* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ | KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

KINH TR̀ TÂM PHẠM THIÊN SỞ VẤN

Hán dịch: Đời Tây tấn, Tam tạng Pháp sư Trúc Pháp Hộ, người nước Nguyệt Chi.

Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh.

Quyển 4

Phẩm 15: THỌ KƯ THIÊN TỬ HIỆN BẤT THOÁI CHUYỂN

 

Trang Chủ

Kinh Điển

Đại Tạng Kinh

Thần Chú

Hình Ảnh

Liên Lạc

 

Số 0585

KINH TR̀ TÂM PHẠM THIÊN SỞ VẤN 4 Quyển

Quyển 1

Quyển 2

Quyển 3

Quyển 4

 

Bấy giờ, trời Đế Thích bạch Phật:

        -Bạch Thế Tôn! Ví như ở nơi nào có ngọc báu th́ mọi người ở nơi ấy đều thấy được ánh sáng của nó.

        Bạch Thế Tôn! Các bậc Chánh sĩ thực hành đầy đủ các pháp không thể nghĩ bàn cũng như vậy. Bất cứ ở đâu, chư vị cũng đều được tự tại, dùng ánh sáng quư báu của pháp để chiếu soi đầy đủ, ngay khi tu tập liền đạt được bản tế, luôn dùng biện tài tự tại để diễn nói pháp. Chư vị tự tại đối với các pháp nên không có đối tượng duyên dựa, không chấp vào ngă và ngă sở.

        Chư vị được biện tài vô ngại nên không thể bị hỏi vặn cũng chẳng điên đảo, luôn được tự tại.

        Người biện tài vô ngại nên thanh tịnh đối với quá khứ, không thủ đắc ở vị lai, cũng chẳng thấy có hiện tại.

        Người biện tài vô ngại khiến cho người chưa từng có ḷng tin phát khởi ḷng tin, người chưa được giải thoát liền được giải thoát.

        Người biện tài vô ngại phá trừ các kiêu mạn, giáo hóa cho những người ngă mạn, khiến họ trừ sạch tâm ấy.

        Người biện tài vô ngại th́ các ma không thể quấy phá, làm cho người nghe pháp tỉnh thức, thoát khỏi những việc của ma.

        Người biện tài vô ngại khuyến khích cho người chưa phát khởi các pháp lành được sinh khởi, người đă sinh khởi pháp lành khiến được tăng trưởng, không hề bỏ mất nếu có các phiền năo th́ khiến họ đoạn trừ sạch, phiền năo chưa sinh khởi khiến không sinh khởi.

        Người biện tài vô ngại làm cho hàng Bồ-tát chưa mặc áo giáp oai đức khiến được mặc, người đă mặc th́ không hề thoái lui.

        Người biện tài vô ngại không đoạn trừ chánh pháp mà luôn hộ tŕ chánh pháp.

        Người nào được biện tài như vậy th́ có thể hàng phục tất cả ngoại đạo. V́ sao? V́ các loài thú nhỏ không thể chịu nổi tiếng gầm của sư tử, thấy sư tử th́ không dám bước tới huống nữa là dám vào hang hoặc ở dưới gốc cây.

        Bạch Thê Tôn! Cũng vậy, tất cả các hàng ngoại đạo không thể chịu nổi tiếng gầm của bậc Sư tử vô thượng.

        Bấy giờ, Thiên tử Hiện Bất Thoái Chuyển hỏi trời Đế Thích:

        -Thưa Nhân giả Câu-dực! Vừa rồi Nhân giả nói về tiếng gầm ấy, vậy thế nào là tiếng gầm của Sư tử?

        Trời Đế Thích đáp:

        -Nếu đối với các pháp mà không chấp giữ cũng chẳng có ngôn thuyết, đây gọi là tiếng gầm của sư tử, V́ không có đối tượng duyên dựa nên gọi là tịch tĩnh. Nếu có sự chấp giữ để thực hành theo tịch tĩnh th́ không phải là tiếng gầm của sư tử, mà là tiếng kêu của loài cáo, v́ c̣n chấp vào nẻo b́nh đẳng và có đôi tượng được thuyết pháp.

        Này Thiên tử! Thiên tử nên nói lại, thế nào là tiếng gầm của sư tử?

        Thiên tử đáp:

        -Thưa Nhân giả Câu-dực! Nếu không tham chấp đối với Đức Như Lai, cũng chẳng có ngôn thuyết, huống nữa là các pháp khác, đó gọi là giảng pháp như tiếng gầm của sư tử. Thực hành theo lời dạy b́nh đẳng, gọi là tiếng gầm của sư tử. Giảng nói về nhất phẩm gọi là tiếng gầm của sư tử. Nghe những điều đă giảng nói mà không sợ hăi, gọi là tiếng gầm của sư tử. Nếu giảng nói kinh pháp mà không thấy có sinh khởi, hoại diệt, cũng chẳng chấp vào thật tánh, gọi là tiếng gầm của sư tử. Nếu ở trong phiền năo mà không bị trói buộc, không có ḥa hợp cũng chẳng tan hoại, người thuyết pháp như vậy gọi là tiếng gầm của sư tử.

        Gọi là tiếng gầm của sư tử v́ luôn chuyên chú, không chấp có người, chẳng có ngă và ngă sở, tất cả các pháp chỉ là tạm nêu bày. Gọi là tiếng gầm của sư tử v́ dùng nhất tâm để xiển dương pháp không. Gọi là tiếng gầm của sư tử v́ miệng thường giảng nói chánh pháp. Gọi là tiếng gầm của sư tử v́ diệt trừ sạch tất cả khổ năo cho chúng sinh, khiến họ sẽ thành tựu quả vị Phật và giảng nói giáo pháp. Gọi là tiếng gầm của sư tử v́ đối với các tài sản luôn thanh tịnh hoàn toàn, thường biết đủ và khen ngợi giáo pháp.         Gọi là tiếng gầm của sư tử v́ luôn ở trụ xứ vắng lặng, không chọn lựa các pháp hành.

        Bậc dẫn đầu về cội nguồn của hạnh bố thí gọi là tiếng gầm của sư tử. Không xả bỏ giới cấm là tiếng gầm của sư tử. B́nh đẳng đối với kẻ oán người thân là tiếng gầm của sư tử. Giảng nói không hề chọn lựa, không thấy có xa, gần gọi là tiếng gầm của sư tử.         Đoạn trừ các phiền năo là tiếng gầm của sư tử. B́nh đẳng dùng trí tuệ quan sát là tiếng gầm của sư tử.

        Khi Thiên tử thuyết giảng về tiếng gầm của sư tử, th́ cả tam thiên đại thiên thế giới đều chấn động sáu cách, trăm ngàn nhạc cụ không tấu mà tự kêu, ánh sáng lớn ấy chiếu khắp cả thế gian và cung điện của chư Thiên, trăm ngàn chư Thiên và loài người cùng thưa:

        -Chúng con đă được nghe Thiên tử giảng pháp nói về tiếng gầm của sư tử, như ở cơi Diêm-phù-đề lại thấy chuyển pháp luân.

        Lúc ấy, Đức Thế Tôn liền mỉm cười. Theo pháp của chư Phật th́ lúc Ngài mỉm cười, có vô số hào quang đủ màu sắc như xanh, vàng, đỏ, trắng, đen, tía, hồng... từ nơi kim khẩu phát ra, chiếu soi khắp vô lương thế giới của chư Phật không thể tính kể, trên th́ đến tận cơi trời Phạm thiên, che khuất ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, trở lại nhiễu quanh thân Đức Phật ba ṿng, rồi thu tướng ấy vào đỉnh đầu. Phạm thiên Tŕ Tâm liền đứng dậy, chắp tay hướng về Phật dùng kệ khen ngợi:

        Bậc thông tuệ thù thắng

        Biết rơ khắp các cơi

        Phân biệt, thông đạt hết

        Hành chúng sinh ba đời.

        Tùy theo tâm tín kính

        Dùng tuệ giải thoát họ

        Tâm Ngài vượt mọi loài

        Thọ kư khắp tất cả.

        Chẳng phải là quả vị

        Hàng Thanh văn, Duyên giác

        Tuệ Phật là như vậy

        Vô lượng, không giới hạn.

        Hiểu rơ tâm chúng sinh

        Nên giảng nói pháp ǵ

        Để giải thoát cho họ

        Bậc thù thắng khó sánh.

        Tùy ư thường an lạc

        Khéo léo trừ cấu uế

        Hào quang Ngài phóng ra

        Che nhật nguyệt cơi trời.

        Soi đến núi Thiết vi

        Ứ vạn núi Tu-di

        Xin Ngài giảng nói nghĩa

        Nhân duyên việc mỉm cười.

        Bậc Năng Nhân tịch tĩnh

        Trừ sạch mọi giận dữ

        Từ bi quán sát khp

        Chư Thiên và thế gian.

        Chiêm ngưỡng Ngài không chán

        Thảy đều được an lạc

        Xin giảng nhân mỉm cười

        Hiểu rơ hết ư nghĩa.

        Lựa chọn, quán các pháp

        Tự tại như hư không

        Mây, mù, điện, dn nng

        Giả tạm như bọt, huyễn.

        Thy tất cả như mộng

        Và như trăng đáy nước

        Lành thay Ngài giảng nói

        Nhân duyên ǵ mỉm cười?

        Trừ hết thảy kiến chp

        Bậc Năng Nhân hiểu không

        Các thông tuệ, trừ uế

        Luôn ĺa tưởng chấp giữ.

        Chẳng có ba nẻo nguyện

        Trụ thiền định, b́nh đẳng

        sao phóng hào quang

        Xin thương phân biệt nói.

        Chẳng văn tự; ngôn từ

        Không chấp vào âm thanh

        An trụ giảng nói kinh

        Không thích pháp chúng sinh.

        Hiểu rơ cả chúng hội

        Khiến họ được tuệ Phật

        Biết thần thông, căn, lực

        Bậc ti thắng khéo giảng.

        Phật là Bậc Y Vương

        Trừ sạch tất cả khổ

        Dũng nh đạt an lạc

        Cứu chúng sinh buông lung.

        Thoát khỏi mọi trói buộc

        Khiến họ đều quy ỵ

        Xin Đng Thần Tôn giảng

        Nhân hào quang, mỉm cười?

        Đức Phật bảo Phạm thiên Tŕ Tâm:

        -Ông thy Thiên tử Hiện Bt Thoái Chuyển chăng?

        Phạm thiên Tŕ Tâm đáp:

        -Bạch Thế Tôn, con đă thấy!

        Đức Phật dạy:

        -Này Phạm thiên! Thiên tử Hiện Bất Thoái Chuyển này trong ba mươi hai a-tăng-kỳ kiếp không thể lường xét nữa sẽ được thành Phật, hiệu là Tu-di Đăng Vương đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, quốc độ tên là Thiện hóa, kiếp tên Tịnh thán. Cơi Phật đó dùng hai loại báu là lưu ly xanh biếc và vàng kim cương làm đất, toàn là chúng Bồ-tát, hàng phục hết các thứ ma oán; nhà cửa, y phục, thức ăn đều giống như cơi trời thứ sáu là Tha hóa tự tại. Đức Như Lai ấy luôn ân cần giáo hóa chúng sinh.

        Bấy giờ, Phạm thiên Tŕ Tâm nói với Thiên tử Hiện Bất Thoái Chuyển:

        -Thưa Nhân giả! Hôm nay, Đức Như Lai đă thọ kư cho Nhân giả.

        Thiên tử nói:

        -Đức Như Lai đă thọ kư cho tôi, giống với Như không có nguồn gốc th́ việc thọ kư và pháp tánh cũng không có nguồn gốc, việc thọ kư cho tôi cũng vậy.

        Phạm thiên nói:

        -Do Như cùng với pháp tánh không có nguồn gốc nên không có sự thọ kư.

        Thiên tử nói:

        -Như không có nguồn gốc, pháp tánh cũng không có nguồn gốc, nếu cho là có thọ kư th́ không thể có việc ấy, tất cả hàng Bồ-tát cũng vậy.

        Phạm thiên hỏi:

        -Nhân giả không an trụ nơi quả vị Chánh giác, tu phạm hạnh, phân biệt, hiểu rơ giống như Đức Phật đă thọ kư chăng?

        Thiên tử đáp:

        -Thưa Phạm thiên! Nếu không có đối tượng được tu tập, b́nh đẳng đối với tất cả, mới gọi là tu tập phạm hạnh.

        Phạm thiên hỏi:

        -Thế nào là không có đối tượng được tu tập mới là tu phạm hạnh?

        Thiên tử đáp:

        -Những ai không tu tập nơi cơi Dục, cơi sắc và cơi Vô sắc th́ những người ấy chính là tu phạm hạnh.

        Lại nữa, thưa Phạm thiên! Không trụ nơi đối tượng được tu tập, không trụ vào ngă, không tu tập theo nhân, không tu tập theo tuổi thọ cũng không tu tập nơi mạng sống, đấy gọi là tu phạm hạnh. Nói tóm lại, nếu đối với các pháp mà không tu tập theo các pháp, đấy gọi là tu hành phạm hạnh.

        Phạm thiên hỏi:

        -Thế nào là tu hành phạm hạnh?

        Thiên tử đáp:

        -Không trụ nơi nẻo nhị biên gọi là tu hành phạm hạnh.

        Phạm thiên hỏi:

        -Không trụ vào nẻo nhị biên th́ kiến lập điều ǵ?

        Thiên tử đáp:

        -Không trụ vào nẻo nhị biên là kiến lập tất cả các pháp. V́ sao? V́ sự tu hành của bậc Hiền thánh mà không có đố́ tượng kiến lập th́ được giải thoát.

        Phạm thiên hỏi:

        -Làm thế nào để tu đạo?

        Phạm thiên đáp:

        -Tu đạo là không chấp vào sự thực hành, cũng không bỏ sự thực hành, không thực hành các pháp cũng chẳng xa ĺa các pháp, đó gọi là tu đạo, tinh tấn thuận hợp với Như.

        Phạm thiên hỏi:

        -Dùng những hạnh ǵ để tu đạo?

        Phạm thiên đáp:

        -Không thấy, không nghe, không nhớ, không biết, không giáo hóa, không thủ đắc, không chứng quả, đối với tất cả các pháp đều không thấy có đối tượng được thực hành, đó gọi là tu đạo.

        Phạm thiên hỏi:

        -Thế nào là Bồ-tát tinh tấn vững mạnh?

        Thiên tử đáp:

        -Nếu Bồ-tát không thấy có một pháp để thực hành, cũng không thấy có nhiều pháp để thực hành, đó gọi là Bồ-tát tinh tấn vững mạnh, mặc áo giáp giới đức, đối với pháp tánh không hề hủy hoại, đă không hủy hoại nên cũng chẳng gần gũi, không xa ĺa các pháp, cũng không chống trái, không thấy có phiền năo, cũng không có kết sử. Đó gọi là Bồ-tát thực hành tinh tấn bậc nhất, đối với tất cả các pháp không thấy có cao, thấp mà luôn tu hành tinh tấn.

        Thưa Phạm thiên! Không duyên theo thân, không duyên theo miệng, không duyên theo tâm, đó là thực hành tinh tấn bậc nhất.

        Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen ngợi Thiên tử Hiện Bất Thoái Chuyển:

        -Lành thay, lành thay! Đúng như lời ông nói.

        Đức Phật lại bảo Phạm thiên Tŕ Tâm:

        -Này Phạm thiên! Như lời Thiên tử vừa nói, Bồ-tát không thực hành nơi thân, không thực hành nơi miệng;, không thực hành nơi tâm, đó là thực hành tinh tấn bậc nhất.

        Này Phạm thiên! Nhớ lại thuở xưa, về thời quá khứ cách đây nhiều kiếp, Như Lai đối với tất cả các đức hạnh đều hoàn toàn tịch tĩnh, siêng tu tinh tấn, cung kính cúng dường, ở nơi vắng vẻ để học rộng nghe nhiều, thực hành Từ bi đối với tất cả chúng sinh, dù đă tu theo tất cả các hạnh, tinh tấn khổ nhọc nhưng Như Lai vẫn không được thọ kư thành tựu đạo quả Yô thượng Chánh đẳng Chánh giác. V́ sao? V́ lúc nào cũng chấp nơi thân, miệng, ư.

         Này Phạm thiên! Tu hành tinh tấn theo các h́nh sắc như vậy th́ đầy đủ các hạnh này. Như lời Thiên tử vừa nói, về đời sau, Như Lai mới được Đức Phật Định Quang thọ kư: “Đời sau, ông sẽ thành Phật hiệu là Năng Nhân gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thê Tôn.” V́ thế, này Phạm thiên! Giả sử Bồ-tát muốn mau được thọ kư th́ nên tu hành tinh tấn như vậy, nhận biêt các pháp mà không có đối tượng được thực hành.

        Phạm thiên thưa:

        -Bạch Thế Tôn! Thế nào là không có đối tượng được thực hành?

        Đức Thế Tôn đáp:

        -B́nh đẳng rốt ráo, thảy đều rỗng lặng gọi là tinh tấn.

        Phạm thiên thưa:

        -Thế nào là b́nh đẳng rốt ráo, thảy đều rỗng lặng mà gọi là tinh tấn?

        Đức Thế Tôn đáp:

        -Tâm quá khứ đă diệt, tâm vị lai chưa đến, tâm hiện tại không trụ, những ǵ diệt tận th́ không phát sinh trở lại. Giả sử đạt được tướng không sinh khởi th́ trụ như vậy gọi là thường, là không có chỗ trụ. Pháp ấy là chánh pháp đều b́nh đẳng nên không sinh khởi, v́ không sinh khởi nên không có quá khứ, vị lai, hiện tại. Nếu không có quá khứ, vị lai, hiện tại th́ vốn thanh tịnh, không sinh khởi.

        Này Phạm thiên! Đó là b́nh đẳng rốt ráo, thảy đều rỗng lặng, gọi là tinh tấn. Như vậy, Bồ-tát muốn mau được thọ kư th́ phải đạt được pháp nhẫn, đầy đủ các hạnh.

        Này Phạm thiên! Nếu Bồ-tát đối với tất cả các pháp mà không thấy có đối tượng được tu tập th́ gọi là bố thí, không chấp giữ tất cả các pháp gọi là tŕ giới, không nhớ nghĩ về tất cả các pháp gọi là nhẫn nhục, đố́ với các pháp không có đối tượng được duyên dựa gọi là tinh tấn, b́nh đẳng đối với tất cả các pháp gọi là thiền định, đối với tất cả các pháp không khởi tưởng gọi là trí tuệ.         Đây gọi là không tăng thêm cũng không giảm bớt, không tạo tác cũng chẳng phải tạo tác, thường thực hành bố thí nhưng không mong cầu, hành tŕ giới cấm nhưng không chấp giữ, tu theo nhẫn nhục nhưng trong ngoài đều thanh tịnh, thực hành tinh tấn mà thành tựu trọn vẹn, nhất tâm thiền định hoàn toàn không vướng mắc, tôn dùng trí tuệ nhưng không khởi tưởng.

        Bồ-tát thực hành đầy đủ các hạnh nhẫn nhục như vậy, tuy thực hành, thị hiện khắp tất cả các hạnh nhưng không hề chấp giữ, do không chấp giữ nên b́nh đẵng đối với pháp thế gian, được lợi không vui mừng, không lợi ích, cũng chẳng lo lắng, nếu gặp những sự bàn luận, chê bai, khen ngợi, hoan hỷ, khổ đau... đều khổng lay động, không tăng, không giảm, không thích, không lo, v́ đă vượt trên pháp hữu vi của thế gian. V́ không c̣n khổ đau, không phiền năo cũng không khiếp sợ, không nhớ nghĩ cũng chẳng phải không nhớ nghĩ nên không có hai tướng, xa ĺa các duyên nên đạt được pháp bất nhị, v́ chúng sinh bị rơi vào hai kiến chấp nên khởi tâm đại Bi, dấy khởi tâm của ḿnh để giáo hóa họ.

        Này Phạm thiên! Đó là tinh tấn bậc nhất, v́ đạt được nhẫn vô ngă nên đối với chúng sinh mà khởi tâm đại Bi, dù ở nơi nào cũng đều dẫn dắt, cứu giúp họ.

        Khi Đức Phật thuyết giảng về hạnh tinh tấn này, tám ngàn Bồ-tát đạt được pháp Nhẫn vô sinh, Đức Phật thọ kư cho chư vị sẽ thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đều đồng một danh hiệu là Kiên Cường Tinh Tấn, gồm đủ mười tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, mỗi vị đều ở nơi mỗi cơi Phật khác nhau.

        Bấy giờ, Tôn giả Đại Ca-diếp bạch Phật:

        -Bạch Thế Tôn! Ví như các đại Long vương, khi muốn tuôn mưa th́ mưa xuống biển cả. Các Bồ-tát này cũng vậy, Đấng Thiên Trung Thiên giống như biển cả, hiện ra h́nh tượng này để tuôn mưa pháp lớn. Các Đại Bồ-tát cũng như biển cả, tâm của chư vị cũng như vậy, dùng tánh chân thật để tuôn mưa chánh pháp.

        Phật bảo Bồ-tát Ca-diếp:

        -Như lời Tôn giả nói, các đại Long vương này không phải v́ tham tiếc mà không rưới mưa xuống cơi Diêm-phù-đề, mà do đất ở cơi ấy không thể chịu nổi những trận mưa lớn như vậy.

        Này Tôn giả Ca-diếp! Những vị đại Long vương này khi tuôn mưa xuống thiên hạ th́ những cơi nước, thành ấp, núi non, khe suối... ở cơi Diêm-phù-đề đều bị cuốn sạch như cuốn trôi những chiêc lá cây. Do đó, những vị đại Long vương không tuôn cơn mưa lớn xuống cối Diêm-phù-đề.

        Này Tôn giả Ca-diếp! Các Bồ-tát ấy không v́ tham tiếc mưa pháp mà không tuôn mưa pháp khiến cho tât cả chúng sinh được thấm nhuần.

        Lại nữa, này Tôn giả Ca-diếp! Nếu chúng sinh có đủ khả năng để lănh thọ Phật pháp th́ các Bồ-tát sẽ biết rơ tâm ư của họ, sẽ rưới tuôn mưa pháp như tâm chúng sinh đang suy nghĩ, v́ tâm của chư vị như biển cả.

        Này Tôn giả Ca-diếp! Ví như khi các Long vương trút các trận mưa dữ dội xuống th́ biển cá đều chứa hết mà không cho là đủ, cũng chẳng tràn đầy. Các bậc Bồ-tát ấy cũng vậy. Nếu trong một kiếp hoặc trăm ngàn kiếp được nghe thuyết giảng về pháp này, lại đối với các pháp không đều tăng, không giảm, cũng chẳng cho là đủ.

        Này Tôn giả Ca-diếp! Lại như biển cả, do các ḍng sông khắp nơi đổ về, nhưng đều có một vị mặn như muối. Các Bồ-tát này cũng vậy, dù nghe vô số âm thanh, diễn nói những giáo pháp khác nhau nhưng khi nghe pháp, chư vị đều hiểu rơ tất cả đều quy về một nghĩa, đó là vị “giải thoát”, là vị “không”.

        Này Tôn giả Ca-diếp! Ví như trong biển cả, luôn trong sạch, không nhơ uế, dù có chứa bất cứ ḍng nước nào cũng chẳng cấu bẩn. Các Bồ-tát này cũng như vậy, chư vị luôn thanh tịnh, không cấu uế, không có các sự nhơ uế như: kết sử, biếng nhác, sân hận...         Này Tôn giả Ca-diếp! Ví như biển cả sâu thẳm không đáy, khó có thể biết được giới hạn. Các Bồ-tát này cũng như vậy, hiểu rơ về trí tuệ thâm diệu của bậc Thánh, tâm hội nhập vào pháp sâu xa uyên áo khó có thể lường xét, hàng Thanh văn, Duyên giác không thể sánh bằng.

        Này Tôn giả Ca-diếp! Ví như trong biển cả chứa vô lượng vô sô nước không thể lường tính. Các Bồ-tát này cũng vậy, chứa nhóm, gieo trồng các pháp Trí tuệ ba-la-mật không có giới hạn, nên dụ cho biển cả, chư vị đầy đủ các sắc tướng như vậy, nên gọi là Bồ-tát.

        Này Tôn giả Ca-diếp! Ví như trong biển cả chứa nhóm vô lượng các loại báu. Các Bồ-tát này cũng vậy, dùng vô lượng pháp để giáo hóa, nên vô số pháp báu tự nhiên tràn đầy.

        Này Tôn giả Ca-diếp! Như trong biển cả có ba loại báu: báu chân thân, báu thanh thủy, báu tài nghiệp. Các Bồ-tát này cũng vậy, khi giảng nói kinh pháp đều theo căn cơ và sự ứng hợp của chúng sinh nhằm khiến họ được giải thoát, hoặc đạt được thừa Thanh văn, thừa Duyên giác, hay Đại thừa.

        Này Tôn giả Ca-diếp! Như trong biển cả, các ḍng nước lớn nhỏ đều đổ vào th́ dần dần trở thành sâu rộng. Các Bồ-tát này cũng vậy, chí nguyện nơi các thông tuệ, thực hành các thông tuệ, dần dần thành tựu đạo quả của bậc Thánh.

        Này Tôn giả Ca-diếp! Như trong biển cả, không chứa thây chết, các bậc Chánh sĩ này cũng vậy, không chấp nhận tâm Thanh văn, Duyên giác, cũng không cùng chí hướng với chư vị ấy, không chấp nhận tâm tham lam, ganh ghét, phá giới, kết sử, biếng nhác, sân hận; không chấp nhận tâm tán loạn và trí ác, không dung chứa ngă và ngă sở, nhân, thọ mạng và kiến chấp.

        Này Tôn giả Ca-diếp! Nếu gặp vào thời kỳ tai nạn thiêu đốt th́ các ḍng sông, sông lớn, ao hồ... đều khô cạn trước, sau đó biển cả mới bị khô cạn.

        Này Tôn giả Ca-diếp! Bồ-tát lưu truyền chánh pháp đến khắp các cơi cũng vậy, trước dùng hạnh bố thí để tu tập chánh pháp, sau đó mới ban khắp sự giác ngộ đến các biển tâm, rồi chánh pháp lại trở về nơi các bậc Chánh sĩ.

        Lại nữa, này Tôn giả Ca-diếp! Các bậc Chánh sĩ ấy thà mất thân mạng chứ không xả bỏ chánh pháp. Tôn giả cho rằng các bậc Chánh sĩ này bỏ mất chánh pháp chăng? Chớ nghĩ như vậy. Như trong biển lớn có ngọc như ư tên là Kim cang, là sự tích tập của các thứ báu, khi lửa nổi lên bảy ngày, trên lên tới cơi Phạm thiên thiêu hết các châu báu, cùng các cơi Phật trong tam thiên đại thiên thê giới, kể cả các phương khác cũng đều bị cháy rụi.

        Này Tôn giả Ca-diếp! Ngọc báu như ư kia đi đến thế giới khác mà bị thiêu hủy th́ không có điều ấy.

        Này Tôn giả Ca-diếp! Các Bồ-tát ấy cũng vậy, khi tất cả các pháp diệt tận, th́ bảy loại pháp xuất hiện, các Bồ-tát là chánh pháp cho thế gian nương tựa, lại có thể dời đến cơi Phật ở phương khác. Những ǵ là bảy? Đó là học thuyết ngoại đạo, gần gũi bạn ác, rơi vào tà kiến, luôn phá hoại nhau, hành theo các kiến chấp, hủy hoại các cội gốc công đức, không thể chứng đắc đạo. Đó là bảy loại pháp xuất hiện. Đối với bảy pháp này, các Bồ-tát đều biết rơ, thấy chúng sinh ở các cơi Phật khác không rời chư Phật, thường được giác ngộ, thích nghe kinh điển, chư vị liền giáo hóa cho họ, gieo trồng cội gốc công đức.

        Này Tôn giả Ca-diếp! Ví như vô số loài chúng sinh nương vào biển cả và ở trong ấy. Các Bồ-tát cũng vậy, vô số chúng sinh đều đến trong chúng hội để nương tựa nơi chư vị ấy, hết thảy đều ở và trở về ba nẻo. Những ǵ la ba? Đó là, được sinh lên cơi trời, ở cơi người giàu có và đạt được diệt độ.

        Này Tôn giả Ca-diếp! Như trong biển cả, các loài rồng, A-tu-la đều tự tại, các Bồ-tát ấy cũng thế, hàng phục tất cả các ma.

        Bấy giờ, Trưởng lăo Đại Ca-diếp bạch Phật:

        -Bạch Thế Tôn! Giới hạn của biển cả c̣n có thể lường xét được, c̣n các vị Bồ-tát này th́ không thể lường xét được.

        Đức Phật bảo:

        -Này Tôn giả Ca-diếp! Nếu muôn biết số bụi trần trong tam thiên đại thiên thế giới th́ c̣n có thể biết được, nhưng các hạnh chân thật và nơi hướng đến của các Bồ-tát này th́ không thể biết.

        Khi ấy, Đức Thế Tôn nói bài kệ:

        Ví như biển cả

        Dung nạp hết thảy

        Tất cả ḍng nước

        Nhưng vẫn không đầy,

        Người cầu chánh pháp

        Cũng lại như vậy

        Ưa thích chánh pháp

        Không cho là đủ.

        Giống như biển cả

        Vô lượng ḍng nước

        Thảy đều đổ về

        Biển đều chứa hết,

        Bồ-tát thông đạt

        Cũng lại như vậy        

        Không nương trí tuệ

        Mà cho là đủ.

        Biển cả không nhơ

        Không ngập, ô nhiễm

        Các ḍng nước sạch

        Cũng đều đổ về,

        Hành giả tu tập

        Cũng lại như vậy

        Không nhận phiền năo

        Và các nhơ uế.

        Giống như biển cả

        Không thể lường xét

        Rộng lớn không bờ

        Chẳng thể biết được,

        Biển đức trí tuệ

        Cũng lại như vậy

        Cứu giúp chúng sinh

        Không thể tính kể.

        Ở trong biển cả

        Có vô số ḍng

        Hàng vạn con sông

        Hợp làm một vị,

        Vô số hạng người

        Đồng đến nghe pháp

        Đều về một thừa

        Nghĩa lư kinh điển

        Chẳng phải một loại

        Nên gọi là biển.

        Trước khi kiến lập

        Thành biển cả đức

        Không hề sợ hăi

        Chí nguyện như vậy

        Trùm khắp chúng sinh D

        ấy khởi tâm đạo.

        Ví như biển cả

        Tích chứa các báu

        Dù ở chỗ nào

        Cũng không vướng mắc,

        Các chúng Bồ-tát

        Như chứa châu báu

        Nhờ đó phát sinh

        Thành ba loại báu.

        Giống như sông, biển

        Có ba loại báu

        Như sông, biển ấy

        Cũng không phân biệt,

        Bậc Thánh thông tuệ

        Thuyết pháp như vậy

        Cũng dùng ba thừa

        Dẫn dắt chúng sinh.

        Giống như biển cả

        Dẫn thành rộng lớn

        Các ḍng đổ về

        Đều được trần đầy,

        Các chúng Bồ-tát

        Đạt các thông tuệ

        Độ khắp chúng sinh

        Siêng năng tu hành.

        Giống như biển cả

        Không chứa thây chết

        Pháp như biển ấy

        Cũng lại như thế,

        Bồ-tát lập chí

        Cầu đạo cũng vậy

        Không chấp nhân ngă

        Cũng chẳng thuận ḍng.

        Giống như trong biển

        Phát sinh các báu

        Đều là quư báu

        Ở nơi vững chắc,

        Khi kiếp thiêu khởi

        Không thể đốt cháy

        Liền được đem đến

        Nơi cơi Phật khác.

        Lúc chánh pháp diệt

        Cũng lại như vậy

        Người luôn tinh tấn

        Giữ ǵn chánh pháp,

        Nhờ quan sát thấy

        Không thể giữ ǵn

        Lập tức đem đến

        Cơi Phật phương khác.

        Sông, suối, ao hồ

        Thảy đều khô cạn

        Sau đó nước biển

        Mới dần cạn khô,

        Lúc kiếp thiêu khởi

        Cũng lại như vậy 

        Đại thiên thế giới

        Đều bị hủy hoại.

        Chúng sinh phàm phu

        Ở trong cơi nước

        Giả sử chánh pháp

        Đều đ diệt hết,

        Những người dũng mănh

         Giữ pháp cũng vậy

        Xă bỏ thân mạng

        Không hề tham tiếc.

        Do biết chánh pháp

        Sẽ bị tiêu diệt

        Giác ngộ hiện tại

        Hoặc sau diệt độ,

        Những người chí nguyện

        Thanh tịnh như vậy

        Là kiến lập pháp

        Vô schúng sinh,

        Đều nên tu theo

        Nương nhờ nơi biển

        Chẳng phải một loại

        Làm được điều y,

        Bậc đại danh xưng

        Chí nguyện như vậy

        Đến khắp chúng sinh

        Đều được giải thoát.

        C̣n có giới hạn

        Phân biệt biết rơ

        Đi với cơi Phật

        Và các biển cả,

        Sự hành hóa y

        Không thể biết được

        Các chúng Duyên giác

        Và hàng Thanh văn

        Không ai sánh bằng

        Huống lại hơn hẳn

        Hạnh các Bồ-tát

        Tinh tấn vững mạnh.

        Tâm chư vị ấy

        Phải nên đảnh lễ

        Sẽ được thành Phật

        Giáo hóa chúng sinh.

        Chư vị là báu

        Giống như biển cả

        Hăy nên cúng dường

        Luôn lă ruộng phước,

        Chính là đt tốt

        Y vương ti thượng

        Trị lành hết thảy

        Mọi thứ bệnh tật.

        Lại v́ cứu giúp

        Quay về giải thoát

        Đem đèn đuốc sáng

        Hiển hiện chiếu soi

        Thế gian tăm ti

        Được mắt sáng tỏ

        Người có mắt ấy

        Mau được cam lồ.

        Làm vị đế vương

        Thường gọi vua pháp

        Đây vua trời

        Tạo nhiều lợi ích,

        Cũng là vua Phạm

        Tư duy bn Thiền

        Liền vận chuyển được

        Bánh xe chánh pháp.

        Đây là Đạo sư

        Mở bày đường lớn

        Nơi chn tranh căi

        Hiện rơ li đi,

        Là bậc dũng mănh

        Hàng phục tất cả

        Trừ hết phiền năo

        Làm tịnh cơi nước.

        Tu pháp thanh tịnh

        Như ánh trăng rằm

        Phóng ánh sáng khắp

        Nhưmặt trời mọc.

        Trí tuệ vượt bậc

        Như núi Tu-di

        Ở trong ba cơi

         Rưới mưacam l.

        Chư vị khó sánh

        Giống như sư tử

        Tâm ấy nhu ḥa

        Ging như voi hiền,

        Hoặc như đại địa

        Chở các núi non

        Hàng phục tất cả

        Luận thuyết ngoại đạo.

        Hạnh thường thanh khiết

        Ví dụ như nước

        Uy, sáng khó lường

        Vị ấy như lửa

        Không hề chướng ngại

        Cũng ging như gió

        Xa ĺa biếng nhác

        Lại ging nhưđt

        Trừ hết kiêu mạn

        Nhổ sạch sân hận.

        Ví như cây thuc

        Không hề phân biệt

        Giới tịnh, không chp

        Ging như hoa sen

        Không hề nương tựa

        Tám pháp ở đời.

        Hành hóa ví như

        Hoa Ưu-bát-la

        Vô s ức kiếp

        Âm thanh khó đạt,

        Đối bậc Tôn kính

        Thường hay báo ân

        Theo lời Phật dạy

        Không ĺa chánh pháp.

        Chí nguyện kiên cố

        Cố ḷng Từ bi

        Tâm từ vững chắc

        Hỷ xả siêu tuyệt,

        Cứu giúp chúng sinh

        Đi với năm dục

        Khéo biết duyên hợp

        Tài sản quư báu

        Thường đem bthí

        Giữ ǵn giới cm

        Rất thù thắng

        Không ai sánh bằng.

        Dùng lực nhẫn nhục

        Giữ tâm dũng nh

        Đạt đến tinh tấn

        Thường không mệt mỏi,

        Đủ các thiền định

        Thần thông, trí tuệ

        Đi đến vô lượng

        Vô scơi Phật

        Được gặp chư Phật

        Và nghe kinh điển

        Như điều đă nghe

        Mà tu tập theo.

        Thy đều thông đạt

        Hạnh của chúng sinh

        Tùy sự ứng hợp

        Ḷng tín, các căn,

        An ổn, chân thật

        Dùng phương tiện khéo

        V́ các ngoại đạo

        Hiển bày ánh sáng

        Khiến họ thông đạt

        Hết thảy các pháp

        An nhiên, ḥa đồng

        Phân biệt báo ứng.

        Thảy đều hiểu rơ

        Nhân duyên pháp luật

        Ĺa ngă, ngă sở

        Thường trụ b́nh đẳng,

        Liền quán xét theo

        Như pháp thích hợp

        Chư vị đă từng

        Xuất gia tu học.

        Quá khứ thường gặp

        Tt cả các pháp

        Nhờ tr nơi pháp

        Mà rơ pháp giới,

        Biết rơ thông tuệ

        Chẳng có h́nh tướng

        Có thể dy khởi

        Ḷng thương thù thắng

        Để cu giúp khắp

        Chúng sinh siêng năng

        Tu tập giải thoát

        Lại chấp vàopháp

        Có ngă, ngă sở

        Mà khởi vọng tưởng

        Làm theo ngu si

        Tà kiến, buông lung

        Tu hành như vậy

        Là pháp hư giả.

        Chư vị giảng nói

        Trừ hết kiến chấp

        Vô thường là thường

        Không, cho là thật,

        Ly khổ làm vui

        Không thân chp có

        Phàm phu như vậy

        Chp giữ điên đảo,

        Không phân biệt được

        Giới hạn sinh tử

        Nếu biết chánh lư

        Trừ nguồn điên đo.

        Biết không người

        Không thọ, không mạng

        Có thể tịnh tu

        Theo hạnh b́nh đẳng

        Hiểu rơ vô thường

        Khổ không, vô ngă.

        Ca-diếp Bậc y

        Tiếng khen công đức

        Từ nơi các cơi

        Vang đến khắp chốn

        lượng người nghe

        Tuệ không giới hạn

        Có thể tu hành

        Bồ-tát cũng vậy

        Giả sử biến khp

        Ba ngàn thế giới

        Thảy đều kính ngưỡng

        Kiến lập Bồ-tát

        ng dường La-hán

        Gấp bội số ấy

        Cũng không sánh bằng

        Ta cũng kiến lập

        Chí nguyện Bồ-tát

        Hết thảy các bậc

        Chánh giác quá khứ

        Vị lai cũng vậy

        Và ngay hiện tại

        Thánh tôn mười phương

        Thảy đều lập chí

        Mun được thành Phật.

Phẩm 16: KIẾN LẬP PHÁP

        Bấy giờ, Phạm thiên Tŕ Tâm nói với Bồ-tát Phổ Thủ:

        -Cúi xin Nhân giả thỉnh Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, kiến lập, lưu truyền kinh này trong đời năm trược, mạt pháp.

        Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

        -Ư ông nghĩ sao? Đức Như Lai đă chẳng tuyên nói pháp này đó sao? Ông muốn Đức Như Lai kiến lập pháp sao?

        Phạm thiên đáp:

        -Thưa không!

        Bồ-tát Phổ Thủ nói:

        -Này Phạm thiên! Tất cả các pháp là không thể kiến lập, không thể nhớ nghĩ cũng chẳng có ngôn thuyết, cho nên không thể lưu truyền cũng không thể giữ ǵn. Người nào muốn kiến lập kinh điển này tức là muốn tạo lập hư không. Nếu Bồ-tát muốn hội nhập vào kinh điển này th́ chẳng phải là thuận theo pháp. Bồ-tát thể nhập vào tất cả kinh điển th́ không c̣n tranh luận.

        Lại nữa, đối với chúng hội, Bồ-tát chỉ tạm mượn danh dự mà thôi. Người giảng nói kinh pháp phải nên như vậy, chẳng phải v́ nghe nhận kinh điển. V́ sao? V́ không có đối tượng để nghe mới chính là nghe nhận kinh điển.

        Phạm thiên hỏi:

        -Thưa Nhân giả! Thế nào gọi là không có đối tượng để nghe mới chính là nghe nhận kinh điển?

        Bồ-tát Phổ Thủ đáp:

        -Mắt, tai, mũi, miệng, thân và ư không có đối tượng để nghe mới chính là nghe kinh. Người nào các căn nhiễm ô th́ không gọi là nghe, nếu trụ chấp vào sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp th́ người nghe kinh như vậy gọi là hư vọng.

        Bấy giờ, trong chúng hội có các Thiên tử, ba vạn hai ngàn Tỳ-kheo, năm trăm Tỳ-kheo-ni, ba trăm Ưu-bà-tắc, tám trăm ưu- bà-di... tất cả đều được nghe Bồ-tát Phổ Thủ thuyết pháp. Ngay lúc ấy, hết thảy đều chứng đắc pháp Nhẫn vô sinh, cùng nói kệ khen ngợi:

        Nhân giả Phổ Thủ 

        Đúng như lời ấy

        Không đối tượng nghe

        Mới chính nghe kinh.

        Phạm thiên Tŕ Tâm hỏi các Bồ-tát vừa chứng đắc pháp nhẫn:

        -Thưa chư vị! Chư vị đă chẳng được nghe kinh này rồi sao?

        -Thưa Phạm thiên! Chúng tôi đă nghe nhưng không có đối tượng để nghe.

        Lại hỏi:

        -Chư Hiền giả làm thế nào mà hiểu rơ kinh điển ấy?

        Đáp:

        -Nếu không thấy có đối tượng nhận biết th́ biết tất cả.

        Lại hỏi:

        -Chư Hiền giả làm thế nào để đạt được pháp nhẫn?

        Đáp:

        -Là kiến lập tất cả các pháp.

        Hỏi:

        -Do nhân duyên ǵ để được hội nhập vào các pháp?

        -Không có đối tượng đạt đến th́ được hội nhập vào các pháp.

        Hỏi:

        -Hiện tại, chư Hiền giả thấy rơ các pháp không?

        -Thưa Phạm thiên! Đối với tất cả các pháp trong hiện tại, thân ḿnh, chúng sinh và chí nguyện vốn đều thanh tịnh.

        Lúc ấy, trong chúng hội có một Thiên tử tên là Ly cấu Anh nói với Phạm thiên Tŕ Tâm:

        -Thưa Phạm thiên! Nếu lănh hội kinh pháp này th́ được Đức Như Lai thọ kư không?

        Phạm thiên đáp:

        -Chắc chắn sẽ được thọ kư và chứng quả Vô thượng Bồ-đề.

        Thiên tử nói:

        -V́ sao? V́ kinh này không diệt mất quả báo, tích chứa pháp công đức của hết thảy chúng sinh, hàng phục các ma và oán thù.         Kinh điển này xa ĺa hết thảy sự tranh luận về tham dục, giáo hóa tất cả khiến được hoan hỷ. Người nào tin ưa kinh điển này, tâm luôn vui mừng, nghe nhận, thọ tŕ th́ đạt được sự b́nh đẳng rốt ráo của bậc Hiền thánh. Nếu thọ tŕ kinh điển này th́ được chư Phật gia hộ. Nếu chư Thiên, loài người, A-tu-la chuyên nhớ nghĩ đến kinh ấy th́ đạt được quả vị không thoái chuyển, không bị các thứ xấu ác phá hoại.

        Lại nữa, nếu v́ kinh ấy mà đến đạo tràng, bố thí, tu tập theo pháp Phật th́ chấm dứt hẵn sự ít học, vận chuyển bánh xe chánh pháp.

        Lại nữa, kinh pháp này khiến dứt hẳn nghi ngờ, đạt đến đạo của bậc Hiền thánh. Nhờ nghe kinh điển này nên đạt được giải thoát. Thọ tŕ kinh điển này là nhằm thành tựu đạo quả. Giảng nói kinh điển này là đồng với phước đức. Khéo giữ ǵn kinh điển này là thích thuận theo pháp. Nhờ kinh điển này nên được an ổn, đạt được diệt độ. Không hủy hoại kinh điển nên phá trừ ma quân, ngoại đạo. Hiểu rơ kinh điển này nên là Bậc Chúng Hựu Vô Trước. Hoan hỷ với kinh điển ấy, nên thông đạt các pháp. Vui mừng đối với kinh điển ấy th́ đạt được trí tuệ thông suốt. Kinh điển ấy giúp cho người thọ tŕ đạt được âm thanh trí tuệ, diệt trừ tất cả kiến chấp là nơi quay về.

        Kinh điển ấy dẫn dắt đến nẻo trí tuệ, phá tan ngu si.

        Kinh điển ấy có thể khéo ứng hợp, v́ thuận theo sự thể nhập.

        Kinh điển ấy khiến thành tựu rốt ráo về thứ lớp ngôn từ khéo léo.

        Kinh điển ấy làm cho mọi người hiểu rơ nghĩa lư, giảng nói bậc nhất, không bỏ nghĩa lư của kinh, đạt được trí tuệ bậc Thánh.

        Kinh điển ấy chính là kho tàng, ban phát hết thảy mà không hề phiền năo, cứu giúp khắp chúng sinh, đem đến cho họ thức ăn b́nh đẳng, khiến họ tu theo tâm Từ, ưa thích thiền định, luôn tinh tấn, trừ mọi biếng nhác, nương vào thiền định để cứu giúp chúng sinh tán loạn, dùng ánh sáng rực rỡ chiếu đến các thứ trí tà.

        Phạm thiên nên biết! Người nào thọ tŕ kinh điển ấy th́ được hết thảy chư Phật che chở.

        Khi Thiên tử giảng nói về công đức của kinh này xong, th́ cả tam thiên đại thiên thế giới đều chấn động. Đức Thế Tôn khen ngợi Thiên tử:

        -Lành thay, lành thay! Đúng như lời ông nói.

        Bấy giờ, Phạm thiên Tŕ Tâm bạch Phật:

        -Bạch Thế Tôn! Thuở xưa, vị Thiên tử này đă từng được nghe kinh điển ấy và đă được chư Phật thọ kư rồi chăng?

        Đức Phật dạy:

        -Thiên tử ấy đă được nghe kinh này từ sáu mươi bốn ức chư Phật. Thiên tử Ly cấu Anh đó trải qua bốn mươi vạn kiếp nữa sẽ thành Phật, hiệu là Bảo Hiểm Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, thế giới tên là Bảo tích. Trong khoảng thời gian ấy có chư Phật xuất hiện, Thiên tử ấy đều cúng dường, lại được nghe kinh điển này.

        Phạm thiên nên biết! Các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Trời, Rồng, Quỷ thần, Càn-thạt-bà... nghe kinh điển này th́ đạt được pháp nhẫn và được sinh về cơi nước Bảo hiểm của Đức Phật kia, ở thế giới Bảo tích.

        Khi ấy, Thiên tử Ly cấu Anh bạch Phật:

        -Bạch Thế Tôn! Nay, con không mong cầu đạo quả xa vời, cũng không phát nguyện nơi đạo. Con không ưa thích quả vị Phật, không nương tựa, không muốn chứng đạo cũng không nhớ nghĩ đến th́ sao Đức Thế Tôn lại thọ kư cho con?

        Đức Phật dạy:

        -Thiên tử nên biết! Như đem cỏ, cây, cành nhánh, hoa lá ném vào trong lửa rồi nói: “Đừng đốt cháy chúng! ” mà khiến cho lửa không thể đốt cháy th́ điều đó không thể có. V́ chẳng phải do lời nói của người ấy mà lửa không thể đốt cháy.

        Cũng vậy, này Thiên tử! Nếu Bồ-tát không ưa thích đạo, không nương tựa, cũng chẳng kiến lập chí nguyện, không lập nguyện đối với tất cả chư Phật th́ vị ấy được thọ kư.

        Này Thiên tử! Nếu Bồ-tát không ưa thích đạo, không có đối tượng nương tựa, không có đối tượng để kiến lập, không có đối tượng mong cầu cũng chẳng thủ đắc, th́ Bồ-tát ấy mới được Như Lai thọ kư sẽ chứng đắc đạo quả Vô thượng Bồ-đề.

        Bấy giờ, trong chúng hội có năm trăm Bồ-tát cùng bạch Phật:

        -Bạch Thế Tôn! Chúng con không kiến lập nơi đạo, không có chí nguyện, cũng chẳng thủ đắc, không vui mừng cũng chẳng nương tựa, không có đố́ tượng nhớ nghĩ, cũng chẳng chấp vào sự nhớ nghĩ.

        Khi ấy, các Bồ-tát nương vào thần lực của Phật, liền nh́n khắp trong hư không, thấy tám vạn bốn ngàn Đức Phật ở phương trên thọ kư cho chư vị ấy sẽ đạt được đạo quả Vô thượng Bồ-đề.

        Các Bồ-tát bạch Phật:

        -Bạch Thế Tôn! Thật là điều chưa từng có, sự thuyết pháp của Như Lai thật là hoàn hảo. Những ai đối với đạo pháp mà không có đối tượng để ưa thích, không có sự nương tựa, cũng chẳng kiến lập, không có chí nguyện cũng chẳng thủ đắc mới được Như Lai thọ kư.

        Bạch Thế Tôn! Hôm nay, chúng con được tám vạn bốn ngàn chư Phật ở cơi nước phương trên thọ kư sẽ chứng đắc đạo quả Vô thượng Bồ-đề.

Phẩm 17: CHƯ THIÊN KHEN NGỢI

        Bấy giờ, Bồ-tát Phổ Thủ bạch Phật:

        -Bạch Thế Tôn! Cúi xin Đức Như Lai hộ niệm pháp này, khiến vào đời năm trược về sau, kinh ấy sẽ được lưu truyền khắp thiên hạ ở cơi Diêm-phù-đề, khiến cho tất cả đều được mặc áo giáp công đức lớn, dùng ba phẩm để nghe pháp. Nếu thiện nam, thiện nữ nào khởi lên nhân duyên nơi ma, nhưng không theo lời sai khiến của ma th́ người ấy không thể bị ma và quyến thuộc của chúng làm hại, v́ có thể thọ tŕ kinh điển cốt yếu này nên không thoái chuyển đối với đạo quả Vô thượng Bồ-đề.

        Đức Phật bảo Bồ-tát Phổ Thủ:

        -Hăy khéo tư duy về kinh điển ấy, th́ kinh đó sẽ được tồn tại lâu dài, lại được các hàng trời, rồng, quỷ thần, Càn-thát-bà ủng hộ. Lại có thần chú tên là Tuyển Trạch, ta sẽ giảng nói rơ về ư nghĩa của thần chú này. Nhờ thần chú ấy nên các Pháp sư, thiện nam, thiện nữ đều được chư Thiên, Rồng, Quỷ thần, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Chiên-đà-la, Ma-hầu-la-già hộ tŕ. Nếu chư vị ấy đang đi trên đường, ở chỗ vắng, ở trong nhà, hoặc ở trong pḥng mà kinh hành tư duy, hoặc ở trong chúng hội thuận theo nghĩa lư mà quan sát, th́ các vị thần sẽ hộ tŕ làm tăng thêm biện tài, tùy theo phương tiện, uy lực và sự dũng mănh mà ủng hộ, khiến chư vị vượt qua các nạn oán thù, trộm cướp... Nhờ vậy, chư vị ấy mới kinh hành tịch tĩnh, nằm ngồi đều an ổn.

        Này Bồ-tát Phổ Thủ! Thần chú ấy như vầy:

        -Ưu đầu lê, đầu đầu lê, mạt tri, già tri, di ly thế ly thế, lệ di lệ hầu lâu, hầu lâu âm, hầu lưu y bạt tri, vu bạt tri, khưu khưu ly khư la kỳ, a na đề, yết đề sơ văng chí, ma ế lệ ma na di ma nhĩ, băo hiền đề, tát phi lâu, cách phi sa yết đề, tân đầu lệ, nam mô Phật-đàn già lật đề, nam mô đàm nật kệ, nam mô tăng phi ế đa thiện bạt phiến đà, tát phi ba phi, di đa la di phù đề thọ, tát già ni đà la, bạt la ma na ba thế đa, lê di ba, thế đa a trí thiền đề, tát đà phù đà, ca la ha, nam mô Phật-đà tất thiền đề mạn đà bát.

        Phật nói chú này xong, bảo Bồ-tát Phổ Thủ:

        -Đây là văn tự của thần chú. Bồ-tát nào tu hành theo kinh điển ấy th́ sẽ được an ổn và được hộ tŕ, không bị quấy nhiễu và loạn tâm, luôn thực hành thanh tịnh theo thứ lớp, luôn biết đủ, nằm ngồi yên lặng, ưa thích tịch tĩnh, không thích ồn ào, thân tâm thanh tịnh, hành theo Từ bi, dùng pháp làm niềm vui, kinh ấy chân lư, không bị phá hoại, thường ở chỗ vắng lặng, siêng năng giảng nói pháp, luôn tư duy về ư nghĩa của đạo, bỏ hết ư niệm phi nghĩa, lấy sự yên ổn làm niềm vui, đem sự hiểu biết của ḿnh giảng nói cho người khác, tu tập theo pháp môn từ đầu đến cuối, tâm b́nh đẳng đối với kẻ oán người thân, bỏ hết nhớ nghĩ, không tiếc thân mạng, quán xét hết thảy các nghiệp, hành hóa đầy đủ, thích giữ ǵn giới cấm, siêng tu lực nhẫn nhục, không nói lời thô, dung mạo tươi vui, hiền ḥa, thân sắc đẹp đẽ, luôn thưa hỏi, cung kính mọi người, trừ bỏ ganh ghét, ưa thích dịu dàng, ở nơi an ổn. Ông đă thành tựu hạnh nguyện này. Thiện nam và Pháp sư nào đọc tụng thần chú ấy th́ đời hiện tại được mười Lực. Những ǵ là mười?

        1. Đạt được diệu lực nơi tâm không bao giờ quên mất.

        2. Đạt được diệu lực của ư, hiểu rơ các ư niệm.

        3. Đạt được năng lực thể nhập vào kinh điển, hiểu rơ tất cả.

        4. Đạt được năng lực kiên cố, hành hóa trong sinh tử.

        5. Đạt được năng lực của sự hổ thẹn, hộ tŕ tất cả mọi người.

        6. Đạt được năng lực hiểu biết rộng, đầy đủ trí tuệ.

        7. Đạt được năng lực của pháp Đà-la-ni, thông suốt hết những điều được nghe.

        8. Đạt được năng lực biện tài, được chư Phật ủng hộ.

        9. Đạt được diệu lực của pháp sâu xa, đạt được năm thần thông.

        10. Thành tựu diệu lực của pháp Nhẫn vô sinh, đầy đủ các thông tuệ.

        Này Bồ-tát Phổ Thủ! Pháp sư nào an trú, đọc tụng, hành tŕ theo pháp ấy th́ sẽ đạt được mười năng lực này.

        Khi Đức Phật giảng nói về diệu lực của thần chú này, bốn vị Thiên vương vô cùng kinh sợ, cùng với vô số trăm ngàn quyến thuộc, quỷ thần vây quanh, đi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ nơi chân, thưa:

        -Bạch Thế Tôn! Chúng con cùng quyến thuộc sẽ vâng theo lời Phật dạy, ủng hộ, lưu truyền kinh ấy. Nếu thiện nam, thiện nữ hoặc Pháp sư nào có giảng nói, thực hành, thọ tŕ, đọc tụng pháp ấy th́ chúng con cùng quyến thuộc sẽ đến nơi đó để hộ tŕ, khiến chư vị luôn được thanh tịnh. Nếu ở thành ấp, cơi nước, đô thị có người tại gia hoặc xuất gia nào tu hành theo kinh này th́ chúng con cùng quyến thuộc sẽ đến cúng dường, phụng sự, khiến chư vị ấy đều được an ổn, không bị nguy hiểm, mọi sự ḍ xét đều không thể được. Nếu kinh điển này được lưu truyền đến đâu th́ chúng con sẽ bảo vệ cách bốn mươi dặm, chúng Trời, Rồng, Thần, Cưu-bàn-trà... và hết thảy quyến thuộc của họ đều không thể làm hại.

        Bấy giờ, Đại thiên vương Duy-lâu-lặc-xoa Hộ Oán nói bài kệ:

        Con và các quyến thuộc

        Các con và thân tộc

        Có thể đảm nhận được

        Việc cúng dường kinh này.

        Khi ấy, Đại thiên vương Duy-lâu-bác (Vô Oán) nói bài kệ:

        Con là Pháp vương tử

        Dùng pháp dạy cho người    

        Cúng dường các Phật tử

        Tu hành theo tâm đạo.

        Đại thiên vương Đề-đầu-lại (Kiên Quận) nói bài kệ:

        Con sẽ luôn hộ tŕ

        Khắp tất cả mười phương

        Những ai tŕ kinh này

        Phật Chánh giác đă nói.

        Đại thiên vương Duy-sa-mạn (Tức Ư) nói bài kệ:

        Nếu kiến lập tâm đạo

        Cúng dường người tu học

        Cúng dường cho chúng sinh

        Không mong được báo đáp.

        Bấy giờ, thái tử Đế Nhan, con của Đại thiên vương Tức Ư, cầm lọng bảy báu che trên Đức Như Lai, rồi nói bài kệ:

        Nay con sẽ thọ tŕ

        Kinh điển của Như Lai

        Cũng v́ người khác nói

        Chí nguyện con như thế.

        Thế Tôn biết tâm con

        Hiểu hạnh nghiệp đời trước

        Tâm con đă kiến lập

        Cho đến khi thành Phật.

        Dâng lọng lên Như Lai

        Mong diện kiến tôn nhan

        Nguyện con được giống như

        Tướng Ngài - vô kiến đảnh.

        Chiêm ngưỡng Bậc Chánh Giác

        Thế Tôn rủ ḷng thương

        Mắt thanh tịnh quán xét

        Mắt từ nh́n chúng sinh.

        Thế Tôn thọ kư con

        Có trí tuệ vượt bờ

        Sau khi mạng chung rồi

        Sẽ sinh trời Đâu-suất

        Từ Đầu-suất hạ sinh

        Gặp Đức Phật Di-lặc

        Trong khoảng hai vạn năm

        Luôn cúng dường chư Phật

        Sau khi xuất gia rồi

        Tu các hạnh thanh tịnh

        Liền thất khắp chư Phật

        Trong tất cả Hiền kiếp.

        Cúng dường hết thảy Phật

        Siêng năng tu phạm hạnh

        Trải sáu mươi ức kiếp

        Sẽ thành Bậc Chánh Giác.

        Tôn hiệu là Bảo Cái

        Cơi Phật tên TrangNghiêm

        Toàn là chúng Bồ-tát

        Luôn luôn giảng diệu pháp.

        Thọ mạng trọn một kiếp

        Sau khi Phật diệt độ

        Chánh pháp trụ nửa kiếp

        V́ thương tưởng chúng sinh.

        Bấy giờ, Thích Đề-hoàn Nhân cùng với vô số trăm ngàn chư Thiên quyến thuộc vây quanh, bạch Phật:

        -Bạch Thế Tôn! Con sẽ ủng hộ vị Pháp sư này. Những ai thọ tŕ kinh điển này th́ con sẽ cung dường, phụng sự thuận theo ư của vị ấy. Những ai đọc tụng, giảng nói kinh này th́ con sẽ đến để thưa hỏi, lănh thọ giáo pháp và giúp cho Pháp sơ có uy lực mạnh mẽ, biện tài theo thứ lớp, giảng nói trôi chảy, không có các chướng ngại và không hề quên sót.

        Khi ấy, thái tử Địch Hoặc, con của Thiên vương Thích Đề-hoàn Nhân, cầm chuỗi ngọc bảy báu đến cúng dường Đức Như Lai và nói kệ:

        Thế Tôn! Con thấy rơ

        Sự hành hóa của Ngài

        Con cũng sẽ tu theo

        Chí nguyện cầu tuệ Phật.

        Hành hóa ở đời  trước

        Bố thí không mong cầu

        Con sẽ học hạnh này

        Bố thí mọi sở hữu.

        Cũng thọ tŕ kinh ấy

        Từ nơi đấng Pháp vương

        Giảng thuyết khắp tất cả

        Để bấo ân Đạo sư.

        Những ai muốn giải thoát

        Cùng tu theo kinh này

        Con sẽ dâng thực phẩm

        V́ hộ tŕ Phật đạo.

        Hàng Thanh văn không thể

        Hộ trí kinh pháp này

        Con sẽ hộ chánh pháp

        Lưu truyền ở đời sau.

         Thế Tôn an ủi con

        Đoạn nghi của chư Thiên

        C̣n khoảng bao lâu nữa

        Con được thành Chánh giác?

        Phật đạt các thông tuệ

        Liền thọ kư cho con:

        Sau sẽ dược thành Phật

        Giống Như Lai hiện nay.

        Hành hóa ức ngàm kiếp

        Hoặc hơn trăm ức kiếp

        Làm ánh sáng cho đời

        Hiệu là Tuệ Thành Tựu.

        Bấy giờ, trời Phạm Nhẫn bạch Phật:

        -Bạch Thế Tôn! Con sẽ xả thiền định, đi đến nơi những thiện nam, thiện nữ nào có thể thuyết pháp để lắng nghe. Những ai giảng nói kinh này th́ đều thu phụ được chư Thiên như Đế Thích, Phạm thiên..., con sẽ xin cúng dường phụng sự. Thiện nam này sẽ được chư Thiên và loài người cùng quy kính, cúng dường. Khi ấy, trời Phạm Nhẫn nói bài kệ:

        Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni

        Cùng nam, nữ cư sĩ

        Nếu thọ tŕ kinh này

        Tất sẽ cứu giúp đời.

        Người tu theo kinh này

        Hoặc khen ngợi, tôn kính

        Con sẽ v́ người ấy

        Giảng nói về kinh này.

        Trải ṭa hoa cao vút

        Lên đến trời Phạm thiên

        Ngồi ở trên ṭa ấy

        Giảng kinh pháp cho họ.

        Người nào giảng nói kinh

        Nên khen ngợi: Lành thay!

        Nếu người ở đời sau

        Thọ tŕ kinh điển ấy.

        Giả sử ức cơi nước

        Ch́m nhập trong biển lửa

        Cũng nên đến chỗ ấy

        Cầu xin nghe kinh này.

        Chứa báu như Tu-di

        Để cúng dường vị ấy

        Mong được nghe kinh này

        Nghiêm tịnh ngàn cơi Phật.

Phẩm 18: CHÚC LỤY

        Bấy giờ, Đức Thế Tôn phát ra ánh sáng nơi đảnh đầu, thị hiện thần thông khiến ma Ba-tuần cùng các binh chúng đều đến chỗ Phật, thưa:

        -Bạch Thế Tôn! Con và quyến thuộc ở trước Đức Như Lai xin phát nguyện: “Bất cứ chỗ nào có lưu truyền kinh này, hoặc có Pháp sư nào giảng nói kinh điển này ở pháp hội, chúng con sẽ phát nguyện bảo hộ, khiến chư vị giảng nổi luôn thông suốt, không gặp phải nguy hiểm, bị hại”.

        Khi ấy, Đức Thế Tôn phóng ra ánh sáng vàng ṛng chiếu khắp cơi Phật, rồi bảo Bồ-tát Phổ Thủ:

        -Như Lai sẽ kiến lập và hộ tŕ cho người giảng nói kinh pháp này, nhằm khiến chánh pháp được lưu truyền khắp thiên hạ nơi cơi Diêm-phù-đề, không bị hủy diệt.

        Lúc này, chư vị trong chúng hội dùng tất cả loại hoa, tất cả hương thơm tung rải lên chỗ Đức Phật, thưa:

        -Bạch Thế Tôn! Xin Đức Thế Tôn khiến cho kinh này được trụ lâu ở cơi Diêm-phù-đề và được giảng thuyết, lưu truyền khắp nơi.

        Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Tôn giả A-nan:

        -Tôn giả nên thọ tŕ kinh này.

        Tôn giả A-nan đáp:

        -Bạch Thế Tôn! Con xin thọ tŕ.

        Đức Phật dạy:

        -Này A-nan! Kinh này được lưu truyền lên đến cơi trời. Ông nên thọ tŕ, rồi giảng nói rơ ràng cho chúng hội.

        Tôn giả A-nan bạch Phật:

        -Bạch Thế Tôn! Nếu thọ tŕ, đọc tụng và giảng nói kinh này cho người khác th́ phước đức đạt được như thế nào?

        Đức Phật dạy:

        -Giả sử dùng bảy báu đầy khắp hư không để b thí, so với việc dùng văn chương, câu cú đă giảng nói ở trong kinh này để cúng dường Như Lai Chí Chân và hết thảy Thánh chúng, th́ phước đức của phần sau nhiều hơn. Nếu lại có người thọ tŕ kinh điển này, biên chép trên thẻ tre, trên lụa để cúng dường th́ hiện tại, người ấy được mười kho tàng công đức. Những ǵ là mười?

        1. Thấy được tạng Phật v́ đạt được Thiên nhăn.

        2. Nghe được tạng pháp v́ đạt được Thiên nhĩ.

        3. Gặp được tạng Thánh chúng v́ không hề thoái chuyển.

        4. Được tạng báu vô tn của Bồ-tát và Hiền thánh v́ có được bàn tay báu.

        5. Được tạng sắc tượng v́ đầy đủ tướng tốt.

        6. Được tạng quyến thuộc v́ quyến thuộc không thể tan ĺa.

        7. Được tạng chưa từng nghe v́ được các pháp Đà-la-ni, có tạng nhớ nghĩ v́ đạt được biện tài.

        8. Được tạng không sợ hăi v́ thâu tóm hết các luận thuyết ngoại đạo.

        9. Có tạng công đức v́ cứu giúp chúng sinh.

        10. Đạt tạng trí tuệ bậc Thánh v́ thấu tỏ được tất cả pháp của chư Phật.

        Khi Đức Phật thuyết giảng kinh này, có bảy mươi hai ức chư Thiên đạt được pháp nhẫn, vô lượng chúng sinh phát tâm Bồ-đề, vô s chúng sinh dứt sạch mọi thứ lậu hoặc, được giải thoát.

        Tôn giả A-nan bạch Phật:

        -Bạch Thế Tôn! Kinh này tên gọi là ǵ và thọ tŕ như thế nào?

        Đức Phật dạy:

        -Kinh này tên là Đẳng Ngự Chư Pháp, nên theo đó mà thọ tŕ. Lại gọi là Trang Nghiêm Phật Pháp, lại gọi là Tŕ Tâm Phạm Thiên Sở Vấn, Phổ Thủ Sở Sướng, nên theo đó mà phụng tŕ.

        Khi Đức Phật giảng nói như vậy, Bồ-tát Phổ Thủ, Phạm thiên Tŕ Tâm, Bồ-tát Phổ Hạnh, Hiền giả Đại Ca-diếp, Hiền giả A-nan, chư Thiên, loài người, A-tu-la... nghe lời Phật dạy đều vô cùng hoan hỷ.

Quyển 4 HẾT

 

previous.png   back_to_top.png

[ TRANG CHỦ | KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0