* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ | KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ |HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

PHẬT NÓI KINH TR̀ TRAI (1)   Số 00872

- Cư-sĩ Chi-Khiêm dịch chữ Phạn ra chữ Hán.

- Thích-Tâm-Châu dịch Hán ra chữ Việt.

---o0o---

Chính tôi được nghe: Một thời kia đức Phật ở trong điện quan Thừa Tướng, thuộc phía Đông thành Xá-Vệ.

Một hôm mẹ quan Thừa Tướng ấy tên là Duy-Da; sáng sớm dậy, bà tắm gội, mặc áo mầu, rồi cùng những người con dâu đi đến chốn Phật. Đến nơi, cùng nhau cúi đầu lễ sát chân Phật. Lễ xong, tất cả đều ngồi về một bên.

Đức Phật hỏi bà Duy-Da: Bà tắm gội làm ǵ sớm thế? - Bà thưa: Lạy đức Thế-Tôn, con muốn cùng những con dâu con cùng thụ trai-giới!

Đức Phật dạy: Trai có ba hạng, bà muốn tŕ hạng trai nào! - Bà Duy-Da liền quỳ xuống và thưa rằng: Lạy đức Thế-Tôn, chúng con chưa biết ǵ, nay chúng con muốn được Thế-Tôn chỉ giáo cho chúng con nghe biết những ǵ là ba hạng tŕ trai? - Đức Phật dạy: Một là tŕ trai như những người chăn trâu. Hai là tŕ trai như những người tu đạo Ni-Kiền (Nirgrantha: khỏa thân). Ba là, tŕ trai của Phật-pháp.

- Tŕ trai như những người chăn trâu: Nghĩa là, những người chăn trâu cầu sao được nước lành, cỏ ngon, trâu ăn uống no. Chiều về suy nghĩ xem cánh đồng nào được phong-nhiêu, để sớm mai lại lùa trâu đến chỗ ấy cho nó ăn. Cũng như những họ hàng, trai, gái, đă thụ trai giới, ư c̣n để vào lợi-dục sản nghiệp ở nhà và c̣n nghĩ đến những thức ăn uống ngon, để dưỡng dục thân thể. Thế là, sự tŕ trai ấy cũng như ư người chăn trâu kia, không được phúc lớn và không phải là sáng suốt lắm.

- Tŕ trai như những người tu đạo Ni-Kiền: Nghĩa là, đến thời trai giới, ngày rằm (15) trong tháng, những người tu đạo Ni-Kiền họ nằm ép ḿnh xuống đất để thụ trai-giới, họ lại làm lễ, lạy các vị Thần trong khu vực mười do-tuần và tâu rằng: "Ngày nay tôi tŕ trai, không dám làm ác; không dám gọi rằng có nhà người kia, nhà của tôi và tôi không thân quen ǵ; vợ, con, tôi-tớ không phải là của tôi có, tôi cũng không phải là chủ của họ". Song, cái học của họ chỉ là cái học văn sang mà chất hèn, không có ǵ là chính tâm cả. Đến sáng mai, khi mặt trời mọc rồi thời tất cả lại có những việc như việc cũ không khác chút nào. Thế là, tŕ trai như nhưng người tu đạo Ni-Kiền kia không được phúc lớn và không phải là sáng suốt lắm.

- Tŕ trai của Phật-Pháp: Nghĩa là, những đệ-tử trong đạo, theo lời đức Phật dạy, mỗi tháng sáu ngày trai, nên thụ-tŕ tám giới, Tám giới là những ǵ?

- Giới thứ nhất: Giữ trọn một ngày, một đêm, tâm như bậc Chân-nhân (2), không có ư giết, nghĩ thương chúng-sinh. Và, không được cướp hại những loài côn trùng nhung-nhúc; không dùng dao, gậy đánh, giết chúng-sinh. Nghĩ muốn được an lành, lợi-lạc, đừng nên làm việc sát sinh. Như Giới thanh-tịnh, đem nhất tâm tập.

- Giới thứ hai: Giữ trọn một ngày, một đêm, tâm như bậc Chân-nhân, không có ư tham lấy của ai, tự-niệm bố-thí và nên cho bằng cách hoan hỷ cùng tự tay ḿnh cầm cho, cho bằng cách trong sạch và cung-kính; không có ư mong-cầu cùng lại tham-lam, keo-lận. Như giới thanh-tịnh, đem nhất tâm tập.

- Giới thứ Ba: Giữ trọn một ngày, một đêm, tâm như bậc Chân-nhân, không có dâm ư, không nghĩ pḥng-thất; tu-tŕ Phạm-hạnh, không làm tà-dục và tâm không tham-sắc. Như giới thanh-tịnh, đem nhất tâm tập.

- Giới thứ tư: Giữ trọn một ngày, một đêm, tâm như bậc Chân-nhân, không ư vọng-ngữ, tư-niệm chí-thành, an-định từ-ngôn, không nói dối-trá, tâm, miệng hợp nhau. Như giới thanh-tịnh, đem nhất tâm tập.

- Giới thứ năm: Giữ trọn một ngày, một đêm, tâm như bậc Chân-nhân, không uống rượu, không say, không mê-loạn, không thất ư và bỏ ư buông lung. Như giới thanh-tịnh, đem nhất tâm tập.

- Giới thứ sáu: Giữ trọn một ngày, một đêm, tâm như bậc Chân-nhân, không có ư cầu an, không ham hoa, hương, không soa phấn sáp, không làm việc ca-vũ, xướng-nhạc. Như giới thanh-tịnh, đem nhất tâm tập.

- Giới thứ bảy: Giữ trọn một ngày, một đêm, tâm như bậc Chân-nhân, không có ư cầu an, không nằm giường tốt. Nên nằm giường xấu, chiếu cỏ, bỏ sự nằm ngủ, tư-niệm kinh-đạo. Như giới thanh-tịnh, đem nhất tâm tập.

- Giới thứ tám: Giữ trọn một ngày, một đêm, tâm như bậc Chân-nhân, vâng theo như pháp ăn đúng thời; ăn ít và tiết-độ thân-thể, quá giữa ngày, sau không ăn. Như giới thanh-tịnh, đem nhất tâm tập.

Đức Phật lại bảo bà Duy-Da: Ngày thụ-tŕ trai, nên tập niệm năm niệm. Năm niệm là những ǵ?

- Một là, nên niệm Phật: Phật có hiệu là Như-Lai, là Chí-chân, là Đẳng-chính-giác, là Minh-Hạnh-Túc, là Thiện-Thệ thế-gian-phụ, Vô-thượng-Sĩ, Kinh-pháp-ngự, Thiên-nhân-sư... gọi là Phật (3), Thế là niệm Phật. Niệm Phật: ngu si, ác-ư, nộ-tập đều trừ, thiện-tâm tự-sinh, nghĩ vui Phật-nghiệp. Ví như, người ta đem thứ ma du, tảo-đậu gội đầu, trừ được cáu bẩn. Người tŕ trai niệm Phật, đức thanh-tịnh của họ như thế, mọi người thấy họ, ai chẳng tin, ưa.

- Hai là, nên niệm Pháp: Phật thuyết diệu-pháp ba mươi bảy phẩm, (4) đầy đủ không thiếu, tư niệm đừng quên. Và, nên biết Pháp ấy là ánh sáng của thế gian. Thế là niệm Pháp. Niệm Pháp: ngu-si, ác ư, nộ-tập đều trừ, thiện-tâm tự sinh, vui dùng Pháp-nghiệp. Ví như, người ta dùng thứ ma du, tảo-đậu tắm rửa thân thể, trừ được cáu bẩn. Người tŕ trai niệm Pháp, đức thanh-tịnh của họ như thế, mọi người thấy họ, ai chẳng tin, ưa.

- Ba là, nên niệm Chúng (Tăng): Là, những đệ-tử Phật, cung kính, thân cận Phật, nương theo và lĩnh-thụ những lời giáo hóa của Phật để ngộ-nhập Phật tuệ. Những đệ tử Phật có người đắc vị Tu Đà Hoàn, lĩnh-thụ sự chứng ngộ quả-vị Tu Đà Hoàn; có người đắc vị Tư Đà Hàm, lĩnh-thụ sự chứng ngộ quả vị Tư Đà Hàm; có người đắc vị A Na Hàm, lĩnh-thụ sự chứng ngộ quả vị A Na Hàm; có người đắc vị A La Hán, lĩnh-thụ sự chứng ngộ quả vị A La Hán. Ấy là tám hạng (Bát bối: tứ quả, tứ hướng) Trượng phu. Trong bốn đôi (tứ song) trên đây, đều là những vị thành Giới, thành Định, thành Tuệ, thành Giải (giải thoát), thành Độ-tri-kiến (giải thoát tri kiến); là những vị có Thánh-đức, là những vị đủ mọi hạnh, nên chắp tay cung-kính các bậc Tôn-giả phúc-điền trong thiên thượng, thiên hạ ấy. Thế là niệm Chúng. Niệm Chúng: ngu si, ác ư, nộ-tập đều trừ, hỷ-tâm tự sinh, ưa vui Chúng-nghiệp. Ví như, người ta lấy tro chính giặt áo, trừ được nhơ, cáu. Người tŕ trai niệm chúng, đức họ như thế, mọi người thấy họ ai chẳng tin, ưa.

- Bốn là, nên niệm Giới: Thân thụ giới của Phật, nên nhất tâm vâng giữ không thiếu, không phạm, không động không quên, khéo kiến lập, giữ cẩn thận, làm ǵ là đều làm trong đường trí-tuệ, sau không hối hận; không có hy-vọng và thường đem ḷng b́nh đẳng dạy người. Thế là niệm Giới. Niệm Giới: ngu si, ác ư, nộ-tập đều trừ, hỷ tâm tự sinh, vui giới-thống-nghiệp (5). Ví như, mài gương, cáu sạch, sáng tỏ. Người tŕ trai niệm Giới, đức thanh-tịnh của họ như thế, mọi người thấy họ, ai chẳng tin, ưa.

- Năm là nên niệm Thiên: Thiên là cơi trời, có: thứ nhất là Tứ-thiên-vương, thứ hai là Đao-lỵ-thiên, Diêm-thiên, Đâu-thuật-thiên, Bất-kiêu-lạc-thiên, Hóa-ứng-thanh-thiên (6)... Nên tự niệm rằng: "Ta v́ có đức tin, có giới-pháp, có nghe biết, có bố thí, có trí tuệ... đến khi thân ta chết đi, tinh thần ta sẽ sinh lên cơi Thiên. Ta nguyện không mất được đức tin, giới-pháp, nghe biết, bố thí, trí tuệ". Thế là niệm Thiên. Niệm Thiên: ngu si, ác ư, nộ-tập đều trừ, hỷ-tâm tự-sinh, vui Thiên-thống-nghiệp (7). Ví như bảo-châu, thường sửa chữa tối tăm, đem lại trong sáng. Người tŕ trai niệm Thiên, đức thanh-tịnh của họ như thế.

Vâng giữ tám giới, tập năm điều tư-niệm là tŕ trai của Phật-Pháp. Và, cùng với cơi Thiên, tham đức, diệt ác, hưng thiện, sau sinh lên cơi Thiên, tới khi mệnh chung được lên cơi Niết-bàn. Thế nên bậc Trí-giả, tự lực thực-hành, ra tâm tác phúc.

Như thế, bà Duy-Da! Phúc lành của việc tŕ trai, thực rơ ràng, đáng khen và xa rộng như mười sáu đại quốc trong thiên-hạ này vậy. Mười sáu đại quốc trong thiên-hạ, dù trong ấy đầy đủ các của báu đến nổi không thể sao tính kể được, cũng không bằng một ngày thụ tŕ trai-pháp của Phật-Pháp. Xét thấy phúc ấy như thế, thời mười sáu đại quốc (8) kia cũng chỉ như là một hạt đậu.

Thọ số trên cơi Thiên thực là xa rộng không nói xiết được, như đương kim nhân-gian năm mươi năm, thời là một ngày một đêm cửa cơi Trời thứ nhất; cơi Tứ-thiên thứ nhất thọ năm trăm tuổi, thời cơi nhân-gian này chín trăm vạn năm, người tŕ trai của Phật-Pháp, được sinh lên cơi Trời ấy. Cơi nhân-gian một trăm năm, thời là một ngày một đêm của cơi trời Đao-Lỵ. Cơi trời Đao-Lỵ thọ một ngh́n tuổi, thời cơi nhân-gian này là ba ngh́n sáu trăm vạn năm. Cơi nhân-gian hai trăm năm, thời là một ngày một đêm của cơi Diêm-Thiên. Cơi Diêm-Thiên thọ hai ngh́n tuổi, thời cơi nhân-gian này là một ức năm ngh́n hai trăm vạn năm. Cơi nhân-gian bốn trăm năm, thời là một ngày một đêm của cơi Đâu-thuật-thiên. Cơi Đâu-thuật-thiên thọ bốn ngh́n tuổi, thời cơi nhân-gian này là sáu ức tám trăm vạn năm. Cơi nhân-gian tám trăm năm, thời là một ngày một đêm của cơi Bất-Kiêu-Lạc thiên. Cơi Bất- Kiêu-Lạc thiên thọ tám ngh́n tuổi, thời cơi nhân-gian này là hai mươi ba ức bốn ngh́n vạn năm. Cơi nhân-gian một ngh́n sáu trăm năm, thời là một ngày một đêm của cơi Hóa-Ứng-Thanh-Thiên. Cơi Hóa-Ứng-Thanh-Thiên thọ một vạn sáu ngh́n tuổi, thời cơi nhân-gian là chín mươi hai ức một ngh́n sáu trăm vạn năm. Nếu người nào có đức tin, có giới-pháp, có nghe biết, có bố thí, có trí-tuệ, phụng-tŕ trai-pháp của Phật-Pháp, khi mệnh mất đi, tinh thần người ấy, đều sinh lên sáu cơi Trời ấy, hưởng sự an-ổn khoái lạc. Ôi việc thiện rất nhiều, đây ta chỉ nói ít vậy thôi! Phàm người làm việc thiện, hồn-thần sẽ sinh lên cơi Trời, thụ phúc vô-lượng.

Bà Duy-Da nghe đức Phật dạy như thế, hoan hỷ bạch: Quư hóa thay! Quư hóa thay! Lạy đức Thế-Tôn, phúc đức của việc tŕ trai khoái lạc vô-lượng, chúng con xin vâng thụ Phật giới và từ nay về sau mỗi tháng sáu ngày trai, chúng con xin hết sức làm việc phúc cho đến khi chết.

Đức Phật nói kinh này rồi, tất cả đều hoan-hỷ thụ-giới.

 

(1) Kinh này là cuốn kinh số 87 trong Đại-Tạng-kinh. Nguyên văn đề mục của kinh này gọi là "Phật thuyết trai kinh", nhưng cùng một ư với phẩm Tŕ-trai trong kinh Trung-A-Hàm, nên đây để 2 chữ Tŕ-trai cho đẹp nghĩa.

(2) Chân nhân là chỉ vào bậc A-La-Hán, cũng có chỗ chỉ vào Phật, nhưng đều có nghĩa là: người đă chứng được chân-lư.

(3) Đây là nói về 10 hiệu Phật, nhưng vẫn c̣n thiếu và có phần hơi khác với 10 tên hiệu mà các kinh có ghi: Như-Lai, Ứng-Cúng, Chính-Biến-Tri, Minh-Hạnh-Túc, Thiện-Thệ, Thế-Gian Giải, Vô-Thượng-Sĩ, Điều-Ngự Trượng-Phu, Thiên-Nhân-Sư, Phật, Thế-Tôn.

(4) Tức 4 niệm-xứ, 4 chính-cần, 4 như ư túc, 5 căn, 5 lực, 7 Bồ-đề phận và 8 chính-đạo (37 phẩm).

(5) Ư nói vui làm những việc trong hệ-thống của giới-luật.

(6) Tên các cơi trời này so-sánh với những kinh khác, thời sự phiên âm có hơi khác.

(7) Ư nói vui làm những việc thống-thuộc nơi cơi Thiên.

(8) 16 đại-quốc: Xưa nước Ấn-Độ chia làm 16 nước là: 1) Ti-xá-ly (Vasiali). 2) Kiều-tát-la (Kosala). 3) Thất-la-phạt (Sràvasti). 4) Ma-già-đà (Magadha). 5) Ba-la-Nại (Bàrànasi). 6) Ca-t́-la (Kapilavastu). 7) Câu-thi-na (Kusinagara). 8) Kiều-diễm-di (Kausàmbi). 9) Ban-giá-la (Pancàla). 10) Ba-cha-la (Pataliputra). 11) Mạt-thổ-la (Mathurà). 12) Ô-thi (Usa). 13) Bôn-cha-bạt-đa (Pungavasdhana). 14) Đề-bà-bạt-đa (Devàtàra). 15) Ca-thi (Kàsi). 16) Chiêm-ba (Campà). 

 

 back_to_top.png

[ TRANG CHỦ | KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ |HÌNH ẢNH | LIÊN LẠC ]

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0