Trang Chủ      Hình ảnh      Kinh điển      Thần Chú      Liên lạc

KINH TRUNG A HÀM

Hán Dịch: Phật Đà Da Xá & Trúc Phật Niệm,
Việt Dịch & Hiệu Chú: Thích Tuệ Sỹ

Phẩm 05 : Phẩm Tập Tương Ưng

42. Kinh Hà Nghĩa
43. Kinh Bất Tư
44. Kinh Niệm
45. Kinh Tàm Quư (I)
46. Kinh Tàm Quư (II)
47. Kinh Giới (I)
48. Kinh Giới (II)
49. Kinh Cung Kính (I)

50. Kinh Cung Kính (II)
51. Kinh Bổn Tế
52. Kinh Thực (I)
53. Kinh Thực (II)
54. Kinh Tận Trí
55. Kinh Niết-Bàn
56. Kinh Di-Hê
57. Kinh Tức Vị TỲ-Kheo Thuyết

 

42. KINH HÀ NGHĨA [1]

Tôi nghe như vầy:

Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc.

Bấy giờ vào lúc xế chiều, Tôn giả A-nan từ chỗ độc cư tĩnh tọa[2] đứng dậy, đến trước Đức Phật, đảnh lễ dưới chân rồi ngồi sang một bên, thưa rằng:

“Bạch Thế Tôn, giữ giới có ư nghĩa ǵ?[3]”.

Đức Thế Tôn đáp:

“Này A-nan, giữ giới có ư nghĩa là khiến cho không hối hận[4]. Này A-nan, nếu ai giữ giới, người ấy được sự không hối hận”.

“Bạch Thế Tôn, không hối hận th́ có ư nghĩa ǵ?”

“Này A-nan, không hối hận th́ có ư nghĩa khiến cho được hân hoan[5]. A-nan, nếu ai không hối hận, người ấy được sự hân hoan”. 

“Bạch Thế Tôn, hân hoan có ư nghĩa ǵ?”

“Này A-nan, hân hoan có ư nghĩa là khiến cho có hỷ[6]. Này A-nan, nếu ai hân hoan, người ấy có hỷ”. 

“Bạch Thế Tôn, hỷ có ư nghĩa ǵ?”

“Này A-nan, hỷ có ư nghĩa là khiến cho tĩnh chỉ[7]. Này A-nan, nếu ai có hỷ, người ấy có tĩnh chỉ của thân”. 

“Bạch Thế Tôn, tĩnh chỉ có ư nghĩa ǵ?”

“Này A-nan, tĩnh chỉ có ư nghĩa là khiến cho lạc[8]. A-nan, nếu ai tĩnh chỉ người ấy có cảm thọ lạc. 

“Bạch Thế Tôn, lạc có ư nghĩa ǵ?”

“Này A-nan, lạc có nghĩa khiến cho có định[9]. A-nan, nếu ai có lạc người ấy có định. 

“Bạch Thế Tôn, định có ư nghĩa ǵ?”

“Này A-nan, định có ư nghĩa là khiến cho thấy như thật, biết như chơn[10]. A-nan, nếu ai có định người ấy thấy như thật, biết như chơn. 

“Bạch Thế Tôn, thấy như thật, biết như chơn có ư nghĩa ǵ?”

“Này A-nan, thấy như thật, biết như chơn có ư nghĩa là khiến cho yếm ly[11]. Này A-nan, thấy như thật, biết như chơn người ấy có sự yếm ly. 

“Bạch Thế Tôn, yếm ly có ư nghĩa ǵ?”

“Này A-nan, yếm ly có ư nghĩa là khiến cho vô dục[12]. A-nan, nếu ai yếm ly người ấy được vô dục.

“Bạch Thế Tôn, vô dục có ư nghĩa ǵ?”

“Này A-nan, vô dục có ư nghĩa là khiến cho giải thoát. Này A-nan, nếu ai vô dục th́ người ấy được giải thoát hết thảy dâm, nộ, si. 

“Cho nên, này A-nan, nhân tŕ giới mà được không hối hận, nhân không hối hận mà được hân hoan, nhân hân hoan mà được hỷ, nhân hỷ mà được chỉ, nhân chỉ mà được lạc, nhân lạc mà được định.

“Này A-nan, Đa văn Thánh đệ tử nhân định mà có tri kiến như thật, nhân có tri kiến như thật mà có yếm ly, nhân có yếm ly mà được vô dục, nhân vô dục mà được giải thoát, nhân giải thoát mà có giải thoát tri kiến, biết đúng như thật rằng: ‘Sự sanh đă dứt, phạm hạnh đă vững, việc cần làm đă làm xong, không c̣n tái sanh nữa’. 

“Này A-nan, đó chính là các pháp hỗ trợ lẫn nhau, làm nhân cho nhau. Như vậy, giới này đưa đến chỗ cao tột, tức là đưa từ bờ này đến tận bờ kia[13].

Phật thuyết như vậy. Tôn giả A-nan và các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.

___________________________________________

Chú thích :

[1]     Tương đương Pāli: A.x. 1. Kimatthiya.

[2]     Hán: yến tọa (có bản viết: . Pāli: patisallāna hoặc paṭisallāna.

[3]     Pāli: kimatthiya, có ư nghĩa ǵ, mục đích ǵ, ích lợi ǵ?

[4]     Hán: bất hối不悔. Pāli: avippaṭisāra, không hối hận.

[5]     Hán: hoan duyệt歡悅. Pāli: pāmojja, hân hoan, thích thú, vui vẻ.

[6]     Hán: hỷ. Pāli: pīti, trạng thái hỷ giống như xuất thần.

[8]     Hán: lạc. Pāli: sukha, an lạc, an ổn khoái lạc.

[9]    Định. Pāli: samādhi.

[10]   Hán: kiến như thật, tri như chân見如 . Pāli: yathābhūtaññaṇadassana, tri kiến như thật.

[11]   Hán: yếm. Pāli: nibbidā, sự chán ghét, nhàm tờm.

[12]   Hán: vô dục無欲. Pāli: virāga, ly dục, ly tham; không c̣n tham dục.

[13]   Pāli: iti kho Ananda kusalāni sīlāni anupubbena aggāya parentī ti, đó là các thiện giới lần lượt dẫn đến chỗ cao tột.

___________________________________________

43. KINH BẤT TƯ [1]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc.

Bấy giờ Đức Thế Tôn nói rằng:

“Này A-nan, người giữ giới không nên nghĩ rằng: ‘Mong sao tôi không có sự hối hận’. Này A-nan, bởi v́ pháp tánh vốn vậy[2] ai giữ giới, người ấy được sự không hối hận.

“Này A-nan, người đă được sự không hối hận, không nên nghĩ rằng: ‘Mong sao tôi được hân hoan. Này A-nan, bởi v́ pháp tánh vốn như vậy, ai không hối hận người ấy được hân hoan.

“Này A-nan, người đă được sự hân hoan không nên nghĩ rằng: ‘Mong sao tôi được hỷ’. Này A-nan, bởi v́ pháp tánh vốn vậy, ai có hân hoan, người ấy được hỷ.

“Này A-nan, người đă có hỷ không nên nghĩ rằng: ‘Mong sao tôi được tĩnh chỉ’. Này A-nan, bởi v́ pháp tánh vốn như vậy, ai có hỷ, người ấy được tĩnh chỉ.

“Này A-nan, người đă được tĩnh chỉ không nên nghĩ rằng: ‘Mong sao tôi có lạc’. Này A-nan, bởi v́ pháp tánh vốn vậy, ai đă có tĩnh chỉ, người ấy được cảm thọ lạc.

“Này A-nan, người đă có lạc không nên nghĩ rằng: ‘Mong sao tôi có định’. Này A-nan, bởi v́ pháp tánh vốn vậy, ai có lạc, người ấy có định.

“Này A-nan, người đă có định không nên nghĩ rằng: ‘Mong sao tôi thấy như thật, biết như chân’. Này A-nan, bởi v́ pháp tánh vốn vậy, ai có định, người ấy thấy như thật, biết như chân.

“Này A-nan, người thấy như thật, biết như chân không nên nghĩ rằng: ‘Mong sao tôi có sự yếm ly’. Này A-nan, bởi v́ pháp tánh vốn như vậy, ai thấy như thật, biết như chân, người ấy có sự yếm ly.

“Này A-nan, người đă có sự yếm ly không nên nghĩ rằng: ‘Mong sao tôi được vô dục’. Này A-nan, bởi v́ pháp tánh vốn như vậy, ai có sự yếm ly người ấy được vô dục.

“Này A-nan, người đă vô dục không nên nghĩ rằng: ‘Mong sao tôi được giải thoát’. Này A-nan, bởi v́ pháp tánh vốn như vậy, ai đă  vô dục người ấy được giải thoát hết thảy dâm, nộ, si.

“Này A-nan, đấy là nhân tŕ giới mà được không hối hận, nhân không hối hận mà được hân hoan, nhân hân hoan mà được hỷ, nhân hỷ mà được chỉ, nhân chỉ mà được lạc, nhân lạc mà được định.

“Này A-nan, Đa văn Thánh đệ tử nhân định mà có tri kiến như thật, nhân có tri kiến như thật mà có yếm ly, nhân có yếm ly mà được vô dục, nhân vô dục mà được giải thoát, nhân giải thoát mà có giải thoát tri kiến, biết đúng như thật rằng: ‘Sự sanh đă dứt, phạm hạnh đă vững, việc cần làm đă làm xong, không c̣n tái sanh nữa’.

“Này A-nan, đó chính là các pháp hỗ trợ lẫn nhau, làm nhân cho nhau. Như vậy, giới này đưa đến chỗ cao tột, tức là đưa từ bờ này đến tận bờ kia.

Phật thuyết như vậy. Tôn giả A-nan và các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.

___________________________________________

Chú thích :

[1]     Tương đương Pāli: A.x.2. Cetanā, tư, không có nghĩa bất như bản Hán.

[2]     Hán: pháp tự nhiên法自 . Pāli: dhammatā esā, pháp tánh là như thế.

___________________________________________

44. KINH NIỆM [1]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc.

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng:

“Nếu các Tỳ-kheo nào thường lăng quên, không chánh trí th́ làm tổn hại chánh niệm, chánh trí. Nếu không chánh niệm, chánh trí th́ làm tổn hại các việc ǵn giữ[2] các căn, ǵn giữ giới, không hối hận, hân hoan, hỷ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát. Nếu không giải thoát th́ làm tổn hại Niết-bàn[3].

“Nếu Tỳ-kheo nào không thường hay lăng quên, có chánh trí th́ thường xuyên có[4] chánh niệm chánh trí. Nếu có chánh niệm chánh trí th́ thường giữ ǵn các căn, giữ giới, không hối hận, hân hoan, hỷ, chỉ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát. Nếu đă giải thoát liền chứng đắc Niết-bàn.

Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.

___________________________________________

Chú thích :

[1]     Tương đương Pāli: A. viii. 81. Sati.

[2]     Tham chiếu Pāli: Không chánh niệm sẽ mất tàm quư; mất tàm quư sẽ mất sự hộ tŕ các căn; mất hộ các căn sẽ mất hộ giới…

[3]    Tham chiếu Pāli: nibbidāvirāge asati…hatūpanisaṃ hoti vimuttiñāṇadassanaṃ, trong khi không có yếm ly, ly dục, th́ có sự tổn hại đối với giải thoát tri kiến.

[4]     Hán: tập. Pāli: upanisasammpanno hoti.

___________________________________________

45. KINH TÀM QUƯ (I) [1]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc.

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng:

“Nếu có Tỳ-kheo nào không tàm không quư th́ làm tổn hại ái và kỉnh[2]. Nếu không có ái và kỉnh th́ làm tổn hại tín. Nếu không có tín th́ làm tổn hại chánh tư duy. Nếu không có chánh tư duy th́ làm tổn hại chánh niệm chánh trí. Nếu không có chánh niệm chánh trí th́ làm tổn hại ǵn giữ các căn, giữ giới, không hối hận, hân hoan, hỷ, tĩnh chỉ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát. Nếu không giải thoát th́ làm tổn hại Niết-bàn.

“Nếu Tỳ-kheo nào biết hổ thẹn th́ có ái và kỉnh. Nếu có ái và kỉnh th́ thường có tín. Nếu có tín th́ thường có chánh tư duy. Nếu có chánh tư duy th́ thường có chánh niệm chánh trí. Nếu có chánh niệm chánh trí th́ thường giữ các căn, giữ giới, không hối hận, hân hoan, hỷ, tĩnh chỉ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát. Nếu giải thoát th́ liền được Niết-bàn.

Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.

___________________________________________

Chú thích :

[1]     Tương đương Pāli: A. Vii. Hiri. Tham chiếu kinh số 44 trên.

[2]    Hán: ái cung kỉnh. Tham chiếu Pāli: hirottappeasati… hatūpanisaṃ indriyasaṃvaro, trong khi không có tàm và quư, sự thủ hộ các căn bị tổn hại.愛恭 敬

___________________________________________

46. KINH TÀM QUƯ (II) [1]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc.

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lê Tử bảo các Tỳ-kheo rằng:

“Này các Hiền giả, nếu Tỳ-kheo nào không tàm không quư th́ làm tổn hại ái và kỉnh. Nếu không có tín th́ làm tổn hại chánh tư duy. Nếu không có chánh tư duy th́ làm tổn hại chánh niệm, chánh trí. Nếu không có chánh niệm, chánh trí th́ làm tổn hại ǵn giữ các căn, giữ giới, không hối hận, hân hoan, hỷ, tĩnh chỉ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát. Nếu không giải thoát th́ làm tổn hại Niết-bàn.

“Này chư Hiền, cũng như cây nào mà lớp vỏ ngoài tổn hại th́ lớp vỏ trong cũng hư. Vỏ trong hư, nên thân, lơi, nhánh, cành, hoa, lá chắc chắn thảy đều tàn rụi.

“Chư Hiền nên biết, Tỳ-kheo cũng như vậy. Nếu không tàm không quư th́ làm tổn hại ái và kỉnh. Nếu không ái và kính th́ làm tổn hại tín. Nếu không có tín th́ làm tổn hại chánh tư duy. Nếu không có chánh tư duy th́ làm tổn hại chánh niệm, chánh trí. Nếu không có chánh niệm, chánh trí th́ làm tổn hại ǵn giữ các căn, giữ giới, không hối hận, hân hoan, hỷ, tĩnh chỉ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát. Nếu không giải thoát th́ làm tổn hại Niết-bàn.

“Này chư Hiền, Tỳ-kheo biết tàm biết quư th́ thường có ái và kỉnh. Nếu có ái và kỉnh th́ thường có tín. Nếu có tín th́ thường có chánh tư duy. Nếu có chánh tư duy th́ có chánh niệm, chánh trí. Nếu có chánh niệm, chánh trí th́ thường ǵn giữ các căn, giữ giới, không hối hận, hân hoan, hỷ, tĩnh chỉ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát. Nếu đă giải thoát liền được Niết-bàn.

“Này chư Hiền, giống như cây nào mà vỏ ngoài không bị hư tổn th́ vỏ trong không bị hư hại. Vỏ trong không hư, nên thân, lơi, cành, nhánh, hoa, lá chắc chắn thảy đều thành tựu.

“Chư Hiền nên biết, Tỳ-kheo cũng như vậy. Nên biết tàm biết quư th́ thường có ái và kỉnh. Nếu có ái kỉnh th́ thường có tín. Nếu có tín th́ thường có chánh tư duy. Nếu có chánh tư duy th́ thường có chánh niệm, chánh trí. Nếu có chánh niệm, chánh trí th́ thường giữ các căn, giữ giới, không hối hận, hân hoan, hỷ, tĩnh chỉ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát. Nếu đă giải thoát liền đắc Niết-bàn.

Tôn giả Xá-lê Tử thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Tôn giả Xá-lê Tử thuyết, hoan hỷ phụng hành.

___________________________________________

Chú thích :

[1]     Tham chiếu kinh 45 trên.

___________________________________________

47. KINH GIỚI (I) [1]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc. 

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Nếu Tỳ-kheo nào phạm giới th́ làm tổn hại ǵn giữ các căn. Giữ giới th́ không hối hận, hân hoan, hỷ, tĩnh chỉ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát. Nếu không giải thoát th́ làm tổn hại Niết-bàn.

“Nếu Tỳ-kheo nào giữ giới th́ thường không có sự hối hận, hân hoan, hỷ, tĩnh chỉ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát. Nếu đă giải thoát th́ liền đắc Niết-bàn.

Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.

___________________________________________

Chú thích :

[1]     Tương đương Pāli: A.x.3 Sīla. Tham chiếu kinh 44 và các kinh tiếp theo trên.

___________________________________________

48. KINH GIỚI (II) [1]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc. 

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lê Tử nói với các Tỳ-kheo rằng:

“Này chư Hiền, nếu Tỳ-kheo nào phạm giới th́ làm tổn hại ǵn giữ các căn. Giữ giới th́ không hối hận, hân hoan, hỷ, tĩnh chỉ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát. Nếu không giải thoát th́ làm tổn hại Niết-bàn. 

“Này chư Hiền, giống như cây nào mà rễ bị tổn hại th́ thân, lơi, nhánh, cành, hoa, lá không thể thành được. Chư Hiền nên biết, Tỳ-kheo cũng lại như vậy. Nếu ai phạm giới th́ làm tổn hại ǵn giữ các căn, giữ giới, không hối hận, hân hoan, hỷ, tĩnh chỉ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát. Nếu không giải thoát th́ làm tổn hại Niết-bàn.

“Này chư Hiền, nếu Tỳ-kheo nào giữ giới th́ thường không có sự hối hận, hân hoan, hỷ, tĩnh chỉ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát. Nếu đă giải thoát th́ liền đắc Niết-bàn.

“Này chư Hiền, giống như cây nào mà rễ không hư th́ thân, lơi, nhánh, cành, hoa, lá đều thành tựu. Chư Hiền nên biết, Tỳ-kheo cũng như vậy. Nếu ai giữ giới th́ thường không hối hận, hân hoan, hỷ, tĩnh chỉ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát. Nếu đă giải thoát th́ liền đắc Niết-bàn.

Tôn giả Xá-lê Tử thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Tôn giả Xá-lê Tử thuyết, hoan hỷ phụng hành.

___________________________________________

Chú thích :

[1]     Tương đương Pāli: A. x. 4 Upanisā; tham chiếu, A. x. 5 Ānanda.

___________________________________________

49. KINH CUNG KÍNH (I) [1]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc. 

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Tỳ-kheo nên thực hành hạnh cung kính và khéo quán sát, kính trọng các bậc phạm hạnh. Nếu Tỳ-kheo nào không thực hành hạnh cung kính, không khéo quán sát[2], không kính trọng[3] các bậc phạm hạnh, mà pháp oai nghi[4] đầy đủ, điều đó không thể xảy ra. Pháp oai nghi không đầy đủ mà học pháp đầy đủ, điều đó không thể xảy ra. Học pháp không đầy đủ mà giới thân đầy đủ, điều đó không thể xảy ra. Giới thân không đầy đủ mà định thân đầy đủ[5], điều đó không thể xảy ra. Định thân không đầy đủ mà tuệ thân đầy đủ, điều đó không thể xảy ra. Tuệ thân không đầy đủ mà giải thoát thân đầy đủ, điều đó không thể xảy ra. Giải thoát thân không đầy đủ mà giải thoát tri kiến thân đầy đủ, điều đó không thể xảy ra. Giải thoát tri kiến thân không đầy đủ mà Niết-bàn đầy đủ, điều đó không thể xảy ra.

“Nếu Tỳ-kheo nào thực hành hạnh cung kính và khéo quán sát, kính trọng các bậc phạm hạnh nên pháp oai nghi đầy đủ, điều đó chắc chắn xảy ra. Pháp oai nghi đầy đủ nên học pháp đầy đủ, điều đó chắc chắn xảy ra. Học pháp đầy đủ nên giới thân đầy đủ, điều đó chắc chắn xảy ra. Giới thân đầy đủ nên định thân đầy đủ, điều đó chắc chắn xảy ra. Định thân đầy đủ nên tuệ thân đầy đủ, điều đó chắc chắn xảy ra. Tuệ thân đầy đủ nên giải thoát thân đầy đủ, điều đó chắc chắn xảy ra. Giải thoát thân đầy đủ nên giải thoát tri kiến thân đầy đủ, điều đó chắc chắn xảy ra. Giải thoát tri kiến thân đầy đủ nên Niết-bàn đầy đủ, điều đó chắc chắn xảy ra”.

Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.

___________________________________________

Chú thích :

[1]     Tương đương Pāli: A. V. 21-22 Agārava (không cung kính).

[2]     Hán: bất thiện quán. Pāli: appatissa, không thuận tùng, không phục tùng, hay gây gổ.不善

[3]     Hán: bất kính trọng. Pāli: asabhāgavuttika, không có lễ nghi, vô lễ.不敬

[4]    Hán: oai nghi pháp威儀 . Pāli: ābhisamācarikaṃ dhammaṃ, hành nghi lễ tiết.

[5]     Bản Pāli: sīlāni aparipūretvā sammādiṭṭhi paripūressati, các giới không viên măn mà chánh kiến viên măn.

___________________________________________

50. KINH CUNG KÍNH (II) [1]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng:

“Tỳ-kheo nên thực hành hạnh cung kính và khéo quán sát, kính trọng các bậc phạm hạnh.

“Nếu Tỳ-kheo nào không thực hành hạnh cung kính, không khéo quán sát, không kính trọng các bậc phạm hạnh mà pháp oai nghi đầy đủ, điều đó không thể xảy ra. Pháp oai nghi không đầy đủ mà học pháp đầy đủ, điều đó không thể xảy ra. Học pháp không đầy đủ mà giữ ǵn các căn, giữ giới, không hối hận, hân hoan, hỷ, tĩnh chỉ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát đầy đủ, điều đó không thể xảy ra. Giải thoát không đầy đủ mà Niết-bàn đầy đủ, điều đó không thể xảy ra.

“Nếu Tỳ-kheo nào thực hành hạnh cung kính và khéo quán sát, kính trọng các bậc phạm hạnh nên pháp oai nghi đầy đủ, điều đó chắc chắn xảy ra. Pháp oai nghi đầy đủ nên học pháp đầy đủ, điều đó chắc chắc xảy ra. Học pháp đầy đủ nên giữ ǵn các căn, giữ giới, không hối hận, hân hoan, hỷ, tĩnh chỉ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát đầy đủ nên Niết-bàn đầy đủ, điều đó chắc chắn xảy ra.

Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.

___________________________________________

Chú thích :

[1]     Tham chiếu kinh số 49 trên.

___________________________________________

51. KINH BỔN TẾ [1]

Tôi nghe như vầy

Một thời, Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng:

“Không thể biết biên tế[2] cùng cực của hữu ái[3]. Trước vốn không có hữu ái, nhưng nay sanh ra hữu ái, do đó mới có thể biết được nhân của hữu ái[4]. 

“Hữu ái có tập[5] chứ không phải không tập. Tập của hữu ái là ǵ? Vô minh là tập. 

“Vô minh cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của vô minh là ǵ? Năm triền cái[6] là tập.

“Năm triền cái cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của năm triền cái là ǵ? Ba ác hành là tập.

“Ba ác hành cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của ba ác hành là ǵ? Không thủ hộ các căn là tập.

“Không thủ hộ các căn cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của không thủ hộ các căn là ǵ? Không chánh niệm chánh trí là tập.

“Không chánh niệm chánh trí cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của không chánh niệm chánh trí là ǵ? Không chánh tư duy[7] là tập.

“Không chánh tư duy cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của không chánh tư duy là ǵ? Không có tín là tập.

“Không có tín cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của không có tín là ǵ? Nghe pháp ác[8] là tập.

“Nghe pháp ác cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của nghe điều ác là ǵ? Gần gũi ác tri thức[9] là tập.

“Gần gũi ác tri thức cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của gần gũi ác tri thức là ǵ? Người ác[10] là tập.

“Như thế, có đủ người ác liền có đủ sự gần gũi ác tri thức. Có đủ sự gần gũi ác tri thức rồi liền có đủ sự nghe pháp ác. Có đủ sự nghe pháp ác rồi, liền có đủ sự sanh ḷng bất tín. Có đủ sự sanh ḷng bất tín rồi, liền không chánh tư duy. Có đủ sự không chánh tư duy rồi, liền có đủ sự không chánh niệm chánh trí. Có đủ sự không chánh niệm chánh trí rồi, liền có đủ sự không thủ hộ các căn. Có đủ sự không thủ hộ các căn rồi, liền có đủ ba ác hành. Đủ ba ác hành rồi, liền có đủ năm triền cái. Đủ năm triền cái rồi, liền có đủ vô minh. Có đủ vô minh rồi, liền đầy đủ hữu ái.

“Như vậy, hữu ái này lần lượt được tựu thành trọn vẹn.

“Minh giải thoát[11] cũng có tập, chứ không phải không tập. Tập của minh giải thoát là ǵ? Bảy giác chi là tập. Bảy giác chi cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của bảy giác chi là ǵ? Bốn niệm xứ là tập. Bốn niệm xứ có tập chứ không phải không tập. Tập của bốn niệm xứ là ǵ? Ba diệu hành là tập. Ba diệu hành cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của ba diệu hành là ǵ? Thủ hộ các căn là tập. Thủ hộ các căn cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của sự thủ hộ các căn là ǵ? Chánh niệm chánh trí là tập. 

Chánh niệm chánh trí cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của chánh niệm chánh trí là ǵ? Chánh tư duy là tập. Chánh tư duy cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của chánh tư duy là ǵ? Tín là tập. Tín cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của tín là ǵ? Nghe pháp thiện[12] là tập. Nghe pháp thiện cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của nghe pháp thiện là ǵ? Gần gũi thiện tri thức là tập. Gần gũi thiện tri thức cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của sự gần gũi thiện tri thức là ǵ? Người thiện[13] là tập. 

“Đó là, có đủ người thiện liền có đủ sự gần gũi thiện tri thức. Đủ sự gần gũi thiện tri thức liền có đủ sự nghe điều thiện. Có đủ sự nghe điều thiện liền có đủ tín. Có đủ tín liền có đủ chánh tư duy. Có đủ chánh tư duy liền có đủ chánh niệm chánh trí. Có đủ chánh niệm chánh trí mới có đủ sự thủ hộ các căn. Có đủ sự thủ hộ các căn liền có đủ ba diệu hành. Có đủ ba diệu hành liền có đủ bốn niệm xứ. Có đủ bốn niệm xứ liền có đủ bảy giác chi. Có đủ bảy giác chi liền đầy đủ minh giải thoát. Như vậy, minh giải thoát này lần lượt được thành tựu toàn vẹn”. 

Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.

___________________________________________

Chú thích :
 
[1]     Tham chiếu Pāli A.x. 61-62 Āhāra. Đối chiếu biệt dịch No. 36. Phật Thuyết Bản Tướng Ỷ Trí Kinh, An Thế Cao dịch; No. 37 Phật Thuyết Duyên Bản Trí Kinh, khuyết danh người dịch. (Bản Hán dịch này khá kỳ, khó hiểu).
[2]     Hán: bổn tế
. Pāli: purimā koṭi, biên tế tối sơ, giới hạn thời gian về trước.
[3]    Hán: hữu ái
. Pāli: bhava-taṇhā: khao khát hiện hữu hay khát vọng sinh tồn. 
[4]     Hán: tiện đắc khả tri sở nhân hữu ái. Pāli: atha ca pana paññāyati ‘idappaccayā bhavataṇhā ti.
[5]    Lưu ư chữ Hán: tập
theo nghĩa tập quán hay tập nhân, chứ không phải tập theo nghĩa tập khởi (tập hợp). Chỉ t́m thấy một từ Pāli (āhāra: thức ăn) tương đồng với hai từ Hán dịch trong kinh này và các kinh sau: tập và thực. Như vậy, phải có hai từ Sanskrit hay Pāli khác nhau. Hiện chưa suy ra được. No.36 và 37 dịch là hữu bản , hay tùng trí hữu bản .
[6]      Hán: ngũ cái
. Pāli: pañca nīvaraṇā.
[7]     Hán: bất chánh tư duy
. Pāli: ayoniso manasikāraṃ, không như lư tác ư, tư duy không phương pháp.
[8]     Hán: ác pháp
. Pāli: asaddhamma, pháp không vi diệu, không chân chánh.
[9]     Hán: ác tri thức
, xem cht. dưới.
[10]   Bản Hán đề cập ác thiện tri thức và ác nhân. Bản Pāli chỉ đề cập asappurisa, không phải thiện nhân.
[11]   Minh giải thoát
. Pāli: vijjā-vimutti.
[12]   Pāli: saddhamma, diệu pháp, chánh pháp.
[13]   Hán: thiện nhân
. Pāli: sappurisa, người lỗi lạc, siêu việt; chân nhân, thượng nhân, thiện sĩ.

___________________________________________

52. KINH THỰC (I) [1]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng:

“Không thể biết biên tế[2] cùng cực của hữu ái. Trước vốn không có hữu ái, nhưng nay sanh ra hữu ái, do đó mới có thể biết được nhân của hữu ái.

“Hữu ái có thức ăn[3] chứ không phải không thức ăn. Thức ăn của hữu ái là ǵ? Vô minh là thức ăn.

“Vô minh cũng có thức ăn chứ không phải không thức ăn. Thức ăn của vô minh là ǵ? Năm triền cái[4] là thức ăn.

“Năm triền cái cũng có thức ăn chứ không phải không thức ăn. Thức ăn của năm triền cái là ǵ? Ba ác hành là thức ăn.

“Ba ác hành cũng có thức ăn chứ không phải không thức ăn. Thức ăn của ba ác hành là ǵ? Không thủ hộ các căn là thức ăn.

“Không thủ hộ các căn cũng có thức ăn chứ không phải không thức ăn. Thức ăn của không thủ hộ các căn là ǵ? Không chánh niệm chánh trí là thức ăn.

“Không chánh niệm chánh trí cũng có thức ăn chứ không phải không thức ăn. Thức ăn của không chánh niệm chánh trí là ǵ? Không chánh tư duy là thức ăn.

“Không chánh tư duy cũng có thức ăn chứ không phải không thức ăn. Thức ăn của không chánh tư duy là ǵ? Không có tín là thức ăn.

“Không có tín cũng có thức ăn chứ không phải không thức ăn. Thức ăn của không có tín là ǵ? Nghe pháp ác là thức ăn.

“Nghe pháp ác cũng có thức ăn chứ không phải không thức ăn. Thức ăn của nghe pháp ác là ǵ? Gần gũi ác tri thức là thức ăn.

“Gần gũi ác tri thức cũng có thức ăn chứ không phải không thức ăn. Thức ăn của gần gũi ác tri thức là ǵ? Người ác là thức ăn.

“Như thế, có đủ người ác liền có đủ sự gần gũi ác tri thức. Có đủ sự gần gũi ác tri thức rồi liền có đủ sự nghe pháp ác. Có đủ sự nghe pháp ác rồi, liền có đủ sự sanh ḷng bất tín. Có đủ sự sanh ḷng bất tín rồi, liền không chánh tư duy. Có đủ sự không chánh tư duy rồi, liền có đủ sự không chánh niệm chánh trí. Có đủ sự không chánh niệm chánh trí rồi, liền có đủ sự không thủ hộ các căn. Có đủ sự không thủ hộ các căn rồi, liền có đủ ba ác hành. Đủ ba ác hành rồi, liền có đủ năm triền cái. Đủ năm triền cái rồi, liền có đủ vô minh. Có đủ vô minh rồi, liền đầy đủ hữu ái.

“Như vậy, hữu ái này lần lượt được tựu thành trọn vẹn.

“Biển cả cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của biển cả là ǵ? Sông lớn là thức ăn.

“Sông lớn cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của sông lớn là ǵ? Sông nhỏ là thức ăn.

“Sông nhỏ cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của sông nhỏ là ǵ? Lạch lớn[5] là thức ăn.

“Lạch lớn cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của lạch lớn là ǵ? Lạch nhỏ là thức ăn.

“Lạch nhỏ cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của lạch nhỏ là ǵ? Suối, chằm trong các sườn núi là thức ăn.

“Suối, chằm trong các sườn núi cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của suối, chằm trong các sườn núi là ǵ? Mưa là thức ăn.

“Có lúc mưa lớn. Mưa lớn rồi th́ suối, chằm trong các sườn núi tràn đầy. Suối, chằm trong các sườn núi tràn đầy rồi th́ lạch nhỏ tràn đầy. Lạch nhỏ tràn đầy rồi th́ lạch lớn tràn đầy. Lạch lớn tràn đầy th́ sông nhỏ tràn đầy. Sông nhỏ tràn đầy th́ sông lớn tràn đầy. Sông lớn tràn đầy th́ biển cả tràn đầy. Như vậy, biển cả kia lần hồi tràn đầy trọn vẹn.

“Giống như vậy, hữu ái cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của hữu ái là ǵ? Vô minh là thức ăn.

“Vô minh cũng có thức ăn chứ không phải không thức ăn. Thức ăn của vô minh là ǵ? Năm triền cái là thức ăn.

“Năm triền cái cũng có thức ăn chứ không phải không thức ăn. Thức ăn của năm triền cái là ǵ? Ba ác hành là thức ăn.

“Ba ác hành cũng có thức ăn chứ không phải không thức ăn. Thức ăn của ba ác hành là ǵ? Không thủ hộ các căn là thức ăn.

“Không thủ hộ các căn cũng có thức ăn chứ không phải không thức ăn. Thức ăn của không thủ hộ các căn là ǵ? Không chánh niệm chánh trí là thức ăn.

“Không chánh niệm chánh trí cũng có thức ăn chứ không phải không thức ăn. Thức ăn của không chánh niệm chánh trí là ǵ? Không chánh tư duy là thức ăn.

“Không chánh tư duy cũng có thức ăn chứ không phải không thức ăn. Thức ăn của không chánh tư duy là ǵ? Không có tín là thức ăn.

“Không có tín cũng có thức ăn chứ không phải không thức ăn. Thức ăn của không có tín là ǵ? Nghe pháp ác là thức ăn.

“Nghe pháp ác cũng có thức ăn chứ không phải không thức ăn. Thức ăn của nghe pháp ác là ǵ? Gần gũi ác tri thức là thức ăn.

“Gần gũi ác tri thức cũng có thức ăn chứ không phải không thức ăn. Thức ăn của gần gũi ác tri thức là ǵ? Người ác là thức ăn.

“Như thế, có đủ người ác liền có đủ sự gần gũi ác tri thức. Có đủ sự gần gũi ác tri thức rồi liền có đủ sự nghe pháp ác. Có đủ sự nghe pháp ác rồi, liền có đủ sự sanh ḷng bất tín. Có đủ sự sanh ḷng bất tín rồi, liền không chánh tư duy. Có đủ sự không chánh tư duy rồi, liền có đủ sự không chánh niệm chánh trí. Có đủ sự không chánh niệm chánh trí rồi, liền có đủ sự không thủ hộ các căn. Có đủ sự không thủ hộ các căn rồi, liền có đủ ba ác hành. Đủ ba ác hành rồi, liền có đủ năm triền cái. Đủ năm triền cái rồi, liền có đủ vô minh. Có đủ vô minh rồi, liền đầy đủ hữu ái.

“Như vậy, hữu ái này lần lượt được tựu thành trọn vẹn.

“Minh giải thoát cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của minh giải thoát là ǵ? Bảy giác chi là thức ăn.

“Bảy giác chi cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của bảy giác chi là ǵ? Bốn niệm xứ là thức ăn.

“Bốn niệm xứ cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của bốn niệm xứ là ǵ? Ba diệu hạnh là thức ăn.

“Ba diệu hạnh cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của ba diệu hạnh là ǵ? Thủ hộ các căn là thức ăn.

“Thủ hộ các căn cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của ǵn giữ các căn là ǵ? Chánh niệm chánh trí là thức ăn.

“Chánh niệm chánh trí cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của chánh niệm chánh trí là ǵ? Chánh tư duy là thức ăn.

“Chánh tư duy cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của chánh tư duy là ǵ? Tín là thức ăn.

“Tín cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của tín là ǵ? Nghe điều thiện là thức ăn.

“Nghe điều thiện cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của nghe điều thiện là ǵ? Gần gũi thiện tri thức là thức ăn.

“Gần gũi thiện tri thức cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của gần gũi thiện tri thức là ǵ? Người thiện là thức ăn.

“Đó là, có đủ người thiện liền có đủ sự gần gũi thiện tri thức. Đủ sự gần gũi thiện tri thức liền có đủ sự nghe điều thiện. Có đủ sự nghe điều thiện liền có đủ tín. Có đủ tín liền có đủ chánh tư duy. Có đủ chánh tư duy liền có đủ chánh niệm chánh trí. Có đủ chánh niệm chánh trí mới có đủ sự thủ hộ các căn. Có đủ sự thủ hộ các căn liền có đủ ba diệu hành. Có đủ ba diệu hành liền có đủ bốn niệm xứ. Có đủ bốn niệm xứ liền có đủ bảy giác chi. Có đủ bảy giác chi liền đầy đủ minh giải thoát. Như vậy, minh giải thoát này lần lượt được thành tựu toàn vẹn”.

“Biển cả cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của biển cả là ǵ? Sông lớn là thức ăn.

“Sông lớn cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của sông lớn là ǵ? Sông nhỏ là thức ăn.

“Sông nhỏ cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của sông nhỏ là ǵ? Lạch lớn là thức ăn.

“Lạch lớn cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của lạch lớn là ǵ? Lạch nhỏ là thức ăn.

“Lạch nhỏ cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của lạch nhỏ là ǵ? Suối, chằm trong các sườn núi là thức ăn.

“Suối, chằm trong các sườn núi cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của suối, chằm trong các sườn núi là ǵ? Mưa là thức ăn.

“Có lúc mưa lớn. Mưa lớn rồi th́ suối, chằm trong các sườn núi tràn đầy. Suối, chằm trong các sườn núi tràn đầy rồi th́ lạch nhỏ tràn đầy. Lạch nhỏ tràn đầy rồi th́ lạch lớn tràn đầy. Lạch lớn tràn đầy th́ sông nhỏ tràn đầy. Sông nhỏ tràn đầy th́ sông lớn tràn đầy. Sông lớn tràn đầy th́ biển cả tràn đầy. Như vậy, biển cả kia lần hồi tràn đầy trọn vẹn.

“Cũng vậy, minh giải thoát cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của minh giải thoát là ǵ? Bảy giác chi là thức ăn.

“Bảy giác chi cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của bảy giác chi là ǵ? Bốn niệm xứ là thức ăn.

“Bốn niệm xứ cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của bốn niệm xứ là ǵ? Ba diệu hạnh là thức ăn.

“Ba diệu hạnh cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của ba diệu hạnh là ǵ? Thủ hộ các căn là thức ăn.

“Thủ hộ các căn cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của ǵn giữ các căn là ǵ? Chánh niệm chánh trí là thức ăn.

“Chánh niệm chánh trí cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của chánh niệm chánh trí là ǵ? Chánh tư duy là thức ăn.

“Chánh tư duy cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của chánh tư duy là ǵ? Tín là thức ăn.

“Tín cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của tín là ǵ? Nghe điều thiện là thức ăn.

“Nghe điều thiện cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của nghe điều thiện là ǵ? Gần gũi thiện tri thức là thức ăn.

“Gần gũi thiện tri thức cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của gần gũi thiện tri thức là ǵ? Người thiện là thức ăn.

“Đó là, có đủ người thiện liền có đủ sự gần gũi thiện tri thức. Đủ sự gần gũi thiện tri thức liền có đủ sự nghe điều thiện. Có đủ sự nghe điều thiện liền có đủ tín. Có đủ tín liền có đủ chánh tư duy. Có đủ chánh tư duy liền có đủ chánh niệm chánh trí. Có đủ chánh niệm chánh trí mới có đủ sự thủ hộ các căn. Có đủ sự thủ hộ các căn liền có đủ ba diệu hành. Có đủ ba diệu hành liền có đủ bốn niệm xứ. Có đủ bốn niệm xứ liền có đủ bảy giác chi. Có đủ bảy giác chi liền đầy đủ minh giải thoát. Như vậy, minh giải thoát này lần lượt được thành tựu toàn vẹn”. Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.

___________________________________________

Chú thích :

[1]      Tham chiếu Pāli: A.x. 61-62 Āhāra. Tham chiếu thêm kinh số 51 trên.

[2]     Phần lớn nội dung giống như kinh 51 trên, chỉ khác ở chỗ kinh 51 nói là tập (nguyên nhân tập khởi) th́ kinh này nói là thực (thức ăn).

[3]     Hán: hữu ái giả tắc hữu thực 愛者則有食. Pāli: bhavataṇhaṃ pāhaṃ, bhikkhave, sāhāraṃ vadāmi, “Ta nói, này các Tỳ-kheo, hữu ái có thức ăn.” Kinh số 51: tập, chỉ cho nguyên nhân tập khởi. Bản Pāli: āhāra (thức ăn) đồng nghĩa paccāya (duyên).

[4]     Xem cht.6 kinh 51.

[5]    Hán: đại xuyên . Pāli: mahāsobbha, hồ lớn.

___________________________________________

53. KINH THỰC (II) [1]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng:

“Không thể biết biên tế cùng cực của hữu ái. Trước vốn không có hữu ái, nhưng nay sanh ra hữu ái, do đó mới có thể biết được nhân của hữu ái.

“Hữu ái có thức ăn chứ không phải không thức ăn. Thức ăn của hữu ái là ǵ? Vô minh là thức ăn.

“Vô minh cũng có thức ăn chứ không phải không thức ăn. Thức ăn của vô minh là ǵ? Năm triền cái là thức ăn.

“Năm triền cái cũng có thức ăn chứ không phải không thức ăn. Thức ăn của năm triền cái là ǵ? Ba ác hành là thức ăn.

“Ba ác hành cũng có thức ăn chứ không phải không thức ăn. Thức ăn của ba ác hành là ǵ? Không thủ hộ các căn là thức ăn.

“Không thủ hộ các căn cũng có thức ăn chứ không phải không thức ăn. Thức ăn của không thủ hộ các căn là ǵ? Không chánh niệm chánh trí là thức ăn.

“Không chánh niệm chánh trí cũng có thức ăn chứ không phải không thức ăn. Thức ăn của không chánh niệm chánh trí là ǵ? Không chánh tư duy là thức ăn.

“Không chánh tư duy cũng có thức ăn chứ không phải không thức ăn. Thức ăn của không chánh tư duy là ǵ? Không có tín là thức ăn.

“Không có tín cũng có thức ăn chứ không phải không thức ăn. Thức ăn của không có tín là ǵ? Nghe pháp ác là thức ăn.

“Nghe pháp ác cũng có thức ăn chứ không phải không thức ăn. Thức ăn của nghe pháp ác là ǵ? Gần gũi ác tri thức là thức ăn.

“Gần gũi ác tri thức cũng có thức ăn chứ không phải không thức ăn. Thức ăn của gần gũi ác tri thức là ǵ? Người ác là thức ăn.

“Như thế, có đủ người ác liền có đủ sự gần gũi ác tri thức. Có đủ sự gần gũi ác tri thức rồi liền có đủ sự nghe pháp ác. Có đủ sự nghe pháp ác rồi, liền có đủ sự sanh ḷng bất tín. Có đủ sự sanh ḷng bất tín rồi, liền không chánh tư duy. Có đủ sự không chánh tư duy rồi, liền có đủ sự không chánh niệm chánh trí. Có đủ sự không chánh niệm chánh trí rồi, liền có đủ sự không thủ hộ các căn. Có đủ sự không thủ hộ các căn rồi, liền có đủ ba ác hành. Đủ ba ác hạnh rồi, liền có đủ năm triền cái. Đủ năm triền cái rồi, liền có đủ vô minh. Có đủ vô minh rồi, liền đầy đủ hữu ái.

“Như vậy, hữu ái này lần lượt được tựu thành trọn vẹn.

“Biển cả cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của biển cả là ǵ? Mưa là thức ăn.

“Có lúc mưa lớn. Mưa lớn rồi th́ suối, chằm trong các sườn núi tràn đầy. Suối, chằm trong các sườn núi tràn đầy rồi th́ lạch nhỏ tràn đầy. Lạch nhỏ tràn đầy rồi th́ lạch lớn tràn đầy. Lạch lớn tràn đầy th́ sông nhỏ tràn đầy. Sông nhỏ tràn đầy th́ sông lớn tràn đầy. Sông lớn tràn đầy th́ biển cả tràn đầy. Như vậy, biển cả kia lần hồi tràn đầy trọn vẹn.

“Cũng giống như vậy, có đủ người ác liền có đủ sự gần gũi ác tri thức. Có đủ sự gần gũi ác tri thức rồi liền có đủ sự nghe pháp ác. Có đủ sự nghe pháp ác rồi, liền có đủ sự sanh ḷng bất tín. Có đủ sự sanh ḷng bất tín rồi, liền không chánh tư duy. Có đủ sự không chánh tư duy rồi, liền có đủ sự không chánh niệm chánh trí. Có đủ sự không chánh niệm chánh trí rồi, liền có đủ sự không thủ hộ các căn. Có đủ sự không thủ hộ các căn rồi, liền có đủ ba ác hành. Đủ ba ác hành rồi, liền có đủ năm triền cái. Đủ năm triền cái rồi, liền có đủ vô minh. Có đủ vô minh rồi, liền đầy đủ hữu ái.

“Như vậy, hữu ái này lần lượt được tựu thành trọn vẹn.

“Minh giải thoát cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của minh giải thoát là ǵ? Bảy giác chi là thức ăn.

“Bảy giác chi cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của bảy giác chi là ǵ? Bốn niệm xứ là thức ăn.

“Bốn niệm xứ cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của bốn niệm xứ là ǵ? Ba diệu hạnh là thức ăn.

“Ba diệu hạnh cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của ba diệu hạnh là ǵ? Thủ hộ các căn là thức ăn.

“Thủ hộ các căn cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của ǵn giữ các căn là ǵ? Chánh niệm chánh trí là thức ăn.

“Chánh niệm chánh trí cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của chánh niệm chánh trí là ǵ? Chánh tư duy là thức ăn.

“Chánh tư duy cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của chánh tư duy là ǵ? Tín là thức ăn.

“Tín cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của tín là ǵ? Nghe điều thiện là thức ăn.

“Nghe điều thiện cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của nghe điều thiện là ǵ? Gần gũi thiện tri thức là thức ăn.

“Gần gũi thiện tri thức cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của gần gũi thiện tri thức là ǵ? Người thiện là thức ăn.

“Biển cả cũng có thức ăn chứ không phải không có thức ăn. Thức ăn của biển cả là ǵ? Mưa là thức ăn.

“Có lúc mưa lớn. Mưa lớn rồi th́ suối, chằm trong các sườn núi tràn đầy. Suối, chằm trong các sườn núi tràn đầy rồi th́ lạch nhỏ tràn đầy. Lạch nhỏ tràn đầy rồi th́ lạch lớn tràn đầy. Lạch lớn tràn đầy th́ sông nhỏ tràn đầy. Sông nhỏ tràn đầy th́ sông lớn tràn đầy. Sông lớn tràn đầy th́ biển cả tràn đầy. Như vậy, biển cả kia lần hồi tràn đầy trọn vẹn.

“Cũng giống như vậy, có đủ người thiện liền có đủ sự gần gũi thiện tri thức. Đủ sự gần gũi thiện tri thức liền có đủ sự nghe điều thiện. Có đủ sự nghe điều thiện liền có đủ tín. Có đủ tín liền có đủ chánh tư duy. Có đủ chánh tư duy liền có đủ chánh niệm chánh trí. Có đủ chánh niệm chánh trí mới có đủ sự thủ hộ các căn. Có đủ sự thủ hộ các căn liền có đủ ba diệu hành. Có đủ ba diệu hành liền có đủ bốn niệm xứ. Có đủ bốn niệm xứ liền có đủ bảy giác chi. Có đủ bảy giác chi liền đầy đủ minh giải thoát. Như vậy, minh giải thoát này lần lượt được thành tựu toàn vẹn”.

Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.

___________________________________________

Chú thích :

[1]     Tham chiếu kinh 52 trên.

___________________________________________

54. KINH TẬN TRÍ [1]

Tôi nghe như vầy:

Một thời Đức Phật du hóa tại nước Câu-lâu-sấu[2], trú trong Kiếm-ma-sắt-đàm[3], đô ấp của Câu-lâu.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo rằng:

“Có tri, có kiến, mới có chứng đắc lậu tận, chứ không phải không tri, không kiến.

“Thế nào là có tri, có kiến mới chứng đắc lậu tận? Tri kiến như thật về sự Khổ liền chứng đắc lậu tận. Tri kiến như thật về Khổ tập, tri kiến như thật về Khổ diệt và tri kiến như thật về Khổ diệt đạo liền chứng đắc lậu tận.

“Tận trí có tập[4] chứ không phải không tập. Tập của tận trí là ǵ? Giải thoát là tập.

“Giải thoát cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của giải thoát là ǵ? Vô dục là nhân.

“Vô dục cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của vô dục là ǵ? Yếm ly là tập.

“Yếm ly cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của yểm ly là ǵ? Thấy như thật, biết như chơn.         

“Thấy như thật, biết như chơn cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của thấy như thật, biết như chơn là ǵ? Định là tập.

“Định cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của định là ǵ? Lạc là tập.

“Lạc cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của lạc là ǵ? Chỉ là tập.

“Chỉ cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của chỉ là ǵ? Hỷ là tập.

“Hỷ cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của hỷ là ǵ? Hân hoan là tập.

“Hân hoan cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của hân hoan là ǵ? Không hối hận là tập.

“Không hối hận cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của không hối hận là ǵ? Thủ hộ giới là tập.

“Thủ hộ giới cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của thủ hộ giới là ǵ? Thủ hộ các căn là tập.

“Thủ hộ các căn cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của thủ hộ các căn là ǵ? Chánh niệm chánh trí là tập.

“Chánh niệm chánh trí cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của chánh niệm chánh trí là ǵ? Chánh tư duy là tập.

“Chánh tư duy cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của chánh tư duy là ǵ? Tín là tập.

“Tín cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của tín là ǵ? Quán pháp nhẫn là tập.

“Quán pháp nhẫn cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của quán pháp nhẫn là ǵ? Tụng đọc pháp là tập.

“Tụng đọc pháp cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của tụng đọc pháp là ǵ? Thọ tŕ pháp là tập.

“Thọ tŕ pháp cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của thọ tŕ pháp là ǵ? Quán nghĩa của pháp là tập.

“Quán nghĩa của pháp cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của quán nghĩa của pháp là ǵ? Lỗ tai[5] là tập.

“Lỗ tai cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của lỗ tai là ǵ? Nghe pháp thiện[6] là tập.

“Nghe pháp thiện cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của nghe pháp thiện là ǵ? Đi đến[7] là tập.

“Đi đến cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của đi đến là ǵ? Phụng sự[8] là tập.

“Nếu ai phụng sự thiện tri thức, điều ǵ chưa nghe liền được nghe, điều ǵ đă nghe liền được bổ ích. 

“Như vậy, nếu ai không phụng sự thiện tri thức th́ làm tổn hại tập của phụng sự. Nếu không phụng sự th́ làm tổn hại tập của sự đi đến. Nếu không đi đến th́ làm tổn hại tập của sự nghe pháp thiện. Nếu không nghe pháp thiện th́ làm tổn hại tập của lỗ tai. Nếu không có lỗ tai th́ làm tổn hại tập của sự quán nghĩa của pháp. Nếu không quán nghĩa của pháp th́ làm tổn hại tập của thọ tŕ pháp. Nếu không thọ tŕ pháp th́ làm tổn hại tập của tụng đọc pháp. Nếu không tụng đọc pháp th́ làm tổn hại cái nhân quán pháp nhẫn. Nếu không quán pháp nhẫn th́ làm tổn hại tập của của tín. Nếu không có tín th́ làm tổn hại tập của chánh tư duy. Nếu không chánh tư duy th́ làm tổn hại tập của chánh niệm chánh trí. Nếu không chánh niệm chánh trí th́ làm tổn hại tập của sự thủ hộ các căn. Nếu không thủ hộ các căn th́ làm tổn hại tập của sự thủ hộ giới, sự không hối hận, hân hoan, hỷ, chỉ, lạc, định, thấy như thật, biết như chơn, yếm ly, vô dục, giải thoát. Nếu không giải thoát th́ làm tổn hại tập của tận trí. 

“Nếu ai phụng sự thiện tri thức th́ điều ǵ chưa nghe liền được nghe, điều ǵ đă nghe liền được bổ ích. 

“Như vậy, nếu ai phụng sự thiện tri thức th́ có tập[9] phụng sự. Nếu đă phụng sự th́ có tập đi đến. Nếu đă đi đến th́ có tập nghe pháp thiện. Nếu đă nghe pháp thiện th́ có tập lỗ tai. Nếu có lỗ tai th́ có tập quán nghĩa của pháp. Nếu đă quán nghĩa của pháp th́ có tập thọ tŕ pháp. Nếu đă thọ tŕ pháp th́ có tập tụng đọc pháp. Nếu đă đọc tụng pháp th́ có tập quán pháp nhẫn. Nếu đă quán pháp nhẫn th́ có tập tín. Nếu đă có tín th́ có tập chánh tư duy. Nếu đă có chánh tư duy th́ có tập chánh niệm chánh trí. Nếu đă chánh niệm chánh trí th́ có tập thủ hộ các căn, thủ hộ giới, không hối hận, hân hoan, hỷ, chỉ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát. Nếu đă giải thoát th́ có tập tận trí”.

Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.

___________________________________________

Chú thích :

[1]     Không thấy Pāli tương đương. Tham chiếu các kinh 42, 51-53.

[2]    Câu-lâu-sấu . Pāli: Kurusu giữa những người Kuru, tên bộ tộc, cũng là tên nước.

[3]     Kiếm-ma-sắt-đàm . Pāli: Kammāsadhamma.

[4]     Xem cht.5, kinh 51 trên.

[5]     Nhĩ giới

[6]     Thiện pháp , đây muốn nói là diệu pháp hay chánh pháp.

[7]     Hán: văng nghệ . Pāli?

[8]     Phụng sự . Pāli: sevanā, thân cận, phụng sự.

[9]     Tập, đây được hiểu là duyên, tức dẫn đến, hay làm điều kiện cho. Tham chiếu kinh 55 dưới.

___________________________________________

55. KINH NIẾT-BÀN [1]

Tôi nghe như vầy:

Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng:

“Niết-bàn có tập[2] chứ không phải không tập. Tập của Niết-bàn là ǵ? -Giải thoát là tập.

“Giải thoát cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của giải thoát là ǵ? Vô dục là tập.

“Vô dục cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của vô dục là ǵ? Yếm ly là tập.

“Yếm ly cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của yếm ly là ǵ? Thấy như thật, biết như chơn là tập.

“Thấy như thật, biết như chơn cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của thấy như thật, biết như chơn là ǵ? Định là tập.

“Định cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của định là ǵ? Lạc là tập.

“Lạc cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của lạc là ǵ? Chỉ là tập.

“Chỉ cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của chỉ là ǵ? Hỷ là tập.

“Hỷ cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của hỷ là ǵ? Hân hoan là tập.

“Hân hoan cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của hân hoan là ǵ? Không hối hận là tập.

“Không hối hận cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của không hối hận là ǵ? Hộ giới là tập.

“Hộ giới cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của hộ giới là ǵ? Thủ hộ các căn là tập.

“Thủ hộ các căn cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của thủ hộ các căn là ǵ? Chánh niệm chánh trí là tập.

“Chánh niệm chánh trí cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của chánh niệm chánh trí là ǵ? Chánh tư duy là tập.

“Chánh tư duy cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của chánh tư duy là ǵ? Tín là tập.

“Tín cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của tín là ǵ? Khổ là tập.

“Khổ cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của khổ là ǵ? Già chết là tập.

“Già chết cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của già chết là ǵ? Sanh là tập.

“Sanh cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của sanh là ǵ? Hữu là tập.

“Hữu cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của hữu là ǵ? Thủ[3] là tập.

“Thủ cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của thủ là ǵ? Thọ[4] là tập.

“Thọ cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của thọ là ǵ? Xúc[5] là tập.

“Xúc cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của xúc là ǵ? Sáu xứ là tập.

“Sáu xứ cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của sáu xứ là ǵ? Danh sắc là tập.

“Danh sắc cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của danh sắc là ǵ? Thức là tập.

“Thức cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của thức là ǵ? Hành là tập.

“Hành cũng có tập chứ không phải không tập. Tập của hành là ǵ? Vô minh là tập.

“Như vậy, duyên[6] vô minh có hành; duyên hành có thức; duyên thức có danh sắc; duyên danh sắc có sáu xứ; duyên sáu xứ có xúc; duyên xúc có thọ; duyên thọ có ái; duyên ái có thủ; duyên thủ có hữu; duyên hữu có sanh; duyên sanh có già chết; duyên già chết có khổ. Tập khổ mới có tín; tập tín mới có chánh tư duy; tập chánh tư duy mới có chánh niệm chánh trí; tập chánh niệm chánh trí mới có thủ hộ các căn, hộ tŕ giới, không hối hận, hân hoan, hỷ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát. Có tập giải thoát mới chứng đắc Niết-bàn”.

Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.

___________________________________________

Chú thích :

[1]     Không thấy Pāli tương đương.

[2]     Xem cht.5, kinh 51 trên. Tham chiếu kinh 42 trên.

[3]     Hán: thọ , thường nói là thủ. Pāli: upādāna.

[4]     Hán: giác, thường nói là thọ. Pāli: vedanā.

[5]     Hán: canh lạc更樂, thường nói là xúc. Pāli: phassa.

[6]     Tham chiếu cht.9 kinh 54 trên.

___________________________________________

56. KINH DI-HÊ [1]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật du hóa tại nước Ma-kiệt-đà, trong một cái hang trong rừng Măng nại[2], thôn Xà-đấu[3].

Bấy giờ Tôn giả Di-hê[4] làm thị giả Phật.

Vào buổi sáng sớm, Tôn giả Di-hê mang y cầm bát vào thôn Xà-đấu khất thực. Khất thực xong, Tôn giả Di-hê đến bờ sông Kim-bệ[5], thấy một khu đất bằng phẳng gọi là rừng xoài khả ái[6]. Nước sông Kim-bệ rất tuyệt, thật là đáng ưa. Ḍng nước trong[7] chảy chầm chậm; nóng lạnh ôn ḥa, dễ chịu. Thấy xong, Tôn giả hoan hỷ, thầm nghĩ: “Khu đất này bằng phẳng gọi là rừng xoài khả ái. Nước sông Kim-bệ rất tuyệt, thật là đáng ưa. Ḍng nước trong chảy chầm chậm; nóng lạnh ôn ḥa, dễ chịu. Nếu tộc tánh tử[8] nào muốn tu pháp đoạn trừ[9] th́ nên ở chỗ này. Ta cũng có điều phải đoạn trừ[10], có nên ở chỗ yên tĩnh này để tu pháp đoạn trừ chăng?”

Liền đó, sau khi ăn xong, Di-hê thu xếp y bát, rửa tay chân, vắt Ni-sư-đàn[11] lên vai, đi đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi ngồi sang một bên mà bạch rằng:

“Bạch Thế Tôn, sáng sớm hôm nay con mang y cầm bát vào thôn Xà-đấu khất thực. Khất thực xong, con đến bờ sông Kim-bệ, thấy một khu đất bằng phẳng gọi là rừng xoài khả ái. Nước sông Kim-bệ rất tuyệt, thật là đáng ưa. Ḍng nước trong chảy chầm chậm; nóng lạnh ôn ḥa, dễ chịu. Thấy xong, con hoan hỷ, thầm nghĩ: ‘Khu đất này bằng phẳng gọi là rừng xoài khả ái. Nước sông Kim-bệ rất tuyệt, thật là đáng ưa. Ḍng nước trong chảy chầm chậm; nóng lạnh ôn ḥa, dễ chịu. Nếu tộc tánh tử nào muốn tu pháp đoạn trừ th́ nên ở chỗ này. Ta cũng có điều phải đoạn trừ, có nên ở chỗ yên tĩnh này để tu pháp đoạn trừ chăng?’ Bạch Thế Tôn, nay con muốn đến chỗ yên tĩnh, khu rừng xoài kia, để học pháp đoạn trừ”.

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo:

“Này Di-hê, ngươi nay có biết chăng? Ta một ḿnh không có ai, không có thị giả. Ngươi có thể ở lại ít lâu, đợi có Tỳ-kheo khác đến làm thị giả cho Ta rồi ngươi có thể đến chỗ yên tĩnh khu rừng xoài kia mà học pháp đoạn trừ”.

Tôn giả Di-hê lặp lại ba lần bạch:

“Bạch Thế Tôn, nay con muốn đến chỗ yên tĩnh, khu rừng xoài kia, để học pháp đoạn trừ”.

Đức Thế Tôn cũng ba lần nói rằng:

“Này Di-hê, ngươi nay có biết chăng? Ta một ḿnh không có ai, không có thị giả. Ngươi có thể ở lại ít lâu, đợi có Tỳ-kheo khác đến làm thị giả cho Ta rồi ngươi có thể đến chỗ yên tĩnh khu rừng xoài kia mà học pháp đoạn trừ”.

Di-hê lại bạch rằng:

“Thế Tôn không có việc cần làm, không có phận sự cần hoàn tất, không có điều ǵ cần phải quán sát[12] Con c̣n có những bổn phận, những điều phải làm, những điều phải quán sát. Bạch Thế Tôn, con đến chỗ yên tĩnh, khu rừng xoài kia, để học pháp đoạn trừ”. 

Đức Thế Tôn bảo:

“Này Di-hê, ngươi mong cầu sự đoạn trừ[13], Ta có ǵ để nói thêm nữa? Di-hê, ngươi cứ đi, làm theo những ǵ mà ngươi muốn”.

Bấy giờ Di-hê sau khi nghe lời Đức Phật dạy, khéo lănh thọ, khéo ghi nhớ và khéo tụng tập. Tôn giả liền đảnh lễ sát chân Đức Phật, đi quanh ba ṿng, rồi đi.

Sau khi đến rừng xoài, vào rừng, Tôn giả đi đến một gốc cây, trải Ni-sư-đàn mà ngồi kết già. Tôn giả Di-hê sống trong rừng xoài, sanh khởi lên ba tâm niệm ác bất thiện là tâm niệm dục, tâm niệm nhuế và tâm niệm hại[14]. Do đó, Tôn giả liền nghĩ đến Đức Thế Tôn.

Bấy giờ vào lúc xế chiều, Tôn giả từ chỗ tĩnh tọa đứng dậy, đến trước Đức Thế Tôn, đảnh lễ chân Ngài, ngồi sang một bên và bạch rằng:

“Bạch Thế Tôn, con đến rừng xoài kia, ngồi ở chỗ yên tĩnh, liền sanh khởi ba tâm niệm ác bất thiện là tâm niệm dục, tâm niệm nhuế và tâm niệm hại. Do đó, con liền nghĩ đến Thế Tôn”.

Đức Thế Tôn bảo:

“Này Di-hê, tâm giải thoát chưa thuần thục mà muốn cho thuần thục, có năm pháp để tu tập. Những ǵ là năm?

“Di-hê, Tỳ-kheo tự ḿnh là thiện tri thức, cùng sống chung với thiện tri thức và cùng ḥa hợp với thiện tri thức[15]. Này Di-hê, với ai tâm giải thoát chưa thuần thục mà muốn cho thuần thục th́ đó là pháp tu tập thứ nhất.

“Lại nữa, này Di-hê, Tỳ-kheo phải tu tập cấm giới, thủ hộ tùng giải thoát[16], lại phải khéo thâu nhiếp oai nghi lễ tiết, thấy tội lỗi nhỏ nhặt cũng thường sanh ḷng lo sợ, thọ tŕ học giới. Này Di-hê, với tâm giải thoát chưa thuần thục mà muốn cho thuần thục th́ đó là pháp tu tập thứ hai.  “Lại nữa, này Di-hê, Tỳ-kheo nên nói điều đáng nói, phù hợp nghĩa của bậc Thánh, khiến tâm nhu nhuyến, làm cho tâm không bị che lấp, tức là nói về giới, nói về định, nói về tuệ, nói về giải thoát, nói về giải thoát tri kiến, nói về sự tổn giảm lần lần, nói về việc không ưa tụ họp, nói về thiểu dục, nói về tri túc, nói về pháp đoạn trừ, nói về vô dục, nói về pháp diệt, nói về tĩnh tọa, nói về duyên khởi. Có được những điều được nói như vậy của Sa-môn, được trọn đủ, dễ được chứ không khó. Này Di-hê, với ai tâm giải thoát chưa thuần thục mà muốn cho thuần thục th́ đó là pháp tu tập thứ ba.

“Lại nữa, này Di-hê, Tỳ-kheo thường tu hành tinh tấn, đoạn trừ pháp ác bất thiện, tu các pháp thiện, thường tự khởi ư, chuyên nhất kiên cố; v́ mục đích t́m cầu gốc rễ thiện mà không xả bỏ phương tiện[17]. Này Di-hê, với ai tâm giải thoát chưa thuần thục mà muốn cho thuần thục th́ đó là pháp tu tập thứ tư.

“Lại nữa, này Di-hê, Tỳ-kheo tu hành về trí tuệ, quán sát sự hưng thịnh và suy vi của các pháp; chứng trí như vậy, bằng Thánh tuệ minh đạt[18], phân biệt thấu hiểu, mà chân chánh diệt tận khổ đau. Này Di-hê, với ai tâm giải thoát chưa thuần thục mà muốn cho thuần thục th́ đó là pháp tu tập thứ năm.

“Vị ấy khi đă có năm pháp tu tập như vậy rồi, lại phải tu bốn pháp khác nữa. Những ǵ là bốn? Tu ố lộ[19] để đoạn trừ dục. Tu từ để đoạn trừ sân nhuế. Tu sổ tức để đoạn trừ tâm niệm tán loạn. Tu vô thường để đoạn trừ ngă mạn.

“Này Di-hê, nếu Tỳ-kheo nào tự ḿnh là thiện tri thức, cùng sống chung với thiện tri thức và cùng ḥa hợp với thiện tri thức, th́ nên biết vị ấy chắc chắn tu tập cấm giới, thủ hộ tùng giải thoát, lại khéo thâu nhiếp các oai nghi, lễ tiết, thấy tội nhỏ cũng sanh ḷng lo sợ, thọ tŕ học giới.

“Này Di-hê, nếu Tỳ-kheo nào tự ḿnh là thiện tri thức, cùng sống chung với thiện tri thức và cùng ḥa hợp với thiện tri thức, th́ nên biết, vị ấy nói điều đáng nói, đúng theo nghĩa của bậc Thánh, khiến tâm nhu nhuyến, làm cho tâm chẳng bị ngăn che, tức là nói về giới, nói về định, nói về tuệ, nói về giải thoát, nói về giải thoát tri kiến, nói về sự tổn giảm dần dần, nói về việc không ưa tụ họp, nói về thiểu dục, nói về tri túc, nói về pháp đoạn, nói về pháp diệt, nói về vô dục, nói về tĩnh tọa, nói về duyên khởi. Có được những điều được nói như vậy của Sa-môn, được trọn đủ, dễ được chứ không khó. 

“Này Di-hê, nếu Tỳ-kheo tự ḿnh là thiện tri thức, cùng sống chung với thiện tri thức và cùng ḥa hợp với thiện tri thức, th́ nên biết rằng, vị ấy chắc chắn thường tu hành tinh tấn, đoạn các pháp ác bất thiện, thường khởi tâm chuyên nhất kiên cố, v́ mục đích t́m cầu gốc rễ thiện mà không xả bỏ phương tiện.

“Này Di-hê, nếu Tỳ-kheo nào tự ḿnh là thiện tri thức, cùng sống chung với thiện tri thức và cùng ḥa hợp với thiện tri thức, th́ nên biết rằng, vị ấy chắc chắn tu hành về trí tuệ, quán sát sự hưng thịnh và suy vi của các pháp; chứng trí như vậy, bằng Thánh tuệ minh đạt, phân biệt thấu hiểu, mà chân chánh diệt tận khổ đau. 

“Này Di-hê, nếu Tỳ-kheo nào tự ḿnh là thiện tri thức, cùng sống chung với thiện tri thức và cùng ḥa hợp với thiện tri thức, th́ nên biết rằng, vị ấy chắc chắn tu ố lộ để đoạn trừ dục. Tu từ để đoạn trừ sân nhuế. Tu sổ tức để đoạn trừ tâm niệm tán loạn. Tu vô thường để đoạn trừ ngă mạn.

“Này Di-hê, nếu Tỳ-kheo nào đắc vô thường tưởng, chắc chắn đắc vô ngă tưởng.

“Này Di-hê, nếu Tỳ-kheo nào đắc vô ngă tưởng th́ ngay trong đời hiện tại đoạn hết thảy ngă mạn, chứng đắc tịch tĩnh, diệt tận, vô vi, Niết-bàn”.

Phật thuyết như vậy. Tôn giả Di-hê và các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.

___________________________________________

Chú thích :

[1]     Tương đương Pāli: A. ix.3. Meghiya.

[2]     Măng nại lâm 莽柰林, tức khu rừng xoài. Pāli: ambavana.

[3]Xà-đấu thôn 闍鬥村. Pāli: Jantugāma, gần làng Calikā. Pāli: cālikāyaṃ viharati cālikāpabbate, trú ở làng Calikā, trên núi Cālikapabbata. Phật an cư vào mùa mưa ở đây vào các năm thứ 13, 18 và 19, sau khi thành đạo. Calikapabbata là một ngọn đồi màu trắng nên vào những đêm tối người ta thấy nó h́nh như chuyển động.

[4]     Di-hê. Pāli: Meghiya.

[5]     Kim-bệ . Pāli: Kimikālā.

[6]     Hán: danh hảo nại lâm 名好柰林. Pāli: addasā… ambavanaṃ pāsādikaṃ ramaṇyaṃ, thấy khu rừng xoài xinh đẹp, đáng ưa.

[7]     Hán: tuyền thủy泉水.

[8]     Tộc tánh tử 族姓子, cũng thường nói thiện nam tử hay thiện gia nam tử, Pāli: kulaputta.

[9]     Hán: học đoạn. Pāli: (…) padhānatthikassa padhānāya, để (tu tập) tinh cần cho ai tinh cần. Bản Hán, đọc pahāna (đoạn trừ) thay v́ padhāna (tinh cần).

[10]   Hán: hữu sở đoạn有所斷. Xem cht. trên.

[11]   Ni-sư-đàn 尼師檀. Pāli: nisīdana, tọa cụ, khăn trải ngồi.

[12]   Hán: vô vi, vô tác, diệc vô sở quán  為無作亦無所觀. Pāli: natthi kiñci uttari karanīyaṃ, natthi katassa paṭicayo, không có phận sự ǵ thêm nữa, không có việc làm thêm đối với điều đă làm.

[13]   Nghĩa là, “muốn tinh cần”.

[14]   Dục niệm nhuế niệm hại niệm 欲念. Pāli: kāma-vitakka, vyāpāda-vitakka, vihiusā-vitakka, suy cầu tham dục, suy cầu sân hận, suy cầu bức hại.

[15]   Pāli: kayāṇamitto hoti kalyāṇasahāyo kalyāṇasampavaṅko, là bạn tốt, người đồng hành tốt, thân hữu tốt.

[16]    Tùng giải thoát, tức biệt giải thoát, hay Ba-la-đề-mộc-xoa.

[17]    Pāli: anikkhittadhuro kusalesu dhammesu, không trút bỏ gánh nặng trong các pháp thiện.

[18]   Thánh tuệ minh đạt聖慧明達. Pāli: ariyanibbedhikapaññā, trí tuệ quyết trạch của Thánh.

[19]    Ố (hay ác) lộ惡露. Pāli: asubha, bất tịnh

___________________________________________

57. KINH TỨC VỊ TỲ-KHEO THUYẾT [1]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc.

Bấy giờ, Thế Tôn nói các Tỳ-kheo rằng:

“Tâm giải thoát chưa thuần thục mà muốn cho thuần thục, có năm pháp để tu tập. Những ǵ là năm?

“Tỳ-kheo, tự ḿnh là thiện tri thức, cùng sống chung với thiện tri thức và cùng ḥa hợp với thiện tri thức. Tâm giải thoát chưa thuần thục mà muốn cho thuần thục th́ đó là pháp tu tập thứ nhất.

“Lại nữa, Tỳ-kheo, tu tập cấm giới, thủ hộ tùng giải thoát, lại phải khéo thâu nhiếp oai nghi lễ tiết, thấy tội lỗi nhỏ nhặt cũng thường sanh ḷng lo sợ, thọ tŕ học giới. Tâm giải thoát chưa thuần thục mà muốn cho thuần thục th́ đó là pháp tu tập thứ hai.

“Lại nữa, Tỳ-kheo, nên nói điều đáng nói, phù hợp nghĩa của bậc Thánh, khiến tâm nhu nhuyến, làm cho tâm không bị che lấp, tức là nói về giới, nói về định, nói về tuệ, nói về giải thoát, nói về giải thoát tri kiến, nói về sự tổn giảm lần lần, nói về việc không ưa tụ họp, nói về thiểu dục, nói về tri túc, nói về pháp đoạn trừ, nói về vô dục, nói về pháp diệt, nói về tĩnh tọa, nói về duyên khởi. Có được những điều được nói như vậy của Sa-môn, được trọn đủ, dễ được chứ không khó. Tâm giải thoát chưa thuần thục mà muốn cho thuần thục th́ đó là pháp tu tập thứ ba.

“Lại nữa, Tỳ-kheo, thường tu hành tinh tấn, đoạn trừ pháp ác bất thiện, tu các pháp thiện, thường tự khởi ư, chuyên nhất kiên cố; v́ mục đích t́m cầu gốc rễ thiện mà không xả bỏ phương tiện. Tâm giải thoát chưa thuần thục mà muốn cho thuần thục th́ đó là pháp tu tập thứ tư.

“Lại nữa, Tỳ-kheo, tu hành về trí tuệ, quán sát sự hưng thịnh và suy vi của các pháp; chứng trí như vậy, bằng Thánh tuệ minh đạt, phân biệt thấu hiểu, mà chân chánh diệt tận khổ đau. Tâm giải thoát chưa thuần thục mà muốn cho thuần thục th́ đó là pháp tu tập thứ năm.

“Vị ấy khi đă có năm pháp tu tập như vậy rồi, lại phải tu bốn pháp khác nữa. Những ǵ là bốn? Tu ố lộâ để đoạn trừ dục. Tu từ để đoạn trừ sân nhuế. Tu sổ tức để đoạn trừ tâm niệm tán loạn. Tu vô thường để đoạn trừ ngă mạn.

“Nếu Tỳ-kheo nào tự ḿnh là thiện tri thức, cùng sống chung với thiện tri thức và cùng ḥa hợp với thiện tri thức, th́ nên biết vị ấy chắc chắn tu tập cấm giới, thủ hộ tùng giải thoát, lại khéo thâu nhiếp các oai nghi, lễ tiết, thấy tội nhỏ cũng sanh ḷng lo sợ, thọ tŕ học giới.

“Nếu Tỳ-kheo tự ḿnh là thiện tri thức, cùng sống chung với thiện tri thức và cùng ḥa hợp với thiện tri thức, th́ nên biết, vị ấy nói điều đáng nói, đúng theo nghĩa của bậc thánh, khiến tâm nhu nhuyến, làm cho tâm chẳng bị ngăn che, tức là nói về giới, nói về định, nói về tuệ, nói về giải thoát, nói về giải thoát tri kiến, nói về sự tổn giảm dần dần, nói về việc không ưa tụ họp, nói về thiểu dục, nói về tri túc, nói về pháp đoạn, nói về pháp diệt, nói về vô dục, nói về tĩnh tọa, nói về duyên khởi. Có được những điều được nói như vậy của Sa-môn, được trọn đủ, dễ được chứ không khó. 

“Nếu Tỳ-kheo tự ḿnh là thiện tri thức, cùng sống chung với thiện tri thức và cùng ḥa hợp với thiện tri thức, th́ nên biết rằng, vị ấy chắc chắn thường tu hành tinh tấn, đoạn các pháp ác bất thiện, thường khởi tâm chuyên nhất kiên cố, v́ mục đích t́m cầu gốc rễ thiện mà không xả bỏ phương tiện.

“Nếu Tỳ-kheo nào tự ḿnh là thiện tri thức, cùng sống chung với thiện tri thức và cùng ḥa hợp với thiện tri thức, th́ nên biết rằng, vị ấy chắc chắn tu hành về trí tuệ, quán sát sự hưng thịnh và suy vi của các pháp; chứng trí như vậy, bằng Thánh tuệ minh đạt, phân biệt thấu hiểu, mà chân chánh diệt tận khổ đau. 

“Nếu Tỳ-kheo nào tự ḿnh là thiện tri thức, cùng sống chung với thiện tri thức và cùng ḥa hợp với thiện tri thức, th́ nên biết rằng, vị ấy chắc chắn tu ố lộ để đoạn trừ dục. Tu từ để đoạn trừ sân nhuế. Tu sổ tức để đoạn trừ tâm niệm tán loạn. Tu vô thường để đoạn trừ ngă mạn.

“Nếu Tỳ-kheo nào đắc vô thường tưởng, chắc chắn đắc vô ngă tưởng. Nếu Tỳ-kheo nào đắc vô ngă tưởng th́ ngay trong đời hiện tại đoạn hết thảy ngă mạn, chứng đắc tịch tĩnh, diệt tận, vô vi, Niết-bàn”.

Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.

___________________________________________

Chú thích :

[1]     Tương đương Pāli: A.ix.1 Sambodhi. Tham chiếu kinh 56 trên.

Hết Phẩm 05

MỤC LỤC 01 02 03 04 05 06 07 08 09 10 11 12 13 14 15 16 17 18

 

Trang Chủ      Hình ảnh      Kinh điển      Thần Chú      Liên lạc

 

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0