tiếng, mũi chẳng thọ hương, miệng chẳng nếm vị, thân chẳng tham trơn mịn, ư chẳng vọng niệm, đó là ngoại vô vi. Đếm hơi thở, tương tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh đó là nội vô vi.

Hỏi:

- Hiện có sở niệm th́ v́ sao là vô vi?

Đáp:

- Thân, miệng là giới, ư hướng về đạo. Tuy có sở niệm nhưng vốn hướng đến vô vi.

Hỏi:

- Những ǵ là vô? Những ǵ là vi?

Đáp:

- Vô, nghĩa là chẳng niệm muôn vật, vi là theo sự hành chỉ của kinh mà xưng danh nên gọi là Vô vi vậy.

Hỏi:

- Giả sử quả báo đời trước đến phải lấy ǵ trừ?

Đáp:

- Hành đếm hơi thở, tương tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh hay niệm kinh Ba mươi bảy phẩm th́ có thể trừ nạn.

Hỏi:

- Quả báo đời trước chẳng thể trừ bằng cách đếm hơi thở, hành kinh Ba mươi bảy phẩm th́ lấy ǵ có thể trừ?

Đáp:

- Dùng niệm đạo nên tiêu ác. Giả sử đếm hơi thở, tương tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh chẳng thể diệt ác th́ người thế gian chẳng đắc đạo. Do tiêu ác nên đắc đạo. Đếm hơi thở, tương tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh, hành kinh Ba mươi bảy phẩm c̣n được thành Phật huống ǵ là quả báo của tội. Cho dù tại mười phương chứa tội như núi mà tinh tấn hành đạo th́ chẳng bị tội nữa.

Hỏi rằng:

- Kinh nói rằng, làm thế th́ v́ sao chẳng bị tội?

Đáp:

- Do làm như thế nên Sổ tức rơi vào mười hai phẩm. Những ǵ là mười hai phẩm? Khi sổ tức th́ đạt đến bốn Ư chỉ. Khi hơi thở chẳng loạn th́ đạt đến bốn Ư đoạn, có khi được mười hơi thở th́ đạt được bốn Thần túc. Đó là đạt đến mười hai phẩm.

Hỏi:

- Những ǵ là niệm kinh Ba mươi bảy phẩm?

Đáp:

- Sổ tức, tương tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh, sáu việc này chính là niệm kinh Ba mươi bảy phẩm vậy. Hành sổ tức cũng là hành kinh Ba mươi bảy phẩm.

Hỏi:

- V́ sao hành kinh Ba mươi bảy phẩm?

Đáp:

- Đếm hơi thở th́ đạt đến bốn Ư chỉ. V́ sao đạt đến bốn Ư chỉ, cũng đạt đến bốn Ư đoạn? V́ chẳng đợi niệm, v́ sao bốn Ư đoạn cũng đạt đến bốn Thần túc? V́ từ Tín nên là thần túc.

Đếm hơi thở là để đạt đến tín căn, do tin Phật, ư vui mừng nên sinh ra tín căn. Nó cũng lọt vào năng căn, v́ ngồi tu hành căn nên lọt vào năng căn. Nó cũng đưa đến thức căn, do biết Đế nên là thức căn. Nó cũng đưa đến định căn, do ư an nên là định căn. Nó cũng đưa đến căn thông tuệ, do ĺa khỏi ư si, giải được kết sử nên là căn thông tuệ vậy. Sổ tức cũng đưa đến tín lực, do chẳng si nên là tín lực. Nó cũng đưa đến tiến lực, do tinh tiến nên là tiến lực. Nó cũng đưa đến niệm lực, do những ư khác chẳng thể làm rối loạn nên là niệm lực. Nó cũng đưa đến định lực, do nhất tâm nên là định lực. Nó cũng đưa đến trí tuệ lực, do trước phân biệt bốn Ư chỉ, đoạn, thần thế nên là lực thông tuệ.

Đếm hơi thở cũng đưa đến giác ư, do biết khổ nên là giác ư. Nó cũng đưa đến pháp thức giác ư, do biết nhân duyên đạo nên là pháp thức giác ư. Nó cũng đưa đến lực giác ư, do bỏ ác nên là lực giác ư. Nó cũng đưa đến ái giác ư, do ham thích đạo nên là ái giác ư. Nó cũng đưa đến tức giác ư, do ư chỉ nên là tức giác ư. Nó cũng đưa đến định giác ư, do chẳng niệm nên là định giác ư. Nó cũng đưa đến thủ giác ư, do hành chẳng rời khỏi nên là thủ giác ư.

Sổ tức cũng đưa đến tám hạnh, do ư chính nên vào tám hạnh: Định ư, từ tâm, niệm tịnh pháp th́ đó là thân ngay thẳng. Lời chí thành, lời mềm mỏng, lời ngay thẳng, lời chẳng nói lại th́ đó là lời ngay thẳng. Tuệ tại ư, tin tại ư, nhẫn nhục tại ư th́ đó là tâm ngay thẳng. Đó gọi là dùng hơi thở của tiếng, thân, tâm. Đó là mười việc lành đưa đến hạnh lành.

Sổ tức cũng đưa đến thấy đúng đắn, do quan sát Đế nên thấy đúng đắn. Nó cũng đưa đến hành đúng đắn, do hướng về đạo nên hành đúng đắn. Nó cũng đưa đến sửa trị đúng đắn do hành kinh Ba mươi bảy phẩm nên sửa trị đúng đắn. Nó cũng đưa đến ư ngay thẳng do niệm đế nên ư ngay thẳng đúng đắn. Nó cũng đưa đến định đúng đắn, do ư trắng trong phá hoại ma binh nên định đúng đắn. Đó là tám hạnh.

Những ǵ là ma binh? Sắc, thanh. hương, vị, xúc, đó là ma binh. Chẳng nhận những thứ đó là hoại ma binh. Ba mươi bảy phẩm nên thu lấy. Tự quán thân, quán thân người khác dừng dâm, chẳng loạn ư, dừng những ư khác. Tự quán thống dương, quán thống dương người khác dừng sân nhuế. Tự quán ư, quán ư người khác dừng ngu si. Tự quán pháp, quán pháp người khác được đạo. Đó gọi là bốn Ư chỉ.

Tránh thân là tránh sắc, tránh thống dương là trán năm dục, tránh ư là tránh niệm, tránh pháp, chẳng rơi vào víệc mưu sinh. Đó gọi là bốn ư niệm đoạn vậy.

Nhận thức khổ vốn là khổ; khổ là do có thân, từ khổ làm nhân duyên sinh khởi muôn vật. Khổ tập vốn là khổ, từ khổ làm nhân duyên sinh ra. Tận là muôn vật đều phải bại hoại, là tăng thêm khổ tập, lại đưa đến tám đường. Đạo nhân phải niệm tám đường này, đó gọi là bốn, v́ thu bốn khổ, nên được bốn Thần túc.

Tin Phật, ư vui mừng th́ đó gọi là tín căn, v́ tự thủ hành pháp. Từ Đế thọ thân ư, đó gọi là năm căn, v́ tinh tấn. Từ Đế niệm theo Đế th́ đó gọi là Thức căn, v́ thủ ư. Nhất ư theo Đế, nhất ư theo Đế dừng lại th́ đó gọi là Định căn, v́ chính ư. Từ Đế quan sát Đế th́ đó gọi là tuệ căn, v́ đạo ư. Đó gọi là năm căn.

Từ Đế tin chẳng nghi nữa th́ gọi là Tín lực, bỏ tham hành đạo. Từ Đế tự tinh tấn, ác ư chẳng thể bại hoại tinh tấn th́ đó gọi là Tấn lực, ác ư muốn khởi tức thời diệt. Từ Đế ư này không có khả năng hoại ư th́ đó gọi là Niệm lực. Từ Đế quan sát trong ngoài để định th́ ác ư chẳng thể hoại thiện ư, đó gọi là Định lực.

Từ Đế niệm bốn Thiền được tuệ, ác ư chẳng thể hoại ư tuệ th́ gọi là lực tuệ, niệm ra vào hết lại sinh ra. Đó gọi là năm Lực vậy.

Từ Đế niệm Đế th́ gọi là Giác ư, được ư đạo. Từ Đế quan sát Đế gọi là pháp thức giác ư, được sinh tử ư. Từ Đế giữ thân ư th́ gọi là Lực giác ư, giữ đạo chẳng mất là lực. Từ Đế đủ hỷ Đế th́ gọi là Ái giác ư, tham hạnh đạo pháp, làm đạo pháp. Từ Đế mà ư được ngưng nghỉ th́ đó gọi là Tức giác ư, đă nghỉ rồi là yên ổn. Từ Đế mà ư nhất niệm th́ gọi là Định giác ư, tự biết ư đă an định. Từ Đế ư tự tại sở hành theo quán th́ gọi là Thủ giác ư. Từ bốn Đế quan sát ư th́ đó là bảy Giác ư. Từ Đế thủ Đế th́ gọi là trực tín đạo. Từ Đế theo thẳng hành Đế th́ đó gọi là trực tùng hành niệm đạo. Từ Đế giữ thân ư th́ gọi là trực trị pháp. Chẳng muốn rơi vào bốn ác. Bốn ác nghĩa là bốn điên đảo. Từ Đế niệm Đế th́ gọi là trực ư, chẳng loạn ư. Từ Đế mà ư nhất tâm th́ gọi là trực định, là nhất tâm làm đầu, là ba hạnh pháp ư đều hành bằng âm thanh, thân, tâm giống như tám hạnh của đệ tử Đức Phật. Đó gọi là bốn Thiền, là bốn Ư đoạn vậy. Tám hạnh là:

1. Trực niệm thuộc về tâm, thường niệm đạo.

2. Trực ngữ thuộc về miệng, đoạn bốn ư.

3. Trực quán thuộc về thân, quan sát trong ngoài thân.

4. Trực kiến, tin đạo.

5. Trực hành, chẳng theo bốn ác là bốn điên đảo.

6. Trực trị, đoạn trừ ư.

7. Trực ư, chẳng rơi vào tham dục.

8. Trực định, chính tâm.

Đó là tám hạnh mà Phật, Bích-chi-phật, A-la-hán chẳng hành vậy.

Hạnh thứ nhất là trực niệm. Thế nào là trực niệm? Nghĩa là chẳng niệm muôn vật, ư chẳng rơi vào trong đó. Đó là trực niệm. Niệm vạn vật mà ư rơi vào trong đó là chẳng trực niệm vậy. Bốn Ư chỉ:

1. Ư dừng, thân niệm hơi thở.

2. Ư dừng, niệm thống dương.

3. Ư dừng, niệm hơi thở vào ra.

4. Ư dừng, niệm pháp nhân duyên.

Đó là bốn Ư chỉ.

Đạo nhân phải niệm bốn Ư chỉ này.

1. Ta đời trước ái thân nên chẳng được giải thoát.

2. Nay có oán gia kịch liệt. V́ sao? V́ có sở dục nên ái sính, nên phải đoạn dứt mà đoạn rồi là bên ngoài thân quán chỉ vậy.

Bốn Ư chỉ:

1. Ư chỉ là ư chẳng tại thân là chỉ.

2. Ư chẳng tại thống dương là chỉ.

3. Ư chẳng phải tại ư là chỉ.

4. Ư chẳng tại pháp là chỉ.

Ư theo sắc th́ thức liền sinh ra th́ đó là chẳng chỉ.

Hỏi:

- Người v́ sao chẳng đạt được bốn Ư chỉ?

Đáp:

- Do người chẳng niệm khổ, không, phi thân, bất tịnh nên chẳng đạt bốn Ư chỉ. Nếu ư người thường niệm khổ, không, phi thân, bất tịnh mà thường niệm bốn việc này chẳng rời khỏi, th́ liền mau chóng được bốn Ư chỉ vậy.

Hỏi:

- Thế nào là ư chỉ của thân?

Đáp:

- Niệm bệnh, già, chết là ư chỉ của thân.

Thế nào là ư chỉ của thống dương? Điều chẳng vừa ư chính là ư chỉ của thống dương.

Thế nào là ư chỉ của ư? Niệm rồi lại niệm là ư chỉ của ư.

Thế nào là ư chỉ của pháp? Đó là thời gian qua làm, báo trở lại là pháp, cũng gọi làm điều đó, được điều đó, đó là pháp ư chỉ.

Bốn Ư chỉ có bốn nhóm:

1. Niệm phi thường ư chỉ.

2. Niệm thân khổ ư chỉ.

3. Niệm “hữu” “không” ư chỉ.

4. Niệm bất tịnh lạc ư chỉ.

Tất cả việc thiên hạ đều đưa đến sự thống dương của thân tùy theo pháp đều chẳng qua khỏi bốn việc này.

Bốn Ư chỉ:

1. Chỉ có niệm hơi thở, chẳng tà niệm.

2. Chỉ niệm thiện chẳng niệm ác.

3. Tự niệm thân chẳng phải ngă, vạn vật đều chẳng phải ngă sở nên chẳng hướng theo nữa.

4. Mắt chẳng nh́n mà ư ở tại trong pháp.

Đó gọi là bốn Ư chỉ vậy.

Đạo nhân phải hành bốn Ư chỉ:

1. Nhăn sắc phải xem là đồ bất tịnh trong thân.

2. Khi ư vui mừng niệm lạc th́ phải niệm cái khổ cảm thọ.

3. Ư ta sân th́ ư người khác cũng sân, ư ta chuyển th́ ư người khác cũng chuyển nên liền chẳng chuyển ư.

4. Ư ta ganh ghét th́ ư người khác cũng ganh ghét, ta nghĩ người khác xấu th́ người khác cũng nghĩ ta xấu nên liền chẳng nghĩ.

Đó là pháp vậy.

Thân ư chỉ là tự quan sát thân, quan sát thân người khác. Cái ǵ là thân? Muốn nói thống dương là thân th́ thống không có số (tính). Muốn nói ư là thân th́ lại chẳng phải thân có ư quá khứ, ư vị lai. Muốn nói pháp là thân th́ lại chẳng phải thân có pháp quá khứ, pháp vị lai. Muốn nói hành là thân mà hành không có h́nh th́ biết là chẳng phải thân. Đạt được sự suy nghĩ này là bốn Ư chỉ vậy. Ư chẳng theo sắc th́ niệm thức cũng chẳng sinh. Tai, mũi, miệng, thân cũng vậy. Ư chẳng tại thân là chỉ. Ư chẳng tại thống dương, ư chẳng tại niệm, ư chẳng tại pháp là chỉ vậy.

Hỏi:

- Ai là người chủ biết thống dương của thân ư?

Đáp:

- Có thân, ư của thân biết, thống dương ư của thống dương biết, ư của ư biết như có đói, ư của đói biết, có khát ư của khát biết, có lạnh, ư của lạnh biết, có nóng, ư của nóng biết... do sự phân biệt này mà biết. Ư thân khởi ư thân, ư thống dương khởi ư thống dương, Ư của ư khởi Ư của ư, ư của pháp khởi ư của pháp. Bốn Ư chỉ nghĩa là chế ngự ư ác khiến cho nó chẳng khởi lên. Đó là Chỉ vậy. Bốn Ư chỉ cũng theo bốn Thiền, bốn Thiền cũng theo bốn Ư chỉ mà theo bốn Ư chỉ là gần đạo. Chẳng đắm trước ác th́ thiện liền sinh. Bốn Thiền là bốn ư định, là dừng ư vậy.

Hành đạo có bốn nhân duyên:

1. Dừng thân.

2. Dừng thống dương.

3. Dừng ư.

4. Dừng pháp.

Dừng thân nghĩa là thấy sắc nghĩ là bất tịnh. Dừng thống dương nghĩa là chẳng tự cống cao. Dừng ư nghĩa là chẳng sân nhuế. Dừng pháp nghĩa là chẳng nghi ngờ. Đạo nhân hành bốn Ư chỉ th́ khi ư khởi, niệm sinh th́ tức thời biết thuốc đối trị. Đă được một ư chỉ th́ liền được bốn Ư chỉ vậy.

Bốn ư định:

1. Tự quán thân ḿnh cũng lại quán thân người khác.

2. Tự quán thống dương của ḿnh cũng lại quán thống dương người khác.

3. Tự quán tâm của ḿnh cũng lại quán tâm người khác.

4. Tự quán nhân duyên pháp của ḿnh cũng lại quán nhân duyên pháp người khác. Quán tất cả việc nhân duyên thành bại trong ngoàí, như thế nào th́ phải nghĩ thân ta cũng phải thành bại như vậy.

Đó là bốn ư định vậy.

Người muốn dừng bốn ư th́ bỏ là ngoài, nhiếp lấy là trong. Đă nhiếp ư là ngoài, bỏ ư là trong vậy. Quan sát thân người khác nghĩa là tự quan sát thân mà chẳng ĺa bỏ người khác tức là quan sát cái khổ của thân người khác. Quán thân người khác là chẳng phải. Thống dương, ư, pháp cũng vậy. Tự tham thân th́ phải quan sát thân người khác, nghĩ đến thân người khác tức là tự quan sát thân. Như vậy là ư chỉ.

Hỏi:

- Ư thấy hành v́ sao là chỉ?

Đáp:

- Ư do tự quan sát tham của thân liền khiến quan sát thân người khác. V́ ư từ tham chuyển nên phải dừng. Nếu ư tham thân người khác th́ phải trở lại tự quán thân vậy.

Có lúc tự quán thân, chẳng quán thân người khác. Có lúc phải quán thân người khác, chẳng nêu tự quán thân. Có lúc có thể tự quán thân, cũng có thể quán thân người khác. Có lúc chẳng thể tự quán thân, cũng chẳng thể quán thân người khác. Tự quán thân là tính toán để quán thân người khác. Nếu ư chẳng dừng th́ cần phải tự niệm thân là đắm trước rồi liền chuyển việc đắm trước qua thân người khác. Quan sát thân người thấy sắc trắng trẻo no tṛn, mày đen, môi đỏ. Như thấy béo tốt th́ phải nghĩ đến người chết trương ph́nh; thấy trắng trẻo phải nghĩ đến xương người chết; thấy mày đen phải nghĩ đến sắc sạm đen của người chết, thấy môi đỏ phải nghĩ đến màu đỏ của máu. So tính các sở hữu của bản thân để được những ư đó, rồi liền chuyển đổi, chẳng yêu thân nữa vậy. Quán có trong ngoài: Tật đố, sân nhuế, ngu si th́ phải quan sát bên trong, c̣n tham dâm th́ phải quan sát bên ngoài. Tham th́ phải nghĩ đến sự phi thường, bại hoại. Dâm th́ phải nghĩ đến bất tịnh của đối tượng. Như tự quan sát dâm của thân th́ phải nghĩ đến bốn Ư đoạn. Quán có hai nhóm, một là quán ngoại, hai là quán nội. Quan sát thân có ba mươi sáu vật mà tất cả có đối tượng đều thuộc về ngoại quán. Quán vô sở hữu Ià đạo th́ đó là nội quán vậy.

Quán có ba việc:

1. Quán thân có bốn sắc là đen, xanh, đỏ, trắng.

2. Quán sinh tử.

3. Quán chín đường: Quán trắng thấy đen là bất tịnh. Phải trước nghe để học rồi sau đắc đạo. Chưa đắc đạo là v́ nghe c̣n phân biệt là chứng được, là biết vậy.

Quán có bốn:

1. Thân quán.

2. Ư quán.

3. Hành quán.

4. Đạo quán.

Đó là bốn quán.

Ví như người giữ đồ vật, kẻ trộm đến liền bỏ vật. Nh́n thấy kẻ trộm rồi được quán, liền bỏ thân quán vật.

Quán có hai việc:

1. Quan sát những sắc sở hữu ở bên ngoài.

2. Quán cái không sở hữu bên trong.

Quán “không” rồi th́ được bốn Thiền. Quán “không” không sở hữu, có ư, không ư đều không sở hữu đó là không, cũng gọi là bốn bỏ được bốn Thiền. Muốn dứt việc thế gian th́ nên quán bốn Ư chỉ. Muốn trừ bốn Ư chỉ th́ nên hành bốn Ư đoạn. Người trừ tham mà tham th́ thực hành bốn Thầ n túc bay. Chỉ có năm căn, không có năm Lực th́ không thể chế ngự chỉ có năm Lực, không có năm căn th́ không thể phát sinh bốn Thần túc. C̣n chuyển năm Lực có thể chế ngự mười hai phẩm trên.

Bốn Ư đoạn không gây tội hiện tại chỉ trả tội cũ. Đó là bốn Ư đoạn.

Hết cũ chẳng nhận mới là bốn Ư chỉ. Cũ hết, mới dừng là bốn Ư đoạn. Cũ hết, mới đoạn là bốn Thần túc. Biết đủ chẳng cầu nữa là thủ ư. Ư là hết, sinh là mới, già là cũ. Chết là thân thể, hoại bại là hết. Bốn Ư đoạn nghĩa là thường nghĩ đến đạo. Niệm thiện sinh ra liền bị mềm ác cắt đứt là đoạn dứt Đạo. Niệm thiện dừng liền sinh niệm ác là chẳng đoạn vậy.

Bốn Ư đoạn là ư tự chẳng muốn hướng đến điều ác là đoạn. Cũng có nghĩa là chẳng niệm tội là đoạn.

Bốn Thần túc:

1. Thần túc thân.

2. Thần túc miệng.

3. Thần túc ư.

4. Thần túc đạo.

Nghĩ bay mà niệm chẳng muốn diệt là chẳng theo đạo vậy.

Bốn Y-đề-bát: Bốn là số lượng, Y-đề là dừng, Bát Ià thần túc. Muốn bay liền bay được, có khi tinh tấn ngồi bảy ngày liền được, hoặc có khi đến bảy tháng hay bảy năm. Được thần túc có thể ở tại thế gian lâu chẳng chết nhờ có thuốc:

1. Ư chẳng chuyển.

2. Tín.

3. Niệm.

4. Có đế.

5. Có tuệ.

Đó là thuốc thần túc.

Được bốn Thần túc chẳng ở tại thế gian lâu là do có ba nhân duyên:

1. Tự chán thân xấu xí ấy nên bỏ.

2. Không có người có thể theo thính thọ kinh đạo nên bỏ.

3. Sợ kẻ oán ác bài báng bị tội nên bỏ.

Thần túc có chín nhóm là: Cỡi xe, ngựa, đi nhanh, chạy cũng là thần túc. Cấm giới bên ngoài kiên cố cũng là thần túc. Chí thành cũng là thần túc. Nhẫn nhục cũng là thần túc. Hành thần túc th́ ư sẽ bay.

Hỏi:

- Sao gọi là ư bay?

Đáp:

- Có bốn nhân duyên:

1. Tín.

2. Tinh tấn.

3. Định.

4. Chẳng chuyển ư.

Tín ǵ? Tín phi hành.

Tinh tấn ǵ? Phi hành.

Định ǵ? Phi hành.

Thế nào là chẳng chuyển ư? Nghĩa là chấp trước phi hành chẳng chuyển ư. Thân chẳng muốn đi mà ư muốn đi liền đi. Thần túc như vậy là ư muốn bay th́ liền có thể bay.

Năm Căn ví như trồng vật bền vững mới sinh ra gốc, chẳng bền th́ không có gốc rễ. Tín là nước mưa, chẳng chuyển ư là lực. Muôn vật được thấy là căn, chế ngự ư là lực. Trong Tín căn có ba ấm: Một là thống dương, hai là tư tưởng, ba là thức ấm. Trong Định căn có một ấm là thức ấm.

Năm Căn, năm Lực, bảy Giác ư cho dù ở trong có một ấm, trong có hai ấm, trong có ba ấm, trong có bốn ấm th́ cũng đều có ấm.

Hỏi:

- Đạo hạnh này v́ duyên ǵ mà có ấm?

Đáp:

- Do Nê-hoàn không có ấm nên c̣n lại đều có ấm. Trong bảy Giác ư, ba giác trên thuộc về miệng, ba giác giữa thuộc về thân, một giác cuối thuộc về ư. Thế nào là giác?  Niệm niệm là giác, niệm niệm là được. Hiểu được ư này th́ liền theo đạo. Bảy Giác ư ngoài là theo sinh tử. Bảy Giác ư trong là theo đạo. Bảy Giác ư trong là kinh Ba mươi bảy phẩm. Bảy Giác ư ngoài là muôn vật. Giác là nhận biết sự việc, liền theo giác ư. Có giác ư liền theo đạo. Có giác ư rơi vào tội. Giác kinh Ba mươi bảy phẩm liền chánh ư, đó là theo đạo. Giác thiện ác, đó là rơi vào tội.

Hỏi:

- Từ Đế thân ư giữ ǵ?

Đáp:

- Thân giữ bảy giới, ư giữ ba giới. Đó là thân, ư giữ. Từ Đế ư được dừng nghĩ là từ bốn Đế nhân duyên của ư dừng nghỉ. Hưu là dừng, tức là suy nghĩ, đắc đạo là nhận suy nghĩ. Ham thích đạo pháp sẽ hành đạo là Ái giác ư. Giữ đạo chẳng mất là Lực giác ư. Đă được mười hơi thở, thân yên ổn là Tức giác ư. Tự biết đă an là Định giác ư. Thân giữ ư, ư chẳng tẩu tán là tŕ. Từ Đế tự tại, ư ở tại sở hành, nghĩa là được bốn Đế, cũng có thể niệm bốn Ư chỉ, cũng có thể niệm bốn Ư đoạn, cũng có thể niệm bốn Thần túc, cũng có thể niệm năm Căn, năm Lực, bảy Giác ư, tám Hạnh. Đó là ư tự tại.

Tại sở hành theo Đế quán tức là quán cốt yếu của kinh Ba mươi bảy phẩm. Đó là Thủ ư. Giác nghĩa là Giác đế, chẳng thọ tội nữa. Tám hạnh có trong có ngoài. Thân là giết, trộm, dâm. Miệng là hai lưỡi, ác khẩu, nói dối, nói thêu dệt. Ư là ganh ghét, sân nhuế, ngu si. Ba pháp đầu trên đây là mười việc ở ngoài, c̣n năm đạo ở tại bên trong. Từ Đế Thủ Đế: Từ là thần, thủ là hộ, nghĩa là hộ pháp chẳng phạm tội, Đế là Đạo. Biết phi thường, khổ, không, phi thân, bất tịnh là thấy đúng. Người chẳng phải thường cho là thường, nghĩ khổ là vui, không cho là có, chẳng phải thân lấy làm thân, bất tịnh cho là tịnh đó là chẳng thấy đúng.

Thế nào thấy đúng?

- Tin nhân duyên xưa, biết từ đời trước mà có, đó là thấy đúng.

Thế nào là xử lư đúng?

- Suy nghĩ phân biệt mà có thể đến thiện ư, đó là xử lư đúng.

Thế nào là nói đúng?

- Giữ lời nói thiện, chẳng phạm pháp, nói lời thích hợp đó gọi là nói đúng.

Thế nào là làm đúng?

- Thân làm việc thích hợp không sai phạm, đó là làm đúng.

Thế nào là sống đúng?

- Theo giới hạnh mà người đắc đạo, đó là sống đúng.

Thế nào là tinh tấn đúng?

- Tu hành hạnh vô vi, ngày đêm chẳng dừng giữa chừng, chẳng bỏ phương tiện, đó gọi là tinh tấn phương tiện đúng.

Thế nào là niệm đúng?

- Luôn hướng về kinh giới, đó gọi là niệm đúng.

Thế nào là định đúng?

- Ư chẳng mê hoặc, cũng chẳng bỏ hạnh, đó là định đúng.

Tu hành như vậy khiến cho tám nghiệp hạnh của bậc Hiền giả đầy đủ.

Đă tu hành đầy đủ th́ liền hành Đạo. Tám đúng, có sống, có làm, mà hành tám đúng th́ mới được giải thoát thân chẳng phạm giới, đó là sống đúng. Tuệ, tín, nhẫn nhục là hạnh của thân; ư giữ ǵn là sống đúng Nghĩa là không sở niệm là đúng, có sở niệm là chẳng đúng. Mười hai bộ loại kinh đều nằm trong kinh Ba mươi bảy phẩm. Ví như muôn sông, bốn ḍng chảy đều về với biển cả.

Kinh Ba mươi bảy phẩm là ngoài, tư duy Ià trong. Tư duy phát sinh Đạo nên là trong. Đạo nhân hành đạo phân biệt kinh Ba mươi bảy phẩm, đó là lạy Phật. Kinh Ba mươi bảy phẩm cũng thuộc về thế gian, cũng thuộc về đạo. Khi tụng kinh, miệng nói, đó là thế gian, ư nghĩ về kinh, đó là hợp với đạo. Tŕ giới là chế ngự thân, Thiền là làm tan ư. Hạnh từ nguyện, nguyện cũng từ hạnh, sở hướng của việc hành đạo là chẳng rời ư, ư đến Phật, ư chẳng trở lạỉ. Cũng có người theo thứ lớp tu hành được đạo. cũng có người chứng theo thứ lớp tu hành được đạo. Nghĩa là hành bốn Ư chỉ, bốn Ư đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ư, tám Hạnh, đó là theo thứ lớp. Sợ thế gian, ghét thân mạng, liền từ một niệm mà đắc đạo th́ gọi là chẳng theo thứ lớp.

Đạo nhân có thể được ba mươi bảy phẩm mà hành ư, có thể chẳng thuận theo sổ tức, tương tùy, chỉ vậy. Thân, miệng có bảy việc; tâm, ư, thức mỗi thứ có mười việc nên trong ba mươi bảy phẩm, bốn Ư chỉ, bốn Ư đoạn, bốn Thần túc thuộc về ngoài; năm Căn, năm Lực thuộc về nội. Bảy Giác ư, tám Hạnh được Đạo. Nê-hoàn có bốn mươi việc là kinh Ba mươi bảy phẩm cùng với ba không. Phàm bốn mươi việc đều là Nê-hoàn.

Hỏi:

- Sổ tức là Nê-hoàn hay chẳng phải?

Đáp:

- Sổ tức, tương tùy, đầu mũi dừng ư mà có sở trước th́ chẳng là Nê-hoàn.

Hỏi:

- Nê-hoàn là có chăng?

Đấp:

- Nê-hoàn là không có mà chỉ là khổ diệt, một tên là Ư tận.

Hỏi:

- Niết-bàn là Diệt?

Đáp:

- Chỉ là thiện, ác diệt! Tri hành là có lúc có thể hành bốn Ư chỉ, có lúc có thể hành bốn Ư đoạn, có lúc có thể hành bốn Thần túc, có lúc có thể hành năm Căn, năm Lực, bảy Giác ư, tám Hạnh. Đế tức là biết định loạn. Định là biết hành, loạn là chẳng biết hành.

Hỏi:

- V́ sao có năm Căn, năm Lực, bảy Giác ư, tám Hạnh?

Đáp:

- Người có năm Căn nên đạo có năm Căn, người có năm Lực nên đạo có năm Lực, người có bảy kết sử nên đạo có bảy Giác ư, hành có tám đúng nên đạo có tám thứ. Tùy bệnh cho thuốc nhân duyên tương ửng.

Mắt thọ sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, miệng nếm vị, thân tham mịn láng, đó là năm Căn.

V́ sao gọi là căn? Đă thọ sẽ lại sinh nên gọi là căn. Chẳng thọ sắc, thanh, hương, vị, trơn mịn, đó là lực. Chẳng rơi vào bảy sử là giác ư. Đă là tám đúng là thích hợp đạo hạnh.

Năm Căn là bền ư, năm Lực làm chẳng chuyển ư. Bảy giác là ư chánh. Tám Hạnh là ư đúng.

Hỏi:

- Những ǵ là ư thiện? Những ǵ là ư đạo?

Đáp:

- Bốn Ư chỉ, bốn Ư đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, đó là ư thiện. Bảy Giác ư, tám Hạnh, đó là ư đạo. Có thiện đạo, có thiện thế gian: Từ bốn Ư chỉ đến năm Căn, năm Lực, đó là đạo thiện. Chẳng dâm, hai lưỡi, ác khẩu, nói dối, thêu dệt, tham, sân, si, đó là thế gian thiện. Thấy Đế là biết muôn vật đều phải diệt, đó là thấy Đế. Muôn vật hư ră, thân phải chết, nên chẳng lấy làm lo, đó là quán Đế. Ư ngang, ư chạy, liền quở trách chế ngự được, đó là trừ tội. Các ác đến chẳng thọ là Thiền. Nhất tâm nội ư, mười hai việc là trí tuệ.

Bảy là sổ tức, tám là tương tùy, chín là chỉ, mười là quán, mười một là hoàn, mười hai là tịnh. Đó là mười hai việc bên trong.

Mười hai việc ở ngoài nữa là:

1. Mắt.

2. Sắc.

3. Tai.

4. Thanh.

5. Mũi.

6. Hương.

7. Miệng.

8. Vị.

9. Thân.

10. Trơn mịn.

11. Ư.

12. Thọ dục.

Đó là mười hai việc bên ngoài.

Thuật-xà tức là trí. Gồm có ba trí:

1. Trí biết cha mẹ, anh em, vợ con của vô số đời.

2. Trí biết trắng đen, dài ngắn của vô số đời, biết điều suy nghĩ trong ḷng của người khác.

3. Trí độc hại đă cắt đứt.

Đó là ba vậy.

Sa-la-nọa-đăi là sáu thông trí:

1. Thần túc.

2. Nghe thông suốt.

3. Biết ư người khác.

4. Biết vốn từ đâu đến.

5. Biết văng sinh về chỗ nào.

6. Biết lậu tận.

Đó là sáu vậy.

Ghi chú: Kinh này căn cứ vào bài tựa đầu quyển kính và xem kinh văn, tựa như người chép. Lẫn lộn giữa kinh và chú thích chẳng phân biệt mà chép liền với nhau. Đáng lẽ phảí phân ra mà chú giải. Nhưng thường thường có nhiều chỗ chẳng thể phân ra được, nên chẳng dám tự chuyên phân tiết mà để lại cho bậc hậu hiền vậy.

PHẬT THUYẾT ĐẠI AN BAN THỦ Ư KINH

 

   back_to_top.png   

[ TRANG CHỦ | KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ |HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0