佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

 TRANG CHỦ*--KINH ĐIỂN*--ĐẠI TẠNG KINH*--THẦN CHÚ*--HÌNH ẢNH*--中文*--ENGLISH


VT0262-2

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA

Hán Dịch: Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập

Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

MỤC LỤC

QUYỂN 1

01 - PHẨM "TỰA"

02 - PHẨM “PHƯƠNG TIỆN”

QUYỂN 2

03 - PHẨM “THÍ DỤ”

04 - PHẨM “TÍN GIẢI”

QUYỂN 3

05 - PHẨM “DƯỢC THẢO DỤ”

06 - PHẨM “THỌ KƯ”

07 - PHẨM “HÓA THÀNH DỤ”

QUYỂN 4

08 - PHẨM “NGŨ BÁ ĐỆ TỬ THỌ KƯ”

09 - PHẨM “THỌ HỌC VÔ HỌC NHƠN KỲ”

10 - PHẨM “PHÁP SƯ”

11 - PHẨM “HIỆN BẢO THÁP”

12 - PHẨM “ĐỀ BÀ ĐẠT ĐA”

13 - PHẨM “TR̀”

QUYỂN 5

14 - PHẨM “AN LẠC HẠNH”

15 - PHẨM “TÙNG ĐỊA DŨNG XUẤT”

16 - PHẨM “NHƯ LAI THỌ LƯỢNG”

17 - PHẨM “PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC”

QUYỂN 6

18 - PHẨM “TÙY HỶ CÔNG ĐỨC”

19 - PHẨM “PHÁP SƯ CÔNG ĐỨC”

20 - PHẨM “THƯỜNG BẤT KHINH BỒ TÁT”

21 - PHẨM “NHƯ LAI THẦN LỰC”

22 - PHẨM “CHÚC LỤY”

23 - PHẨM “DƯỢC VƯƠNG BỒ TÁT BỔN SỰ”

QUYỂN 7

24 - PHẨM “DIỆU ÂM BỒ TÁT”

25 - PHẨM “QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT PHỔ-MÔN”

26 - PHẨM “ĐÀ LA NI”

27 - PHẨM “DIỆU TRANG NGHIÊM VƯƠNG BỔN SỰ”

28 - PHẨM “PHỔ HIỀN BỒ TÁT KHUYẾN PHÁT”

 

| ML | Q 01 | Q 02 | Q 03 | Q 04 | Q 05 | Q 06 | Q 07 |

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA

Hán Dịch: Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập

Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

Quyển 1

01 - PHẨM "TỰA"

Tôi nghe như thế này: Một thuở nọ đức Phật (2) ở trong núi Kỳ-Xà Quật, nơi thành vương xá cùng chúng đại Tỳ-kheo một vạn hai ngàn người câu hội. Các vị đó đều là bậc A-La-Hán, các lậu (3) đă hết, không c̣n phiền năo, việc lợi ḿnh đă xong (4) dứt sự ràng buộc trong các cơi (5) tâm được tự tại. Tên của các vị đó là: A-Nhă Kiều-Trần-Như, Ma-Ha Ca-Diếp, Ưu-Lâu-Tần-Loa Ca-Diếp, Dà-Gia Ca-Diếp, Na-Đề Ca-Diếp, Xá-Lợi-Phất, Đại Mục-Kiền-Liên, Ma-Ha Ca-Chiên-Diên, A-Nậu-Lâu-Đà, Kiếp-Tân-Na, Kiều-Phạm Ba-Đề, Ly-Bà-Đa Tất-Lăng-Già-Bà-Ta-Bạc-Câu-La, Ma-Ha-Câu-Hy-La, Nan-Đà, Tôn-Đà-La Nan-Đà, Phú-Lâu-Na, Di-Đa-La-Ni-Tử, Tu-Bồ-Đề, A-Nan, La-Hầu-La v.v.. đó là những vị đại A-la-hán hàng tri thức của chúng.

Lại có bậc hữu-học và vô-học (6) hai ngàn người.

Bà Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-Xà-Ba-Đề cùng với quyến thuộc sáu ngàn người câu-hội. Mẹ của La-Hầu-La là bà Tỳ-kheo-ni Gia-Du-Đà-La cùng với quyến thuộc câu-hội.

Bậc đại Bồ-Tát tám muôn người đều không thối chuyển ở nơi đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác (7) , đều chứng được pháp Đà-la-ni (8) nhạo-thuyết biện tài (9) chuyển nói pháp luân bất thối chuyển, từng cúng dường vô lượng trăm ngh́n chư Phật, ở các nơi đức Phật trồng các cội công-đức. Thường được các Phật ngợi khen, dùng đức từ để tu thân, khéo chứng trí tuệ của Phật thông đạt đại-trí đến nơi bờ kia (10), danh đồn khắp vô lượng thế-giới có thể độ vô số trăm ngàn chúng sanh.

Tên của các vị đó là: Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát. Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, Đắc-Đại-Thế-Chí Bồ-Tát, Thường-Tinh-Tấn Bồ-Tát, Bất-Hưu Tức Bồ-Tát, Bửu-Chưởng Bồ-Tát, Dược-Vương Bồ-Tát, Dơng-thí Bồ-Tát, Bửu-Nguyệt Bồ-Tát, Nguyệt-Quang Bồ-Tát, Măn-Nguyệt Bồ-Tát, Đại-Lực Bồ-Tát, Vô-Lượng-Lực Bồ-Tát, Việt-Tam-Giới Bồ-Tát, Bạt-Đà Bà-La Bồ-Tát, Di-Lặc Bồ-Tát, Bửu-Tích Bồ-Tát, Đạo-Sư Bồ-Tát v.v... các vị đại Bồ-Tát như thế tám vạn người câu hội.

Lúc bấy giờ, Thích-Đề Hoàn-Nhơn (11) cùng quyến thuộc hai vạn vị thiên-tử câu hội. Lại có Minh-Nguyệt thiên tử, Phổ-Hương thiên tử, Bửu-Quang thiên-tử, bốn vị đại Thiên-Vương cùng với quyến-thuộc một vạn thiên-tử câu hội.

Tự-Tại thiên-tử, Đại-Tự-Tại thiên-tử cùng với quyến thuộc ba vạn thiên-tử câu hội.

Chủ cơi Ta-Bà: Phạm-Thiên-Vương, Thi-Khí-Đại-Phạm, Quang-Minh Đại-Phạm v.v... cùng với quyến thuộc một vạn hai ngàn vị thiên-tử câu hội.

Có tám vị Long-vương: Nan-Đà Long-vương, Bạt-Nan-Đà Long-vương, Sa-Dà-La Long-vương, Ḥa-Tu-Cát Long-vương, Đức-Xoa-Ca Long-vương, A Na-Bà-Đạt-Đa Long-vương, Ma-Na-Tư Long-vương, Ưu-Bát-La Long-vương v.v... đều cùng bao nhiêu trăm ngh́n quyến thuộc câu hội.

Có bốn vị Khẩn-Na-La vương, Pháp-Khẩn-Na-La vương, Diệu-Pháp Khẩn-Na-La vương, Đại-Pháp Khẩn-Na-La vương, Tŕ-Pháp Khẩn-Na-La vương đều cùng bao nhiêu trăm ngàn quyến-thuộc câu hội.

Có bốn vị Càn-Thát-Bà vương: Nhạc-Càn-Thát-Bà vương, Nhạc-Âm-Càn-Thát-Bà vương, Mỹ Càn-Thát-Bà vương, Mỹ-Âm Càn-Thát-Bà vương, đều cùng bao nhiêu trăm ngàn quyến-thuộc câu hội.

Có bốn vị A-Tu-La vương: Bà-Trĩ A-Tu-La vương, Dà-La-Khiên-Đà A-Tu-La vương, Tỳ-Ma-Chất-Đa-La A-Tu-La vương, La-Hầu A-Tu-La vương, đều cùng bao nhiêu trăm ngàn quyến-thuộc câu hội.

Có bốn vị Ca-Lâu-La vương: Đại-Oai-Đức Ca-Lâu-La vương, Đại-Thân Ca-Lâu-La vương, Đại-Măn Ca-Lâu-La vương, Như-Ư Ca-Lâu-La vương, đều cùng bao nhiêu quyến thuộc câu hội.

Vua A-Xà-Thế, con bà Vi-Đề-Hi, cùng bao nhiêu trăm ngàn quyến thuộc câu hội.

Cả chúng đều lễ chân Phật, lui ngồi một phía.

Lúc bấy giờ, đức Thế-Tôn được hàng tứ chúng vây quanh cúng-dường cung kính ngợi khen tôn trọng, v́ các vị Bồ-Tát mà nói kinh Đại-thừa tên là: "Vô-Lượng-Nghĩa", là pháp giáo hóa Bồ-Tát được chư Phật hộ-niệm. Nói kinh này xong, đức Phật ngồi xếp bằng nhập vào chánh định "Vô-Lượng Nghĩa-Xứ", thân và tâm của Phật đều không lay động.

Khi đó trời mưa hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha Mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa Ma-ha Mạn-thù-sa, để rải trên đức Phật cùng hàng đại chúng; khắp cơi Phật sáu điệu vang động (12) .

Lúc bấy giờ, trong chúng hội các hàng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ, Trời, Rồng, Dạ-Xoa, Càn-thát-bà (13) , A-tu-la (14) , Ca-lâu-la (15) , Khẩn-na-la (16) , Ma-hầu-la-dà (17) , nhơn, phi-nhơn và các vị tiểu-vương cùng Chuyển-luân-thánh-vương, các đại chúng ấy đều được thấy việc chưa từng có, vui mừng chắp tay một ḷng nh́n Phật.

Bấy giờ, đức Phật từ nơi tướng lông trắng giữa chặn mày phóng ra luồng hào-quang chiếu khắp cả một muôn tám ngh́n cơi ở phương Đông, dưới thời chiếu đến địa ngục A-Tỳ, trên suốt thấu trời Sắc-cứu-cánh. Chúng ở cơi này đều thấy cả sáu loài chúng-sanh (18)  ở các cơi kia.

Lại thấy các đức Phật hiện tại nơi các cơi kia và nghe kinh pháp của các đức Phật ấy nói. Cùng thấy nơi các cơi kia, các hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ, những người tu hành đắc đạo.

Lại thấy các vị đại Bồ-Tát dùng các món nhân duyên, các ḷng tín giải, các loại tướng mạo mà tu hành đạo Bồ-Tát. Lại thấy các đức Phật nhập Niết-bàn, lại thấy sau khi các đức Phật nhập Niết-bàn, đem xá-lợi của Phật mà dựng tháp bằng bảy báu.

Khi ấy, ngài Di-Lặc Bồ-Tát nghĩ rằng: "Hôm nay đức Thế-Tôn hiện thần biến tướng, v́ nhân duyên ǵ mà có điềm lành này.

Nay đức Phật đương nhập chánh định, việc biến hiện hi hữu không thể nghĩ bàn này nên hỏi ai, ai đáp được?"

Ngài lại nghĩ: "Ông Pháp-Vương-tử (19) Văn-Thù Sư-Lợi này đă từng gần gũi cúng dường vô lượng các đức Phật đời quá khứ chắc đă thấy tướng hi hữu này, ta nay nên hỏi ông".

Lúc đó, hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ (20) và các trời, rồng, quỉ, thần v.v.. đều nghĩ rằng: "Tướng thần thông sáng chói của đức Phật hiện đây, nay nên hỏi ai?"

Bấy giờ, ngài Di-Lặc Bồ-Tát muốn giải quyết chỗ nghi của ḿnh, ngài lại xét tâm niệm của bốn-chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ và của cả chúng hội trời, rồng, quỉ, thần v.v.. mà hỏi Văn-Thù Sư-Lợi rằng: “V́ nhân duyên ǵ mà có tướng lành thần thông này, Phật phóng ánh sáng lớn soi khắp một muôn tám ngh́n cơi ở phương Đông, đều thấy cơi nước trang nghiêm của các đức Phật?”

Khi đó, ngài Di-Lặc muốn nói lại nghĩa trên, dùng kệ hỏi rằng:

Ngài Văn-Thù Sư-Lợi!

Đức Đạo-Sư cớ chi

Lông trắng giữa chặn mày

Phóng ánh sáng khắp soi?

Trời mưa hoa Mạn-đà

Cùng hoa Mạn-thù-Sa,

Gió thơm mùi chiên đàn

Vui đẹp ḷng đại chúng

V́ nhân duyên như vậy

Cơi đất đều nghiêm tịnh

Mà trong thế giới này

Sáu điệu vang động lên

Bấy giờ bốn bộ chúng

Thảy đều rất vui mừng

Thân cùng ư thơ thới

Được việc chưa từng có.

Ánh sáng giữa chặn mày

Soi suốt thẳng phương Đông

Một muôn tám ngh́n cơi

Đều ánh như sắc vàng.

Từ địa ngục A-tỳ

Trên đến trời Hữu-Đảnh

Trong các thế giới đó

Cả sáu đạo chúng sanh

Sống chết của kia đến

Nghiệp duyên lành cùng dữ

Thọ báo có tốt xấu

Tại đây đều thấy rơ.

Lại thấy các đức Phật

Đấng Thánh-Chúa sư-tử

Diễn nói các kinh điển

Nhiệm mầu bậc thứ nhất.

Tiếng của Ngài thanh-tịnh

Giọng nói ra êm dịu

Dạy bảo các Bồ-Tát

Vô-số ức muôn người

Tiếng Phạm-âm thâm diệu

Khiến người đều ưa nghe.

Các Phật ở cơi ḿnh

Mà giảng nói chánh pháp

Dùng nhiều món nhân duyên

Cùng vô lượng tỉ dụ

Để soi rơ Phật Pháp

Mà khai ngộ chúng sanh.

Nếu có người bị khổ

Nhàm ĺa già, bệnh, chết,

Phật v́ nói Niết-bàn

Để dứt các ngằn khổ

Nếu là người có phước

Đă từng cúng dường Phật

Chí cầu pháp thù thắng

V́ nói hạnh Duyên-giác

Nếu lại có Phật tử

Tu-tập các công hạnh

Để cầu tuệ vô thượng

Phật v́ nói tịnh đạo.

Ngài Văn-Thù Sư-Lợi!

Tôi ở tại nơi đây

Thấy nghe dường ấy đó

Và ngh́n ức việc khác

Thấy rất nhiều như thế

Nay sẽ lược nói ra:

Tôi thấy ở cơi kia

Có hằng sa Bồ-Tát

Dùng các món nhân duyên

Mà cầu chứng Phật đạo.

Hoặc có vị bố-thí

Vàng, bạc, ngọc, san-hô,

Chơn châu, ngọc như-ư,

Ngọc xa-cừ mă-năo,

Kim-cương các trân-bửu

Cùng tôi tớ, xe cộ

Kiệu, cán chưng châu báu

Vui vẻ đem bố thí

Hồi hướng về Phật đạo

Nguyện được chứng thừa ấy

Bậïc nhất của ba cơi

Các Phật hằng khen ngợi.

Hoặc có vị Bồ-Tát

Xe tứ mă xe báu

Bao lơn che tàn đẹp

Trau tria dùng bố thí.

Lại thấy có Bồ-Tát

Bố thí cả vợ con

Thân thịt cùng tay chân

Để cầu vô thượng đạo.

Lại thấy có Bồ-Tát

Đầu, mắt và thân thể

Đều ưa vui thí cho

Để cầu trí tuệ Phật

Ngài Văn-Thù Sư Lợi!

Ta thấy các Quốc-vương

Qua đến chỗ của Phật

Thưa hỏi đạo vô thượng

Bèn bỏ nước vui vẻ

Cung điện cả thần thiếp

Cạo sạch râu lẫn tóc

Mà mặc y pháp phục.

Hoặc lại thấy Bồ-Tát

Mà hiện làm Tỳ-kheo

Một ḿnh ở vắng vẻ

Ưa vui tụng kinh điển

Cũng thấy có Bồ-Tát

Dơng mănh và tinh tấn

Vào ở nơi thâm sơn

Suy xét mối Phật đạo

Và thấy bậc ly dục

Thường ở chỗ không nhàn

Sâu tu các thiền định

Được năm món thần thông

Và thấy vị Bồ-Tát

Chắp tay trụ thiền định

Dùng ngàn muôn bài kệ

Khen ngợi các Pháp-vương

Lại thấy có Bồ-Tát

Trí sâu chí bền chắc

Hay hỏi các đức Phật

Nghe rồi đều thọï tŕ.

Lại thấy hàng Phật tử

Định huệ trọn đầy đủ

Dùng vô lượng tỉ dụ

V́ chúng mà giảng pháp

Vui ưa nói các pháp

Dạy bảo các Bồ-Tát

Phá dẹp chúng binh ma

Mà đánh rền trống pháp

Cùng thấy vị Bồ-Tát

Vắng bặt yên lặng ngồi

Trời, rồng đều cung-kính

Chẳng lấy đó làm mừng,

Và thấy có Bồ-Tát

Ở rừng phóng hào quang

Cứu khổ chốn địa ngục

Khiến đều vào Phật đạo.

Lại thấy hàng Phật tử

Chưa từng có ngủ nghỉ

Kinh hành ở trong rừng

Siêng năng cầu Phật đạo

Cũng thấy đủ giới đức

Uy nghi không thiếu sót

Ḷng sạch như bảo châu

Để cầu chứng Phật đạo.

Và thấy hàng Phật tử

Trụ vào sức nhẫn nhục

Bị kẻ tăng-thượng-mạn

Mắng rủa cùng đánh đập

Thảy đều hay nhẫn được

Để cầu chứng Phật đạo

Lại thấy có Bồ-Tát

Xa rời sự chơi cười

Và quyến thuộc ngu si

Ưa gần gũi người trí

Chuyên tâm trừ loạn động

Nhiếp niệm ở núi rừng

Trải ức ngh́n muôn năm

Để cầu được Phật đạo.

Lại thấy vị Bồ-Tát

Đồ ăn uống ngọt ngon

Cùng trăm món thuốc thang

Đem cúng Phật và Tăng,

Áo tốt đồ thượng phục

Giá đáng đến ngh́n muôn

Hoặc là vô giá y

Dùng ngh́n muôn ức thứ

Nhà báu bằng Chiên đàn

Các giường nằm tốt đẹp

Để cúng Phật cùng Tăng

Rừng vườn rất thanh tịnh

Bông trái đều sum sê

Suối chảy cùng ao tắm

Cúng cho Phật và Tăng,

Cúng thí như thế đó

Các đồ cúng tốt đẹp

Vui vẻ không hề nhàm

Để cầu đạo vô thượng.

Lại có vị Bồ-Tát

Giảng nói pháp tịch diệt

Dùng các lời dạy dỗ

Dạy vô số chúng sanh

Hoặc thấy vị Bồ-Tát

Quán sát các pháp tịnh

Đều không có hai tướng

Cũng như khoảng hư không

Lại thấy hàng Phật tử

Tâm không chỗ mê đắm

Dùng món diệu huệ này

Mà cầu đạo vô thượng.

Ngài Văn-Thù Sư-Lợi!

Lại có vị Bồ-Tát

Sau khi Phật diệt độ

Cúng dường Xá-Lợi-Phật.

Lại thấy hàng Phật tử

Xây dựng các tháp miếu

Nhiều vô số hằng sa

Nghiêm sức khắp cơi nước.

Bảo tháp rất cao đẹp

Đều năm ngh́n do tuần.

Bề ngang rộng xứng nhau

Đều hai ngh́n do tuần.

Trong mỗi mỗi tháp miếu

Đều có ngàn tràng phan

Màn châu xen thả xuống

Tiếng linh báu ḥa reo

Các vị trời, rồng, thần,

Người cùng với phi nhơn

Hương, hoa, cùng kỹ nhạc

Thường đem đến cúng dường

Ngài Văn-Thù Sư-Lợi!

Các hàng Phật tử kia

V́ cúng dường xá-lợi

Nên trang sức tháp miếu,

Cơi quốc giới tự nhiên

Thù đặc rất tốt đẹp

Như cây Thiên-thụ-vương

Hoa kia đang x̣e nở

Phật phóng một luồng sáng

Ta cùng cả chúng hội

Thấy nơi cơi nước này

Các thứ rất tốt đẹp

Thần lực của chư Phật

Trí huệ đều hi hữu

Phóng một luồng tịnh-quang

Soi khắp vô lượng cơi

Chúng ta thấy việc này

Được điều chưa từng có.

Xin Phật tử Văn-Thù

Giải quyết ḷng chúng nghi

Bốn chúng đều mong ngóng

Nh́n ngài và nh́n ta

Đức Thế-Tôn cớ chi

Phóng ánh quang minh này?

Phật tử phải thời đáp

Quyết nghi cho chúng mừng

Có những lợi ích ǵ

Đức Phật phóng quang này?

Khi Phật ngồi đạo tràng

Chứng được pháp thâm diệu

V́ muốn nói Pháp đó

Hay là sẽ thọ kư?

Hiện bày các cơi Phật

Các báu sạch trang nghiêm

Cùng thấy các đức Phật

Đây không phải cớ nhỏ

Ngài Văn-Thù nên biết

Bốn chúng và Long, Thần

Nh́n xem xét ngài đó

Mong sẽ nói những ǵ?

Lúc bấy giờ, ngài Văn-Thù Sư-Lợi nói với ngài Di-Lặc Đại Bồ-Tát cùng các vị Đại-sĩ: "Các Thiện-nam-tử! Như chỗ tôi xét nghĩ th́ nay đức Phật Thế-Tôn muốn nói pháp lớn, mưa pháp vũ lớn, thổi pháp loa lớn, đánh pháp cổ lớn và diễn pháp nghĩa lớn.

Các thiện-nam-tử! Ta từng ở nơi các đức Phật đời quá khứ thấy điềm lành này, Phật kia phóng hào quang đó rồi liền nói pháp lớn. Cho nên chắc biết rằng hôm nay đức Phật hiện hào quang cũng lại như vậy. Phật v́ muốn cho chúng sanh đều được nghe biết pháp mầu mà tất cả trong đời khó tin theo, cho nên hiện điềm lành này.

Các thiện-nam-tử! Như vô lượng vô biên a-tăng-kỳ (21) kiếp về trước. Bấy giờ có đức Phật hiệu Nhật-Nguyệt Đăng-Minh Như-Lai, Ứng-cúng, Chính-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Điều-ngự Trượng-phu, Thiên-Nhân-Sư, Phật Thế-Tôn, diễn nói chánh pháp. Ban đầu, giữa, rốt sau ba chặng đều lành, nghĩa lư rất sâu xa, lời lẽ khéo mầu, thuần một không tạp, đầy đủ cả tướng phạm hạnh thanh bạch.

Phật v́ người cầu đạo Thanh-văn, nói pháp Tứ-đế (22) thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, cứu cánh Niết-bàn. V́ hạng cầu quả Duyên-giác, nói pháp Mười-hai-nhân-duyên (23), v́ hàng Bồ-Tát nói sáu pháp Ba-la-mật (24) làm cho chứng được quả vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác thành bậc nhứt- thiết chủng-trí. (25)

Kế lại có đức Phật cũng hiệu Nhật-Nguyệt Đăng-Minh, lại có đức Phật cũng hiệu Nhật-Nguyệt Đăng-Minh. Như thế đến hai muôn đức Phật đều đồng một tên, hiệu Nhật-Nguyệt Đăng-Minh, lại cùng đồng cùng một họ, họ Phả-La-Đọa.

Di-Lặc nên biết! Đức Phật trước, đức Phật sau đều đồng một tên, hiệu Nhật-Nguyệt Đăng-Minh, đầy đủ mười hiệu, những pháp được nói ra, đầu, giữa, sau đều lành.

Đức Phật rốt sau cả, lúc chưa xuất-gia có tám vị vương- tử: Người thứ nhất tên Hữu-Ư, thứ hai tên Thiện-Ư, thứ ba tên Vô-Lượng-Ư, thứ tư tên Bửu-Ư, thứ năm tên Tăng-Ư, thứ sáu tên Trừ-Nghi-Ư, thứ bảy tên Hưởng-Ư, thứ tám tên Pháp-Ư.

Tám vị vương- tử đó có uy đức tự tại đều lănh trị bốn châu thiên hạ (26). Nghe vua cha xuất gia chứng đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác đều bỏ ngôi vua cũng xuất-gia theo, phát tâm Đại thừa, thường tu hạnh thanh tịnh, đều làm bậc pháp sư, thuở trước đă từng ở chỗ ngh́n muôn đức Phật vun trồng các cội lành.

Đức Phật Nhật-Nguyệt Đăng-Minh lúc đó nói kinh Đại thừa tên "Vô-Lượng Nghĩa-Xứ" là pháp giáo hóa Bồ-Tát được chư Phật hộ niệm. Nói kinh đó rồi, Phật liền ở trong đại chúng ngồi xếp bằng nhập vào cảnh chánh định "Vô-Lượng Nghĩa-Xứ", thân và tâm chẳng động. 

Khi ấy trời mưa hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha Mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa cùng hoa Ma-ha Mạn-thù-sa để rải trên đức Phật và hàng đại-chúng. Khắp cơi nước Phật sáu điệu vang động. Lúc đó trong hội, hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự nam, cận-sự nữ, trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-dà, nhơn, phi-nhơn cùng các vị tiểu vương, các vị Chuyển-luân thánh-vương v.v... các đại-chúng đó được điều chưa từng có, mừng rỡ chắp tay một ḷng nh́n Phật.

Bấy giờ, đức Như-Lai từ tướng lông trắng chặn giữa chân mày phóng ra luồng ánh sáng soi khắp cùng cả một muôn tám ngh́n cơi nước ở phương đông, như nay đương thấy ở cơi Phật đây.

Di-Lặc nên biết! Khi đó trong hội, có hai mươi ức Bồ-Tát ưa muốn nghe pháp, các vị Bồ-Tát ấy thấy ánh sáng chiếu khắp các cơi Phật được điều chưa từng có, đều muốn biết v́ duyên cớ ǵ mà phóng ánh-sáng này.

Khi ấy, có vị Bồ-Tát hiệu Diệu-Quang có tám trăm người đệ-tử.

Bấy giờ, đức Phật Nhật-Nguyệt Đăng-Minh từ trong chánh-định mà dậy, v́ Diệu-Quang Bồ-Tát nói kinh Đại-thừa tên "Diệu-Pháp Liên-Hoa" là pháp giáo hóa Bồ-Tát được chư Phật hộ niệm, trải qua sáu mươi tiểu kiếp chẳng rời chỗ ngồi.

Lúc ấy trong hội, người nghe pháp cũng ngồi một chỗ đến sáu mươi tiểu kiếp thân tâm đều không lay động, nghe đức Phật nói pháp cho là như trong khoảng bữa ăn. Bấy giờ trong chúng không có một người nào hoặc là thân hoặc là tâm mà sanh lười mỏi.

Đức Phật Nhật-Nguyệt Đăng-Minh trong sáu mươi tiểu kiếp nói kinh đó rồi, liền ở trong chúng Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, và Trời, Người, A-tu-la mà tuyên rằng: "Hôm nay vào nửa đêm, Như-Lai sẽ nhập Vô-dư Niết-bàn".

Khi đó có vị Bồ-Tát tên Đức-Tạng, đức Phật Nhật-Nguyệt Đăng-Minh liền thọ-kư (27) cho, bảo các Tỳ-kheo rằng: "Ông Đức-Tạng Bồ-Tát này kế đây sẽ thành Phật hiệu là Tịnh-Thân Như-Lai Ứng-cúng, chánh-đẳng chánh-giác".

Đức Phật thọ kư xong, vào nửa đêm bèn nhập Vô-dư Niết-bàn.

Sau khi đức Phật diệt-độ, Diệu-Quang Bồ-Tát tŕ kinh "Diệu-Pháp Liên-Hoa" trải tám mươi tiểu kiếp v́ người mà diễn nói.

Tám người con của Phật Nhật-Nguyệt Đăng-Minh đều học với ngài Diệu-Quang, ngài Diệu-Quang dạy bảo cho đều vững bền ở nơi đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác. Các vị Vương-tử đó cúng dường vô lượng trăm ngh́n muôn ức đức Phật đều thành Phật-đạo. Vị thành Phật rốt sau hết, hiệu là Nhiên-Đăng.

Trong hàng tám trăm người đệ-tử có một người tên: Cầu-Danh, người này tham ưa danh lợi, dầu cũng đọc tụng các kinh mà chẳng thuộc rành, phần nhiều quên mất, nên gọi là Cầu-Danh. Người này cũng do có trồng các nhân duyên căn lành nên được gặp vô lượng trăm ngh́n muôn ức đức Phật mà cúng dường cung kính tôn trọng khen ngợi.

Di-Lặc nên biết! Lúc đó Diệu-Quang Bồ-Tát đâu phải người nào lạ, chính là ta đấy. C̣n Cầu-Danh Bồ-Tát là ngài đấy.

Nay thấy điềm lành này, cùng với xưa không khác, cho nên ta xét nghĩ hôm nay đức Phật Như-Lai sẽ nói kinh Đại-thừa tên: “Diệu-Pháp Liên-Hoa” là pháp giáo hóa Bồ-Tát được chư Phật hộ niệm.

Bấy giờ, ngài Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát ở trong đại-chúng, muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

Ta nhớ thuở quá khứ

Vô lượng vô số kiếp

Có Phật Nhân Trung-Tôn

Hiệu Nhật-Nguyệt Đăng-Minh

Đức Thế-Tôn nói pháp

Độ vô lượng chúng sanh

Vô số ức Bồ-Tát

Khiến vào trí huệ Phật.

Khi Phật chưa xuất gia

Có sanh tám vương-tử

Thấy Đại-Thánh xuất gia

Cũng theo tu phạm-hạnh

Phật nói kinh Đại-thừa

Tên là "Vô-Lượng-Nghĩa"

Ở trong hàng đại chúng

Mà v́ rộng tỏ bày.

Phật nói kinh ấy rồi

Liền ở trong pháp ṭa

Xếp bằng nhập chánh định

Tên "Vô-Lượng-Nghĩa-Xứ"

Trời rưới hoa Mạn-đà

Trống trời tự nhiên vang

Các trời, rồng, quỉ, thần

Cúng dường đấng Nhân-Tôn,

Tất cả các cơi Phật

Tức thời vang động lớn,

Phật phóng sáng giữa mày

Hiện các việc hi hữu

Ánh sáng chiếu phương Đông

Muôn tám ngh́n cơi Phật

Bày sanh tử nghiệp báo

Của tất cả chúng sanh

Lại thấy các cơi Phật

Dùng các báu trang nghiêm

Màu lưu ly pha lê

Đây bởi Phật quang soi.

Lại thấy những trời, người

Rồng, thần, chúng Dạ-xoa

Càn-thát, Khẩn-na-la

Đều cúng dường Phật ḿnh

Lại thấy các Như-Lai

Tự nhiên thành Phật đạo,

Màu thân như núi vàng

Đoan nghiêm rất đẹp mầu

Như trong lưu ly sạch

Hiện ra tượng chơn kim

Thế-Tôn trong đại chúng

Dạy nói nghĩa thâm diệu.

Mỗi mỗi các cơi Phật

Chúng Thanh-văn vô số,

Nhân Phật-quang soi sáng

Đều thấy đại-chúng kia.

Hoặc có các Tỳ-kheo

Ở tại trong núi rừng

Tinh tấn giữ tịnh giới

Dường như ǵn châu sáng

Lại thấy các Bồ-Tát

Bố thí nhẫn nhục thảy

Số đông như hằng sa (28)

Đây bởi sáng Phật soi.

Lại thấy hàng Bồ-Tát

Sâu vào các thiền định

Thân tâm lặng chẳng động

Để cầu đạo vô thượng.

Lại thấy các Bồ-Tát

Rơ tướng pháp tịch diệt

Đều ở tại nước ḿnh

Nói pháp cầu Phật đạo.

Bấy giờ bốn bộ chúng

Thấy Phật Nhật-Nguyệt-Đăng

Hiện sức thần thông lớn

Tâm kia đều vui mừng

Mỗi người tự hỏi nhau

Việc này nhân-duyên ǵ?

Đấng của trời người thờ

Vừa từ chánh-định dậy

Khen Diệu-Quang Bồ-Tát

Ông là mắt của đời

Mọi người đều tin về

Hay vâng giữ tạng pháp

Như pháp của ta nói

Chỉ ông chứng biết được

Đức Phật đă ngợi khen

Cho Diệu-Quang vui mừng

Liền nói kinh Pháp-Hoa

Trải sáu mươi tiểu kiếp

Chẳng rời chỗ ngồi ấy

Ngài Diệu-Quang Pháp-sư

Trọn đều hay thọï tŕ

Pháp thượng diệu của Phật.

Phật nói kinh Pháp-Hoa

Cho chúng vui mừng rồi

Liền chính trong ngày đó

Bảo hàng chúng trời, người

Các pháp "nghĩa thật tướng"

Đă v́ các ông nói

Nay ta giữa đêm này

Sẽ vào cơi Niết-bàn

Phải một ḷng tinh tấn

Rời các sự buông lung

Các Phật rất khó gặp

Ức kiếp được một lần

Các con của Phật thảy

Nghe Phật sắp nhập diệt

Thảy đều ḷng buồn khổ

Sao Phật gấp Niết-bàn?

Đấng Thánh-chúa-Pháp-vương

An ủi vô lượng chúng:

Nếu lúc ta diệt độ

Các ông chớ lo sợ

Đức-Tạng Bồ-Tát đây

Tâm đă được thông thấu

Nơi vô lậu thiệt tướng

Kế đây sẽ thành Phật

Tên hiệu là Tịnh-Thân

Cũng độ vô lượng chúng.

Đêm đó Phật diệt độ

Như củi hết, lửa tắt

Chia phân các xá-lợi

Mà xây vô lượng tháp

Tỳ- kheo, Tỳ-kheo-ni

Số đông như hằng sa

Lại càng thêm tinh tấn

Để cầu đạo vô thượng

Diệu-Quang pháp-sư ấy

Vâng giữ Phật pháp tạng

Trong tám mươi tiểu kiếp.

Rộng nói kinh Pháp-Hoa.

Tám vị vương-tử đó

Được Diệu-Quang dạy bảo

Vững bền đạo vô-thượng

Sẽ thấy vô số Phật

Cúng dường các Phật xong

Thuận theo tu đại đạo

Nối nhau đặng thành Phật

Chuyển thứ thọ kư nhau,

Đấng Phật rốt sau cả

Hiệu là: Phật Nhiên-Đăng

Đạo-Sư (29) của thiên tiên

Độ thoát vô lượng chúng.

Diệu-Quang Pháp-sư đó

Có một người đệ tử

Tâm thường cưu biếng trễ

Tham ưa nơi danh lợi

Cầu danh lợi không nhàm

Thường đến nhà sang giàu

Rời bỏ việc tụng học

Bỏ quên không thông thuộc

V́ bởi nhân duyên ấy

Nên gọi là Cầu-Danh

Cũng tu các nghiệp lành

Được thấy vô số Phật

Thuận tu theo đại đạo

Đủ sáu ba-la-mật

Nay gặp đấng Thích-Ca

Sau đây sẽ thành Phật

Hiệu rằng: “Phật Di-Lặc”

Rộng độ hàng chúng sanh

Số đông đến vô lượng.

Sau Phật kia diệt độ

Lười biếng đó là ngài

C̣n Diệu-Quang Pháp-sư

Nay thời chính là ta.

Ta thấy Phật Đăng-Minh

Điềm sáng trước như thế

Cho nên biết rằng nay

Phật muốn nói "Pháp-Hoa"

Tướng nay như điềm xưa.

Là phương tiện của Phật

Nay Phật phóng ánh sáng

Giúp bày nghĩa thiệt tướng

Các người nay nên biết

Chắp tay một ḷng chờ

Phật sẽ rưới nước pháp

Đầy đủ người cầu đạo

Các người cầu ba thừa (30)

Nếu có chỗ nghi hối

Phật sẽ dứt trừ cho

Khiến hết không c̣n thừa.

02 - PHẨM “PHƯƠNG TIỆN”

   Lúc bấy giờ, đức Thế-Tôn từ chánh định an lành mà dậy, bảo ngài Xá-Lợi-Phất: "Trí-huệ của các đức Phật rất sâu vô lượng, môn trí huệ đó khó hiểu khó vào, tất cả hàng Thanh-văn cùng Tích-chi-Phật đều không biết được. V́ sao?

Phật đă từng gần gũi trăm ngh́n muôn ức vô số các đức Phật, trọn tu vô lượng đạo pháp của các đức Phật, dơng mănh tinh tấn, danh tốt đồn khắp, trọn nên pháp rất sâu chưa từng có, theo thời nghi mà nói pháp ư thú khó hiểu.

Xá-Lợi-Phất! Từ ta thành Phật đến nay, các món nhân duyên, các món thí dụ, rộng nói ngôn giáo, dùng vô số phương tiện d́u dắt chúng sanh, làm cho xa ĺa ḷng chấp. V́ sao? Đức Như-Lai đă đầy đủ phương tiện, tri kiến và ba-la-mật.

Xá-Lợi-Phất! Tri kiến của Như-Lai rộng lớn sâu xa, đức vô lượng vô-ngại-lực, vô-sở-úy, thiền-định, giải-thoát tam-muội, đều sâu vào không ngằn mé, trọn nên tất cả pháp chưa từng có.

Xá-Lợi-Phất! Như-Lai hay các món phân biệt, khéo nói các pháp lời lẽ êm dịu vui đẹp ḷng chúng.

Xá-Lợi-Phất! Tóm yếu mà nói đó, vô lượng vô biên pháp vị tằng hữu, đức Phật thảy đều trọn nên.

Thôi Xá-Lợi-Phất! Chẳng cần nói nữa. V́ sao? V́ pháp khó hiểu ít có thứ nhất mà Phật trọn nên đó, chỉ có Phật cùng Phật mới có thể thấu tột tướng chân thật của các pháp, nghĩa là các pháp: tướng như vậy, tánh như vậy, thể như vậy, lực như vậy, tác như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, trước sau rốt ráo như vậy.

Bấy giờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói bài kệ rằng:

Đấng Thế-Hùng khó lường

Các trời cùng người đời

Tất cả loài chúng sanh

Không ai hiểu được Phật

Trí-lực, vô-sở-úy

Giải thoát các tam-muội

Các pháp khác của Phật

Không ai so lường được

Vốn từ vô số Phật

Đầy đủ tu các đạo

Pháp nhiệm mầu rất sâu

Khó thấy khó rơ được

Trong vô lượng ức kiếp

Tu các đạo đó rồi

Đạo tràng được chứng quả

Ta đều đă thấy biết

Quả báo lớn như vậy

Các món tính tướng nghĩa

Ta cùng mười phương Phật

Mới biết được việc đó

Pháp đó không chỉ được

Vắng bặt tướng nói năng

Các loài chúng sinh khác

Không có ai hiểu được

Trừ các chúng Bồ-Tát

Người sức tin bền chặt

Các hàng đệ tử Phật

Từng cúng dường các Phật

Tất cả lậu đă hết

Trụ thân rốt sau này

Các hạng người vậy thảy

Sức họ không kham được,

Giả sử đầy thế gian

Đều như Xá-Lợi-Phất

Cùng suy chung so lường

Chẳng lường được Phật trí

Chính sử khắp mười phương

Đều như Xá-Lợi-Phất

Và các đệ-tử khác

Cũng đầy mười phương cơi

Cùng suy chung so lường

Cũng lại chẳng biết được.

Bậc Duyên-giác trí lành

Vô lậu thân rốt sau

Cũng đầy mười phương cơi

Số đông như rừng tre,

Hạng này chung một ḷng

Trong vô lượng ức kiếp

Muốn xét Phật thật trí

Chẳng biết được chút phần.

Bồ-Tát mới phát tâm

Cúng dường vô số Phật

Rơ thấu các nghĩa thú

Lại hay khéo nói pháp

Như lúa, mè, tre, lau

Đông đầy mười phương cơi

Một ḷng dùng trí mầu

Trải số kiếp hằng sa

Thảy đều chung suy lường

Chẳng biết được trí Phật

Hàng bất-thối Bồ-Tát

Số đông như hằng sa

Một ḷng chung suy cầu

Cũng lại chẳng hiểu được.

Lại bảo Xá-Lợi-Phất

Pháp nhiệm mầu rất sâu

Vô lậu khó nghĩ bàn

Nay ta đă được đủ

Chỉ ta biết tướng đó

Mười phương Phật cũng vậy,

Xá-Lợi-Phất phải biết

Lời Phật nói không khác

Với Pháp của Phật nói

Nên sinh sức tin chắc

Pháp của Phật lâu sau

Cần phải nói chân thật

Bảo các chúng Thanh-văn

Cùng người cầu Duyên-giác

Ta khiến cho thoát khổ

Đến chứng được Niết-bàn

Phật dùng sức phương tiện

Dạy cho ba thừa giáo

Chúng sanh nơi nơi chấp

Dắt đó khiến ra khỏi.

Khi đó trong đại chúng có hàng Thanh-văn lậu tận A-la-hán, ngài A-Nhă Kiều-Trần-Như v.v... một ngh́n hai trăm người và các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam cùng cận-sự-nữ, hạng người phát tâm Thanh-văn, Duyên-giác đều nghĩ rằng: "Hôm nay đức Phật cớ chi lại ân cần ngợi khen phương tiện mà nói thế này: "Pháp của Phật chứng rất sâu khó hiểu, tất cả hàng Thanh-văn cùng Duyên-giác không thể đến được."

Đức Phật nói một nghĩa giải thoát, chúng ta cũng chứng được pháp đó đến nơi Niết-bàn, mà nay chẳng rơ nghĩa đó về đâu?

Lúc ấy, ngài Xá-Lợi-Phất biết ḷng nghi của bốn chúng, chính ḿnh cũng chưa rơ, liền bạch Phật rằng: Thưa Thế-Tôn! Nhân ǵ duyên ǵ mà Phật ân cần khen ngợi pháp phương-tiện thứ nhất nhiệm mầu rất sâu khó hiểu của các đức Phật? Con từ trước đến nay chưa từng nghe Phật nói điều đó, hôm nay bốn chúng thảy đều có ḷng nghi. Cúi xin đức Thế-Tôn bày nói việc đó. Cớ ǵ mà đức Thế-Tôn ân cần khen ngợi pháp nhiệm mầu rất sâu khó hiểu? Khi đó ngài Xá-Lợi-Phất muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

Đấng Huệ-Nhật Đại-thánh

Lâu mới nói pháp này,

Tự nói pháp ḿnh chứng

Lực, vô-úy, tam-muội,

Thiền-định, giải-thoát thảy

Đều chẳng nghĩ bàn được.

Pháp chứng nơi đạo tràng

Không ai hỏi đến được,

Ư con khó lường được

Cũng không ai hay hỏi.

Không hỏi mà tự nói

Khen ngợi đạo ḿnh làm

Các đức Phật chứng được

Trí huệ rất nhiệm mầu.

Hàng vô-lậu La-hán

Cùng người cầu Niết-bàn

Nay đều sa lưới nghi

Phật cớ chi nói thế?

Hạng người cầu Duyên-giác.

Tỳ-kheo, Tỳkheo-ni,

Các trời, rồng, quỉ, thần

Và Càn-thát-bà thảy

Ngó nhau mang ḷng nghi

Nh́n trông đấng Túc-Tôn,

Việc đó là thế nào

Xin Phật vị dạy cho?

Trong các chúng Thanh-văn

Phật nói con hạng nhất

Nay con nơi trí ḿnh

Nghi lầm không rơ được

V́ là pháp rốt ráo

V́ là đạo Phật làm

Con từ miệng Phật sanh

Chắp tay nh́n trông chờ

Xin ban tiếng nhiệm mầu

Liền v́ nói như thực

Các trời, rồng, thần thảy

Số đông như hằng sa

Bồ-Tát cầu thành Phật

Số nhiều có tám muôn

Lại những muôn ức nước

Vua Chuyển-Luân-vương đến

Đều ḷng kính chắp tay

Muốn nghe đạo đầy đủ.

Khi đó đức Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất: Thôi thôi! Chẳng nên nói nữa, nếu nói việc đó tất cả trong đời các trời và người đều sẽ kinh sợ nghi-ngờ."

Ngài Xá-Lợi-Phất lại bạch Phật rằng: "Thưa Thế-Tôn! Cúi xin nói đó, cúi xin nói đó. V́ sao? Trong hội đây có vô số trăm ngh́n muôn ức a-tăng-kỳ chúng-sinh đă từng gặp các đức Phật, các căn mạnh lẹ, trí huệ sáng suốt, được nghe Phật dạy chắc có thể kính tin".

Lúc ấy, ngài Xá-Lợi-Phất muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:

Đấng Pháp-Vương vô thượng

Xin nói chuyện đừng lo

Vô lượng chúng hội đây

Có người hay kính tin.

Đức Phật lại ngăn Xá-Lợi-Phất: "Nếu nói việc đó th́ tất cả trong đời, trời, người, A-tu-la đều sẽ nghi sợ, Tỳ-kheo tăng-thượng-mạn sẽ phải sa vào hầm lớn."

Khi đó đức Thế-Tôn lại nói kệ rằng:

Thôi thôi! Chẳng nên nói

Pháp ta diệu khó nghĩ

Những kẻ tăng-thượng-mạn

Nghe ắt không kính tin.

Lúc ấy ngài Xá-Lợi-Phất bạch Phật rằng: “Thưa Thế-Tôn! Cúi xin Phật nói, cúi xin Phật nói. Nay trong hội này hạng người sánh bằng con có trăm ngh́n muôn ức. Đời đời đă từng theo Phật học hỏi, những người như thế chắc hay kính tin lâu dài an ổn nhiều điều lợi ích.”

Khi đó ngài Xá-Lợi-Phất, muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

Đấng vô thượng Lưỡng-túc

Xin nói pháp đệ nhất

Con là trưởng tử Phật

Xin thương phân biệt nói.

Vô lượng chúng hội đây

Hay kính tin pháp này

Đời đời Phật đă từng

Giáo hóa chúng như thế

Đều một ḷng chắp tay

Muốn nghe lănh lời Phật.

Chúng con ngh́n hai trăm

Cùng hạng cầu Phật nọ

Nguyện Phật v́ chúng này

Cúi xin phân biệt nói

Chúng đây nghe pháp ấy

Thời sanh ḷng vui mừng.

Bấy giờ, đức Thế-Tôn bảo ngài Xá-Lợi-Phất: "Ông đă ân cần ba phen thưa thỉnh đâu được chẳng nói. Ông nay lóng nghe khéo suy nghĩ nhớ đó, ta sẽ v́ ông phân biệt giải-nói."

Khi đức Phật nói lời đó, trong hội có các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ, cả thẩy năm ngh́n người, liền từ chỗ ngồi đứng dậy lễ Phật mà lui về. V́ sao? V́ bọn người này gốc tội sâu nặng cùng tăng-thượng-mạng, chưa được mà nói đă được, chưa chứng mà đă cho chứng, có lỗi dường ấy, cho nên không ở lại. Đức Thế-Tôn yên lặng không ngăn cản. 

Bấy giờ, Đức Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất: "Trong chúng ta đây không c̣n cành lá, rặt có hạt chắc. Xá-Lợi-Phất! Những gă tăng-thượng-mạn như vậy lui về cũng là tốt. Ông nay nên khéo nghe, ta sẽ v́ ông mà nói."

Ngài Xá-Lợi-Phất bạch rằng: "Vâng thưa Thế-Tôn con nguyện ưa muốn nghe".

Đức Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất: "Pháp mầu như thế, các đức Phật Như-Lai đến khi đúng thời mới nói, ví như hoa linh-thoại đến thời tiết mới hiện một lần. Xá-Lợi-Phất! Các ông nên tin lời của Phật nói không hề hư vọng.

Xá-Lợi-Phất! Các đức Phật theo thời nghi nói pháp y-thú khó hiểu. V́ sao? Ta dùng vô số phương tiện các món nhân duyên, lời lẽ thí dụ diễn nói các pháp.

Pháp đó không phải là suy lường phân biệt mà có thể hiểu, chỉ có các đức Phật mới biết được đó. V́ sao? Các đức Phật Thế-Tôn, chỉ do một sự nhân duyên lớn mà hiện ra nơi đời.

Xá-Lợi-Phất! Sao nói rằng các đức Phật Thế-Tôn chỉ do một sự nhân duyên lớn mà hiện ra đời? Các đức Phật Thế-Tôn v́ muốn cho chúng sanh khai tri kiến Phật để được thanh tịnh mà hiện ra nơi đời; v́ muốn chỉ tri kiến Phật cho chúng-sanh mà hiện ra nơi đời; v́ muốn cho chúng sanh tỏ ngộ tri kiến Phật mà hiện ra nơi đời; v́ muốn cho chúng sanh chứng vào đạo tri kiến Phật mà hiện ra nơi đời.

Xá-Lợi-Phất! Đó là các đức Phật do v́ một sự nhân duyên lớn mà hiện ra nơi đời".

Đức Phật bảo Xá-Lợi-Phất: "Các đức Phật Như-Lai chỉ giáo hóa Bồ-Tát, những điều làm ra thường v́ một việc: chỉ đem tri kiến Phật chỉ cho chúng sanh tỏ ngộ thôi"

Xá-Lợi-Phất! Đức Như-Lai chỉ dùng một Phật thừa mà v́ chúng sanh nói pháp không có các thừa hoặc hai hoặc ba khác.

Xá-Lợi-Phất! Pháp của tất cả các đức Phật ở mười phương cũng như thế.

Xá-Lợi-Phất! Thuở quá khứ các đức Phật dùng vô lượng vô số phương tiện các món nhân duyên lời lẽ thí dụ mà v́ chúng sanh diễn nói các pháp. V́ pháp đó đều là một Phật thừa, nên các chúng sanh đó theo chư Phật nghe pháp rốt ráo đều được chứng "nhứt-thiết chủng-trí."

Xá-Lợi-Phất! Thuở vị lai, các đức Phật sẽ ra đời cũng dùng vô lượng vô số phương tiện các món nhân duyên lời lẽ thí dụ mà v́ chúng sanh diễn nói các pháp, v́ pháp ấy đều là một Phật thừa nên các chúng sanh đó theo Phật nghe pháp rốt ráo đều được chứng "nhứt-thiết chủng-trí".

Xá-Lợi-Phất! Hiện tại nay, trong vô lượng trăm ngh́n muôn ức cơi Phật ở mười phương, các đức Phật Thế-Tôn nhiều điều lợi ích an vui cho chúng sanh. Các đức Phật đó cũng dùng vô lượng vô số phương tiện các món nhân-duyên lời lẽ thí dụ mà v́ chúng sanh diễn nói các pháp, v́ pháp đó đều là một Phật thừa, các chúng sanh ấy theo Phật nghe pháp rốt ráo đều được chứng "nhứt-thiết chủng-trí".

Xá-Lợi-Phất! Các đức Phật đó chỉ giáo hóa Bồ-Tát, v́ muốn đem tri kiến Phật mà chỉ cho chúng sanh, v́ muốn đem tri kiến Phật cho chúng sanh tỏ ngộ, v́ muốn làm cho chúng sanh chứng vào tri kiến Phật vậy.

Xá-Lợi-Phất! Nay ta cũng lại như thế, rơ biết các chúng sanh có những điều ưa muốn, thân tâm mê chấp, ta tùy theo bản tánh kia dùng các món nhân duyên lời lẽ thí dụ cùng sức phương tiện mà v́ đó nói pháp.

Xá-Lợi-Phất! Như thế đều v́ để chứng được một Phật thừa "nhứt-thiết chủng-trí."

Xá-Lợi-Phất! Trong cơi nước ở mười phương c̣n không có hai thừa hà huống có ba!

Xá-Lợi-Phất! Các đức Phật hiện ra trong đời ác năm trược, nghĩa là: Kiếp trược, phiền-năo-trược, chúng-sinh-trược, kiến-trược, mệnh-trược. Như thế, Xá-Lợi-Phất, lúc kiếp loạn trược chúng sinh nhơ nặng, bỏn sẻn, tham lam, ghét ganh, trọn nên các căn chẳng lành, cho nên các đức Phật dùng sức phương tiện, nơi một Phật thừa, phân biệt nói thành ba.

Xá-Lợi-Phất! Nếu đệ tử ta tự cho ḿnh là A-la-hán cùng Duyên-giác mà không nghe không biết việc của các đức Phật Như-Lai chỉ giáo hóa Bồ-Tát, người này chẳng phải là đệ tử Phật, chẳng phải A-la-hán, chẳng phải Duyên-giác.

Lại-nữa, Xá-Lợi-Phất! Các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni đó tự cho ḿnh đă được A-la-hán, là thân rốt sau rốt ráo Niết-bàn, bèn chẳng lại chí quyết cầu đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác. Nên biết bọn đó là kẻ tăng-thượng-mạn. V́ sao? nếu có Tỳ-kheo thực chứng quả A-la-hán mà không tin pháp này, quyết không có lẽ ấy, trừ sau khi Phật diệt độ hiện tiền không Phật. V́ sao? Sau khi Phật diệt độ, những kinh như thế, người hay thọ tŕ đọc tụng hiểu nghĩa rất khó có được, nếu gặp đức Phật khác, ở trong pháp này bèn được hiểu rơ.

Xá-Lợi-Phất! Các ông nên một ḷng tin hiểu thọ tŕ lời Phật dạy. Lời các đức Phật Như-Lai nói không hư vọng, không có thừa nào khác, chỉ có một Phật thừa thôi.

Khi ấy, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:

Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni

Mang ḷng tăng-thượng-mạng

Cận-sự-nam ngă mạn

Cận-sự-nữ chẳng tin,

Hàng bốn chúng như thế

Số kia có năm ngh́n

Chẳng tự thấy lỗi ḿnh

Nơi giới có thiếu sót

Tiếc giữ tội quấy ḿnh

Trí nhỏ đó đă ra,

Bọn cám tấm trong chúng

Oai đức Phật phải đi,

Gă đó kém phước đức

Chẳng kham lănh pháp này,

Chúng nay không cành lá

Chỉ có những hột chắc

Xá-Lợi-Phất khéo nghe!

Pháp của các Phật được

Vô lượng sức phương tiện

Mà v́ chúng sanh nói.

Tâm của chúng sanh nghĩ

Các món đạo ra làm

Bao nhiêu những tánh dục

Nghiệp lành dữ đời trước

Phật biết hết thế rồi

Dùng các duyên thí dụ

Lời lẽ sức phương tiện

Khiến tất cả vui mừng.

Hoặc là nói Thế kinh

Cô khởi cùng Bổn-sự.

Bổn-sanh, Vị-tằng-hữu

Cũng nói những nhân duyên

Thí dụ và Trùng tụng

Luận nghị cộng chín kinh.

Căn độn ưa pháp nhỏ.

Tham chấp nơi sanh tử

Nơi vô lượng đức Phật

Chẳng tu đạo sâu mầu

Bị các khổ năo loạn

V́ đó nói Niết-bàn.

Ta bày phương tiện đó

Khiến đều vào huệ Phật,

Chưa từng nói các ông

Sẽ được thành Phật đạo

Sở dĩ chưa từng nói

V́ giờ nói chưa đến,

Nay chính là đến giờ

Quyết định nói Đại-thừa.

Chín bộ pháp của ta

Thuận theo chúng sanh nói

Vào Đại-thừa làm gốc

Nên mới nói kinh này.

Có Phật tử tâm tịnh

Êm dịu cũng căn lợi,

Nơi vô lượng các Phật

Mà tu đạo sâu mầu,

V́ hàng Phật tử này

Nói kinh Đại-thừa đây.

Ta ghi cho người đó

Đời sau thành Phật đạo

Bởi thâm tâm niệm Phật

Tu tŕ tịnh giới vậy

Hạng này nghe thành Phật

Rất mừng đầy khắp ḿnh,

Phật biết tâm của kia.

Nên v́ nói Đại-thừa.

Thanh-văn hoặc Bồ-Tát,

Nghe ta nói pháp ra

Nhẫn đến một bài kệ

Đều thành Phật không nghi.

Trong cơi Phật mười phương

Chỉ có một thừa pháp

Không hai cũng không ba

Trừ Phật phương tiện nói

Chỉ dùng danh tự giả

Dẫn dắt các chúng sanh

V́ nói trí huệ Phật.

Các Phật ra nơi đời

Chỉ một việc này thực

Hai thứ chẳng phải chơn.

Trọn chẳng đem tiểu thừa

Mà tế độ chúng sanh,

Phật tự trụ Đại-thừa

Như pháp của ḿnh được

Định, huệ, lực trang nghiêm

Dùng đây độ chúng sanh.

Tự chứng đạo vô thượng

Pháp b́nh-đẳng Đại-thừa

Nếu dùng tiểu thừa độ

Nhẫn đến nơi một người

Thời ta đọa sân tham

Việc ấy tất không được,

Nếu người tin về Phật

Như-Lai chẳng dối gạt

Cũng không ḷng tham ghen

Dứt ác trong các pháp

Nên Phật ở mười phương

Mà riêng không chỗ sợ.

Ta dùng tướng trang nghiêm

Ánh sáng soi trong đời

Đấng vô lượng chúng trọng

V́ nói thực tướng ấn

Xá-Lợi-Phất! nên biết

Ta vốn lập thệ nguyện

Muốn cho tất cả chúng

Bằng như ta không khác,

Như ta xưa đă nguyện

Nay đă đầy đủ rồi

Độ tất cả chúng sanh

Đều khiến vào Phật đạo

Nếu ta gặp chúng sanh

Dùng Phật đạo dạy cả

Kẻ vô trí rối sai

Mê lầm không nhận lời.

Ta rơ chúng sanh đó

Chưa từng tu cội lành

Chấp chặt nơi ngũ dục

V́ si ái sinh khổ,

Bởi nhân duyên các dục.

Sanh vào ba đường dữ

Xoay lăn trong sáu nẻo

Chịu đủ những khổ độc

Thân mọn thọï bào thai

Đời đời tăng trưởng luôn

Người đức mỏng ít phước

Các sự khổ bức ngặt

Vào rừng rậm tà kiến

Hoặc chấp có, chấp không

Nương gá các chấp này

Đầy đủ sáu mươi hai

Chấp chặt pháp hư vọng

Bền nhận không bỏ được

Ngă mạn tự khoe cao

Dua nịnh ḷng không thực

Trong ngh́n muôn ức kiếp

Chẳng nghe danh tự Phật

Cũng chẳng nghe chánh pháp

Người như thế khó độ.

Cho nên Xá-Lợi-Phất!

Ta v́ bày phương tiện

Nói các đạo dứt khổ

Chỉ cho đó Niết-bàn

Ta dầu nói Niết-bàn

Cũng chẳng phải thật diệt,

Các pháp từ bổn lai

Tướng thường tự vắng lặng

Phật tử hành đạo rồi

Đời sau được thành Phật

Ta có sức phương tiện

Mở bày khắp ba thừa.

Tất cả các Thế-Tôn

Đều nói đạo nhất thừa

Nay trong đại chúng này

Đều nên trừ nghi lầm

Lời Phật nói không khác

Chỉ một, không hai thừa.

Vô số kiếp đă qua

Vô lượng Phật diệt độ

Trăm ngh́n muôn ức Phật

Số nhiều không lường được.

Các Thế-Tôn như thế

Các món duyên thí dụ

Vô số ức phương tiện

Diễn nói các pháp tướng,

Các đức Thế-Tôn đó

Đều nói pháp nhất thừa

Độ vô lượng chúng sanh

Khiến vào nơi Phật đạo

Lại các đại-Thánh-chúa

Biết tất cả thế gian

Trời người loài quần sanh

Thâm tâm chỗ ưa muốn

Bèn dùng phương tiện khác

Giúp bày nghĩa đệ nhất.

Nếu có loài chúng sanh

Gặp các Phật quá khứ

Hoặc nghe pháp bố thí

Hoặc tŕ giới nhẫn nhục

Tinh tấn, thiền, trí thảy

Các món tu phước huệ,

Những người như thế đó

Đều đă thành Phật đạo

Sau các Phật diệt độ

Nếu người ḷng lành dịu

Các chúng sanh như thế

Đều đă thành Phật đạo

Các Phật diệt độ rồi

Người cúng dường xá-lợi

Dựng muôn ức thứ tháp

Vàng, bạc và pha-lê

Xa-cừ cùng mă-năo

Ngọc mai khôi, lưu ly

Thanh tịnh rộng nghiêm sức,

Trau giồi nơi các tháp,

Hoặc có dựng miếu đá

Chiên-đàn và trầm-thủy

Gỗ mật cùng gỗ khác

Gạch ngói bùn đất thảy,

Hoặc ở trong đồng trống

Chứa đất thành miếu Phật

Nhẫn đến đồng tử giỡn

Nhóm cát thành tháp Phật,

Những hạng người như thế

Đều đă thành Phật đạo.

Nếu như người v́ Phật

Xây dựng các h́nh-tượng

Chạm trổ thành các tướng

Đều đă thành Phật đạo.

Hoặc dùng bảy báu làm

Thau, đồng bạch, đồng đỏ

Chất nhôm cùng ch́ kẽm

Sắt, gỗ cùng với bùn

Hoặc dùng keo, sơn, vải

Nghiêm sức làm tượng Phật

Những người như thế đó

Đều đă thành Phật đạo

Vẽ vời làm tượng Phật

Trăm tướng phước trang nghiêm

Tự làm hoặc bảo người

Đều đă thành Phật đạo.

Nhẫn đến đồng tử giỡn

Hoặc cỏ cây và bút

Hoặc lấy móng tay ḿnh

Mà vẽ làm tượng Phật

Những hạng người như thế

Lần lần chứa công-đức

Đầy đủ tâm đại bi

Đều đă thành Phật đạo

Chỉ dạy các Bồ-Tát

Độ thoát vô lượng chúng.

Nếu người nơi tháp miếu

Tượng báu và tượng vẽ

Dùng hoa, hương, phan, lọng

Lồng kính mà cúng dường

Hoặc khiến người trổi nhạc

Đánh trống, thổi sừng ốc

Tiêu địch, cầm, không-hầu

Tỳ-bà, chụp-chả đồng

Các tiếng hay như thế

Đem dùng cúng dường hết

Hoặc người ḷng vui mừng

Ca ngâm khen đức Phật

Nhẫn đến một tiếng nhỏ

Đều đă thành Phật đạo

Nếu người ḷng tán loạn

Nhẫn đến dùng một hoa

Cúng dường nơi tượng vẽ

Lần thấy các đức Phật

Hoặc có người lễ lạy

Hoặc lại chỉ chắp tay

Nhẫn đến giơ một tay

Hoặc lại hơi cúi đầu

Dùng đây cúng dường tượng

Lần thấy vô lượng Phật

Tự thành đạo vô thượng

Rộng độ chúng vô số

Vào Vô dư Niết-bàn

Như củi hết lửa tắt.

Nếu người tâm tán loạn

Bước vào trong tháp chùa

Chỉ niệm Nam-mô Phật

Đều đă thành Phật đạo

Nơi các Phật quá khứ

Tại thế, hoặc diệt độ,

Có người nghe pháp này

Đều đă thành Phật đạo

Các Thế-Tôn vị lai

Số nhiều không thể lường

Các đức Như-Lai đó

Cùng phương tiện nói pháp.

Tất cả các Như-Lai

Dùng vô lượng phương tiện

Độ thoát các chúng sanh

Vào trí vô lậu Phật,

Nếu có người nghe pháp

Không ai chẳng thành Phật.

Các Phật vốn thệ nguyện

Ta tu hành Phật đạo

Khắp muốn cho chúng sanh

Cũng đồng được đạo này.

Các Phật đời vị lai

Dầu nói trăm ngh́n ức

Vô số các pháp môn

Kỳ thực v́ nhất thừa.

Các Phật Lưỡng-Túc-tôn

Biết pháp thường không tánh

Giống Phật theo duyên sanh

Cho nên nói nhứt thừa.

Pháp đó trụ ngôi pháp

Tướng thế gian thường c̣n

Nơi đạo tràng biết rồi

Đức Phật phương tiện nói.

Hiện tại mười phương Phật

Của trời người cúng dường

Số nhiều như hằng sa

Hiện ra nơi thế gian

V́ an ổn chúng sanh

Cũng nói pháp như thế.

Biết vắng bặt thứ nhứt

Bởi dùng sức phương tiện

Dầu bày các món đạo

Kỳ thực v́ Phật thừa

Biết các hạnh chúng sanh

Thâm tâm nó nghĩ nhớ

Nghiệp quen từ quá khứ

Tánh dục, sức tinh tấn

Và các căn lợi độn

Dùng các món nhân duyên

Thí dụ cùng lời lẽ

Tùy cơ phương tiện nói.

Ta nay cũng như vậy

V́ an ổn chúng sanh

Dùng các món pháp môn

Rao bày nơi Phật đạo

Ta dùng sức trí huệ

Rơ tính dục chúng sanh

Phương tiện nói các pháp

Đều khiến được vui mừng.

Xá-Lợi-Phất nên biết!

Ta dùng mắt Phật xem

Thấy sáu đường chúng sanh

Nghèo cùng không phước huệ

Vào đường hiểm sanh tử

Khổ nối luôn không dứt

Sâu tham nơi ngũ dục

Như trâu "mao" mến đuôi

Do tham ái tự che

Đui mù không thấy biết

Chẳng cầu Phật thế lớn

Cùng pháp dứt sự khổ

Sâu vào các tà kiến

Lấy khổ muốn bỏ khổ

Phật v́ chúng sanh này

Mà sanh ḷng đại bi

Xưa, tu ngồi đạo tràng

Xem cây cùng kinh hành

Suy nghĩ việc như vầy:

Trí huệ của ta được

Vi diệu rất thứ nhứt

Chúng sanh các căn chậm

Tham vui si làm mù

Các hạng người như thế

Làm sao mà độ được?

Bấy giờ các Phạm-vương

Cùng các trời Đế-Thích

Bốn Thiên-vương hộ đời

Và trời Đại-Tự-Tại

Cùng các thiên chúng khác

Trăm ngh́n ức quyến thuộc

Chắp tay cung kính lễ

Thỉnh ta chuyển pháp-luân.

Ta liền tự suy nghĩ

Nếu chỉ khen Phật thừa

Chúng sanh ch́m nơi khổ

Không thể tin pháp đó

Do phá pháp không tin

Rớt trong ba đường dữ

Ta thà không nói pháp

Mau vào cơi Niết-bàn

Liền nhớ Phật quá khứ

Thực hành sức phương tiện

Ta nay chứng được đạo

Cũng nên nói ba thừa.

Lúc ta nghĩ thế đó

Mười phương Phật đều hiện

Tiếng Phạm an-ủi ta

Hay thay! đức Thích-Ca

Bậc Đạo-Sư thứ nhứt

Được pháp vô thượng ấy

Tùy theo tất cả Phật

Mà dùng sức phương tiện

Chúng ta cũng đều được

Pháp tối diệu thứ nhứt

V́ các loại chúng sanh

Phân biệt nói ba thừa.

Trí kém ưa pháp nhỏ

Chẳng tự tin thành Phật

Cho nên dùng phương tiện

Phân biệt nói các quả

Dầu lại nói ba thừa

Chỉ v́ dạy Bồ-Tát.

Xá-Lợi-Phất nên biết!

Ta nghe các đức Phật

Tiếng nhiệm mầu rất sạch

Xưng: “Nam-mô chư Phật!”

Ta lại nghĩ thế này

Ta ra đời trược ác

Như các Phật đă nói

Ta cũng thuận làm theo

Suy nghĩ việc đó rồi

Liền đến thành Ba-Nại.

Các pháp tướng tịch diệt

Không thể dùng lời bày

Bèn dùng sức phương tiện

V́ năm Tỳ-kheo nói.

Đó gọi chuyển pháp luân

Bèn có tiếng Niết-bàn

Cùng với A-la-hán

Tên pháp, tăng sai khác.

Từ kiếp xa nhẫn lại

Khen bày Pháp Niết-bàn

Dứt hẳn khổ sống chết

Ta thường nói như thế

Xá-Lợi-Phất phải biết

Ta thấy các Phật tử

Chí quyết cầu Phật đạo

Vô lượng ngh́n muôn ức

Đều dùng ḷng cung kính

Đồng đi đến chỗ Phật

Từng đă theo các Phật

Nghe nói pháp phương tiện

Ta liền nghĩ thế này

Sở dĩ Phật ra đời

Để v́ nói Phật huệ

Nay chính đă đúng giờ.

Xá-Lợi-Phất phải biết!

Người căn chậm trí nhỏ

Kẻ chấp tướng kiêu mạn

Chẳng thể tin pháp này

Nay ta vui vô-úy

Ở trong hàng Bồ-Tát

Chính bỏ ngay phương tiện

Chỉ nói đạo vô thượng.

Bồ-Tát nghe pháp đó

Đều đă trừ lưới nghi

Ngh́n hai trăm La-hán

Cũng đều sẽ thành Phật

Như nghi thức nói pháp

Của các Phật ba đời

Ta nay cũng như vậy

Nói pháp không phân biệt

Các đức Phật ra đời

Lâu xa khó gặp gỡ

Chính sử hiện ra đời

Nói pháp này khó hơn

Vô lượng vô số kiếp

Nghe pháp này cũng khó,

Hay nghe được pháp này

Người đó cũng lại khó

Thí như hoa linh-thoại

Tất cả đều ưa mến

Ít có trong trời, người

Lâu lâu một lần trổ.

Người nghe pháp mừng khen

Nhẫn đến nói một lời

Thời là đă cúng dường

Tất cả Phật ba đời

Người đó rất ít có

Hơn cả hoa Ưu-đàm.

Các ông chớ có nghi

Ta là vua các pháp

Khắp bảo các đại chúng

Chỉ dùng đạo nhứt thừa

Dạy bảo các Bồ-Tát

Không Thanh-văn đệ tử

Xá-Lợi-Phất các ông!

Thanh-văn và Bồ-Tát

Phải biết pháp mầu này

Bí yếu của các Phật

Bởi đời ác năm trược

Chỉ tham ưa các dục

Những chúng sanh như thế

Trọn không cầu Phật đạo

Người ác đời sẽ tới

Nghe Phật nói nhứt thừa

Mê lầm không tin nhận

Phá pháp đọa đường dữ

Người tâm quí trong sạch

Quyết chí cầu Phật đạo

Nên v́ bọn người ấy

Rộng khen đạo nhất thừa.

Xá-Lợi-Phất nên biết

Pháp các Phật như thế

Dùng muôn ức phương tiện

Tùy thời nghi nói pháp

Người chẳng học tập tu

Không hiểu được pháp này

Các ông đă biết rơ

Phật là thầy trong đời

Việc phương-tiện tùy nghi

Không c̣n lại nghi lầm

Ḷng sinh rất vui mừng

Tự biết sẽ thành Phật.

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA

| ML | Q 01 | Q 02 | Q 03 | Q 04 | Q 05 | Q 06 | Q 07 |

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA

Hán Dịch: Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập

Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

QUYỂN 2

03 - PHẨM “THÍ DỤ”

Lúc bấy giờ ngài Xá-Lợi-Phất hớn hở vui mừng, liền đứng dậy chấp tay chiêm ngưỡng dung nhan của đức Phật mà bạch Phật rằng: Nay con theo đức Thế-Tôn nghe được tiếng pháp này, trong ḷng hớn hở được điều chưa từng có. V́ sao? Con xưa theo Phật nghe pháp như thế này, thấy các vị Bồ-Tát được thọ kư thành Phật mà chúng con chẳng được dự việc đó tự rất cảm thương mất vô lượng tri kiến của Như-Lai.

Thế-Tôn! Con thường khi một ḿnh ở dưới cây trong núi rừng, hoặc ngồi hoặc đi kinh hành, hằng nghĩ như vầy: Chúng ta đồng vào pháp tánh, tại sao đức Như-Lai lại dùng pháp tiểu thừa mà tế độ cho?

Đó là lỗi của chúng con chớ chẳng phải là Thế-Tôn vậy. V́ sao? Nếu chúng con chờ Phật nói pháp sở nhân thành đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác thời chắc do pháp Đại-thừa mà được độ thoát. Song chúng con chẳng hiểu Phật phương tiện theo cơ nghi mà nói pháp, vừa mới nghe Phật nói pháp vội tin nhận suy gẫm để chứng lấy.

Thế-Tôn! Con từ xưa đến nay trọn ngày luôn đêm hằng tự trách ḿnh, mà nay được từ Phật nghe pháp chưa từng có, trước khi hề nghe, dứt các ḷng nghi hối, thân ư thơ thới rất được an ổn. Ngày nay mới biết ḿnh thật là Phật tử, từ miệng Phật sanh ra, từ pháp hóa sanh, được pháp phần của Phật.

Khi ấy, Ngài Xá-Lợi-Phất muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

Con nghe tiếng pháp này

Được điều chưa từng có

Ḷng rất đổi vui mừng

Lưới nghi đều đă trừ,

Xưa nay nhờ Phật dạy

Chẳng mất nơi Đại-thừa.

Tiếng Phật rất ít có

Hay trừ khổ chúng sanh

Con đă được lậu tận (1)

Nghe cũng trừ lo khổ.

Con ở nơi hang núi

Hoặc dưới cụm cây rừng

Hoặc ngồi hoặc kinh hành

Thường suy nghĩ việc này,

Thôi ôi! Rất tự trách

Sao lại tự khi ḿnh

Chúng ta cũng Phật tử

Đồng vào pháp vô lậu

Chẳng được ở vị lai

Nói pháp vô thượng đạo,

Sắc vàng, băm hai tướng (2)

Mười lực (3) các giải thoát.

Đồng chung trong một pháp

Mà chẳng được việc đây

Tám mươi tướng tốt đẹp

Mười tám pháp bất cộng (4)

Các công đức như thế

Mà ta đều đă mất

Lúc con kinh hành riêng

Thấy Phật ở trong chúng

Danh đồn khắp mười phương

Rộng lợi ích chúng sanh

Tự nghĩ mất lợi này

Chính con tự khi dối

Con thường trong ngày đêm

Hằng suy nghĩ việc đó

Muốn đem hỏi Thế-Tôn?

Là mất hay không mất?

Con thường thấy Thế-Tôn

Khen ngợi các Bồ-Tát (5)

V́ thế nên ngày đêm

Suy lường việc như vậy

Nay nghe tiếng Phật nói

Theo cơ nghi dạy Pháp

Vô lậu khó nghĩ bàn

Khiến chúng đến đạo tràng.

Con xưa chấp tà kiến

Làm thầy các Phạm-chí (6)

Thế-Tôn rơ tâm con

Trừ tà nói Niết-bàn.

Con trừ hết tà kiến

Được chứng nơi pháp không

Bấy giờ ḷng tự bảo

Được đến nơi diệt độ

Mà nay mới tự biết

Chẳng phải thực diệt độ.

Nếu lúc được thành Phật

Đủ ba mươi hai tướng

Trời, người, chúng, Dạ-xoa

Rồng, thần đều cung kính

Bấy giờ mới được nói

Dứt hẳn hết không thừa

Phật ở trong đại chúng

Nói con sẽ thành Phật

Nghe tiếng pháp như vậy

Ḷng nghi hối đă trừ.

Khi mới nghe Phật nói

Trong ḷng rất sợ nghi

Phải chăng ma giả Phật

Năo loạn ḷng ta ư?

Phật dùng các món duyên

Thí dụ khéo nói phô,

Ḷng kia an như biển

Con nghe, lưới nghi dứt.

Phật nói thuở quá khứ

Vô lượng Phật diệt độ

An trụ trong phương tiện

Cũng đều nói pháp đó.

Phật hiện tại, vị lai.

Số nhiều cũng vô lượng

Cũng dùng các phương tiện

Diễn nói pháp như thế.

Như Thế-Tôn ngày nay

Từ sanh đến xuất gia

Được đạo Chuyển-pháp-luân

Cũng dùng phương tiện nói

Thế-Tôn nói đạo thật

Ba tuần (7) không nói được

V́ thế con định biết

Không phải ma giả Phật

Con sa vào lưới nghi

Cho là ma làm ra.

Nghe tiếng Phật êm dịu

Sâu xa rất nhiệm mầu

Nói suốt pháp thanh tịnh

Tâm con rất vui mừng.

Nghi hối đă hết hẳn

An trụ trong thật trí

Con quyết sẽ thành Phật

Được trời, người cung kính

Chuyển pháp-luân vô thượng

Giáo hóa các Bồ-Tát.

Lúc bấy giờ, đức Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất: "Ta nay ở trong hàng trời, người, Sa-môn, Bà-la-môn mà nói. Ta xưa từng ở nơi hai muôn ức Phật v́ đạo vô thượng nên thường giáo hóa ông, ông cũng lâu dài theo ta thọï học, ta dùng phương tiện dẫn dắt ông sanh vào trong pháp ta. Xá-Lợi-Phất! Ta thuở xưa dạy ông chí nguyện Phật đạo, ông nay đều quên mà bèn tự nói đă được diệt độ. Ta nay lại muốn khiến ông nghĩ nhớ bản nguyện cùng đạo đă làm, mà v́ các Thanh-văn nói kinh Đại-thừa tên là: "Diệu-Pháp Liên-Hoa" là pháp giáo hóa Bồ-Tát được chư Phật hộ niệm.  

Xá-Lợi-Phất! Ông đến đời vị lai, quá vô lượng vô biên bất-khả tư-ngh́ kiếp, cúng dường bao nhiêu ngh́n muôn ức Phật, phụng tŕ chánh pháp đầy đủ đạo tu hành của Bồ-Tát, sẽ thành Phật hiệu là Hoa-Quang Như-Lai, Ứng-cúng, Chánh-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Điều-ngự trượng-phu, Thiên-nhân-sư, Phật Thế-Tôn.

Nước tên: Ly-Cấu, cơi đó bằng thẳng thanh tịnh đẹp đẽ an ổn giàu vui, trời người đông đảo. Lưu ly làm đất, có tám đường giao thông, dây bằng vàng ṛng để giăng bên đường, mé đường đều có hàng cây bằng bảy báu, thường có hoa trái. Đức Hoa-Quang Như-Lai cũng dùng ba thừa giáo hóa chúng sanh.

Xá-Lợi-Phất! Lúc đức Phật ra đời dầu không phải là đời ác mà bởi bản nguyện nên nói pháp ba thừa. Kiếp đó tên là "Đại-Bảo-Trang-Nghiêm". V́ sao gọi là "Đại-Bảo-Trang-Nghiêm"? V́ trong cơi đó dùng Bồ-Tát làm "Đại-Bảo" vậy. Các Bồ-Tát trong số đông vô lượng vô biên bất-khả tư-ngh́, tính kể hay thí dụ đều không đếm được, chẳng phải sức trí huệ của Phật không ai có thể biết được. Khi muốn đi th́ có hoa đỡ chân.

Các vị Bồ-Tát đó không phải hàng mới phát tâm, đều đă trồng cội từ lâu. Ở nơi vô lượng trăm ngh́n muôn ức đức Phật, tịnh tu phạm hạnh hằng được các Phật khen. Thường tu trí huệ của Phật đủ sức thần thông lớn, khéo biết tất cả các pháp môn, ngay thật không dối, chí niệm bền vững bậc Bồ-Tát như thế, khắp đầy nước đó.

Xá-Lợi-Phất! Đức Phật Hoa-Quang thọï mười hai tiểu kiếp, trừ c̣n làm vương tử chưa thành Phật. Nhân dân nước đó thọ tám tiểu kiếp. Đức Hoa-Quang Như-Lai quá mười hai tiểu kiếp thọ kư vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác cho Kiên-Măn Bồ-Tát mà bảo các Tỳ-kheo: Ông Kiên-măn Bồ-Tát này kế đây sẽ thành Phật hiệu là Hoa-Túc An-Hành Như-Lai, Ứng-cúng, Chánh-biến-tri, cơi nước của đức Phật đó cũng lại như đây.

Xá-Lợi-Phất! Sau khi Phật Hoa-Quang đó diệt độ, chánh pháp trụ lại trong đời ba mươi hai tiểu kiếp, tượng pháp trụ đời cũng ba mươi hai tiểu kiếp.

Lúc ấy, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

Xá-Lợi-Phất đời sau

Thành đấng Phật trí khắp

Hiệu rằng: Phật Hoa-Quang

Sẽ độ vô lượng chúng.

Cúng dường vô số Phật

Đầy đủ hạnh Bồ-Tát

Các công đức thập lực

Chứng được đạo vô thượng

Quá vô lượng kiếp rồi

Kiếp tên Đại-Bảo-Nghiêm

Cơi nước tên Ly-Cấu

Trong sạch không vết nhơ

Dùng lưu ly làm đất

Dây vàng giăng đường sá

Cây bảy báu sắc đẹp

Thường có hoa cùng trái

Bồ-Tát trong cơi đó

Chí niệm thường bền vững

Thần thông ba-la-mật

Đều đă trọn đầy đủ

Nơi vô số đức Phật

Khéo học đạo Bồ-Tát

Những Đại-sĩ như thế

Phật Hoa-Quang hóa độ.

Lúc Phật làm vương tử

Rời nước bỏ vinh hoa

Nơi thân cuối rốt sau

Xuất gia thành Phật đạo

Phật Hoa-Quang trụ thế

Thọ mười hai tiểu kiếp

Chúng nhân dân nước đó

Sống lâu tám tiểu kiếp

Sau khi Phật diệt độ

Chánh pháp trụ ở đời

Ba mươi hai tiểu kiếp

Rộng độ các chúng sanh

Chánh pháp diệt hết rồi

Tượng pháp cũng băm hai

Xá-lợi rộng truyền khắp

Trời, người, khắp cúng dường

Phật Hoa-Quang chỗ làm

Việc đó đều như thế.

Đấng Lưỡng-Túc-Tôn kia

Rất hơn không ai bằng

Phật tức là thân ông

Nên phải tự vui mừng.

Bấy giờ bốn bộ chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Cận-sự-nam, Cận-sự-nữ và cả đại-chúng: trời, rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, v.v... thấy Xá-Lợi-Phất ở trước Phật lănh lấy lời dự ghi sẽ thành vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác, ḷng rất vui mừng hớn hở vô lượng. Mỗi người đều cởi y trên của ḿnh đang đắp để cúng dường Phật.

Thích-Đề Hoàn-Nhơn cùng Phạm-Thiên-Vương v.v... và vô số thiên tử cũng đem y đẹp của trời, hoa trời Mạn-đà-la, Ma-ha Mạn-đà-la v.v... cúng dường nơi Phật. Y trời tung lên liền trụ giữa hư không mà tự xoay chuyển. Các kỹ nhạc trời trăm ngh́n muôn thứ ở giữa hư không đồng thời đều trổi. Rưới các thứ hoa trời mà nói lời rằng: "Đức Phật xưa ở thành Ba-La-Nại, ban đầu chuyển-pháp-luân rất lớn vô thượng".

Lúc đó các Thiên tử muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

Xưa ở thành Ba-Nại

Chuyển pháp-luân Tứ- Đế

Phân biệt nói các pháp

Sanh diệt của năm nhóm (8)

Nay lại chuyển-pháp-luân

Rất lớn diệu vô thượng,

Pháp đó rất sâu mầu

Ít có người tin được.

Chúng ta từ xưa lại

Thường nghe Thế-Tôn nói

Chưa từng nghe thượng pháp

Thâm diệu như thế này,

Thế-Tôn nói pháp đó

Chúng ta đều tùy hỷ,

Đại trí Xá-Lợi-Phất

Nay được lănh Phật kư

Chúng ta cũng như vậy

Quyết sẽ được thành Phật,

Trong tất cả thế gian

Rất tôn không c̣n trên

Phật đạo chẳng thể bàn

Phương tiện tùy nghi nói

Ta bao nhiêu nghiệp phước

Đời nay hoặc quá khứ

Và công đức thấy Phật.

Trọn hồi hướng Phật đạo.

Bấy giờ, Xá-Lợi-Phất bạch rằng: "Thế-Tôn ! con nay không c̣n nghi hối, tự ḿnh ở trước Phật được thọï kư thành vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác. Các vị tâm tự tại một ngh́n hai trăm đây, lúc xưa ở bậc hữu-học, Phật thường dạy rằng: "Pháp của ta hay ĺa sanh, già, bệnh, chết rốt ráo Niết-bàn". Các vị hữu-học vô-học đây cũng đều đă tự rời chấp ngă cùng chấp có, chấp không v.v... nói là được Niết-bàn, mà nay ở trước đức Thế-Tôn nghe chỗ chưa từng nghe, đều sa vào nghi lầm. Hay thay Thế-Tôn! Xin Phật v́ bốn chúng nói nhân duyên đó, khiến ĺa ḷng nghi hối"

Khi ấy, Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất: Ta trước đâu không nói rằng: "Các Phật Thế-Tôn dùng các món nhân duyên lời lẽ thí dụ phương tiện mà nói pháp đều là vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác ư? Các điều nói đó đều v́ dạy Bồ-Tát vậy. Nhưng Xá-Lợi-Phất! Nay ta sẽ dùng một thí dụ để chỉ rơ lại nghĩa đó, những người có trí do thí dụ mà được hiểu."

Xá-Lợi-Phất! Như trong quốc ấp, tụ lạc có vị đại Trưởng-giả tuổi đă già suy, của giàu vô lượng, có nhiều nhà ruộng và các tôi tớ. Nhà ông rộng lớn mà chỉ có một cửa để ra vào, người ở trong đó rất đông; hoặc một trăm, hai trăm cho đến năm trăm người, lầu gác đă mục, vách phên sụp đổ, chân cột hư nát, trính xiêng xiêu ngă, bốn phía đồng một lúc, lửa bỗng nổi lên đốt cháy nhà cửa.

Các người con của Trưởng-giả hoặc mười người, hoặc hai mươi người, hoặc đến ba mươi người ở trong nhà đó.

Trưởng-giả thấy lửa từ bốn phía nhà cháy lên, liền rất sợ sệt mà nghĩ rằng: Ta dầu có thể ở nơi cửa của nhà cháy này ra ngoài rất an ổn, song các con ở trong nhà lửa ưa vui chơi giỡn không hay biết, không sợ sệt, lửa đến đốt thân rất đau khổ lắm, mà ḷng chẳng nhàm lo, không có ư cầu ra khỏi.

Xá-Lợi-Phất! Ông Trưởng-giả đó lại nghĩ: thân và tay của ta có sức mạnh, nên dùng vạt áo hoặc dùng ghe đẳng từ trong nhà mà ra ngoài. Ông lại nghĩ: Nhà này chỉ có một cái cửa mà lại hẹp nhỏ, các con thơ bé chưa hiểu, mê đắm chơi giỡn hoặc vấp ngă bị lửa đốt cháy, ta nên v́ chúng nó mà nói những việc đáng sợ.

Nhà này đă bị cháy phải mau ra liền, chớ để bị lửa đốt hại. Nghĩ như thế theo chỗ đă nghĩ đó mà bảo các con: "Các con mau ra!" Cha dầu thương xót khéo nói để dụ dỗ, mà các người con ưa vui chơi chẳng khứng tin chịu, chẳng sợ sệt, trọn không có ḷng muốn ra, lại cũng chẳng hiểu ǵ là lửa? ǵ là nhà? thế nào là hại? Chỉ cứ đông tây chạy giỡn nh́n cha mà thôi.

Bấy giờ, Trưởng-giả liền nghĩ nhà này đă bị lửa lớn đốt cháy, ta cùng các con nếu không ra liền chắc sẽ bị cháy, ta nay nên bày chước phương tiện khiến cho các con được khỏi nạn này.

Cha biết các con đều vẫn có ḷng thích các đồ chơi trân báu lạ lùng, nếu có, chắc chúng nó ưa đắm, mà bảo các con rằng: "Đây này là những món ít có khó được mà các con có thể vui chơi, nếu các con không ra lấy sau chắc buồn ăn năn. Các thứ xe dê, xe hươu, xe trâu như thế, nay ở ngoài cửa có thể dùng dạo chơi, các con ở nơi nhà lửa nên mau ra đây tùy ư các con muốn, cha đều sẽ cho các con".

Lúc bấy giờ, các người con nghe cha nói đồ chơi báu đẹp vừa ư ḿnh nên ḷng mỗi người đều mạnh mẽ xô đẩy lẫn nhau cùng đua nhau ruổi chạy tranh ra khỏi nhà lửa. Khi đó Trưởng-giả thấy các con được an ổn ra khỏi nhà lửa đều ở trong đường ngă tư nơi đất trống không c̣n bị chướng ngại, tâm ông thơ thới vui mừng hớn hở.

Bấy giờ, các người con đều thưa với cha rằng: "Cha lúc năy hứa cho những đồ chơi tốt đẹp, nào xe dê, xe hươu, xe trâu xin liền ban cho."

Xá-Lợi-Phất! Khi đó Trưởng-giả đều cho các con đồng một thứ xe lớn, xe đó cao rộng chưng dọn bằng các món báu, lan can bao quanh, bốn phía treo linh, lại dùng màn lọng giăng che ở trên, cũng dùng đồ báu đẹp tốt lạ mà trau giồi đó, dây bằng báu kết thắt các dải hoa rủ xuống, nệm chiếu mềm mại trải chồng, gối đỏ để trên, dùng trâu trắng kéo, sắc da mập sạch thân h́nh mập đẹp, có sức rất mạnh bước đi ngay bằng mau lẹ như gió, lại có đông tôi tớ để hầu hạ đó.

V́ cớ sao? V́ ông Trưởng-giả đó của giàu vô lượng, các thứ kho tàng thảy đều đầy ngập, ông nghĩ rằng: "Của cải của ta nhiều vô cực, không nên dùng xe nhỏ xấu kém mà cho các con, nay những trẻ thơ này đều là con của ta, đồng yêu không thiên lệch, ta có xe bằng bảy báu như thế số nhiều vô lượng nên lấy ḷng b́nh đẳng mà đều cho chúng nó, chẳng nên sai khác."

V́ sao? Dầu đem xe của ta đó khắp cho cả người một nước hăy c̣n không thiếu huống ǵ các con. Lúc ấy các người con đều ngồi xe lớn được điều chưa từng có, không phải chỗ trước kia ḿnh trông.

Xá-Lợi-Phất! Ư của ông nghĩ sao? Ông Trưởng-giả đó đồng đem xe trân báu lớn cho các người con, có lỗi hư vọng chăng? Xá-Lợi-Phất thưa: “Thưa Thế-Tôn ! Không, ông Trưởng giả chỉ làm cho các con được khỏi nạn lửa, toàn thân mạng chúng nó, chẳng phải là hư vọng. V́ sao? Nếu được toàn thân mạng bèn đă được đồ chơi tốt đẹp, huống nữa là dùng phương tiện cứu vớt ra khỏi nhà lửa.

Thế-Tôn! Dầu ông Trưởng-giả đó nhẫn đến chẳng cho một thứ xe rất nhỏ c̣n chẳng phải hư vọng. V́ sao? V́ ông Trưởng-giả đó trước có nghĩ như vầy: Ta dùng trước phương tiện cho các con được ra khỏi, v́ nhân duyên đó nên không hư vọng vậy. Huống ǵ ông Trưởng-giả tự biết ḿnh của giàu vô lượng muốn lợi ích các con mà đồng cho xe lớn!"

Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất: "Hay thay! Hay thay! Như lời ông nói, Xá-Lợi-Phất! Như-Lai cũng lại như thế, Phật là cha của tất cả thế gian, ở nơi các sự sợ hăi suy năo lo buồn vô minh che tối hết hẳn không c̣n thừa, mà trọn thành tựu vô lượng tri-kiến, trí-lực, vô-sở-úy; có sức đại thần thông cùng sức trí huệ đầy đủ các món phương tiện. Trí huệ Ba-la-mật, đại từ đại bi thường không hề lười mỏi. Hằng v́ cầu việc lành lợi cho tất cả muôn loại mà sanh vào nhà lửa tam giới cũ mục này, để độ chúng sanh ra khỏi nạn lửa; sanh, già, bệnh, chết, lo buồn khổ năo, ngu si tối tăm, ba độc; dạy bảo cho chúng sanh được vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác.

Ta thấy các chúng sanh bị những sự sanh, già, bệnh, chết, lo buồn khổ năo nó đốt cháy, cũng v́ năm món dục (9) tài lợi mà bị các điều thống khổ. Lại v́ tham mê đeo đuổi t́m cầu nên hiện đời thọ các điều khổ, đời sau thọï khổ địa-ngục, súc-sanh, ngạ-quỷ. Nếu sanh lên trời và ở trong loài người thời nghèo cùng khốn khổ, bị khổ về người yêu thường xa ĺa, kẻ oán ghét lại gặp gỡ. Các món khổ như thế chúng-sanh ch́m trong đó vui vẻ dạo chơi, chẳng hay biết, chẳng kinh chẳng sợ, cũng chẳng sanh ḷng nhàm, không cầu giải thoát; ở trong nhà lửa tam giới này đông tây rảo chạy dầu bị khổ nhiều vẫn chẳng lấy làm lo.

Xá-Lợi-Phất! Đức Phật thấy việc này rồi bèn nghĩ rằng: Ta là cha của chúng sanh nên cứu chúng nó ra khỏi nạn khổ đó, ban vô lượng vô biên món trí huệ vui của Phật để chúng nó dạo chơi.

Xá-Lợi-Phất! Đức Như-Lai lại nghĩ: Nếu ta chỉ dùng sức thần thông cùng sức trí huệ bỏ chước phương tiện, mà v́ chúng sanh khen ngợi các món tri-kiến, trí-lực, vô-sở-úy của Như-Lai, ắt chúng sanh chẳng có thể do đó mà được độ thoát. V́ sao? V́ các chúng sanh đó chưa khỏi sự sanh, già, bệnh, chết, lo buồn, đau khổ, đương bị thiêu đốt trong nhà lửa tam giới, làm sao có thể hiểu được trí huệ của Phật.

Xá-Lợi-Phất! Như ông Trưởng-giả kia dầu thân và tay có sức mạnh mà chẳng dùng đó, chỉ ân cần phương tiện gắng cứu các con thoát nạn nhà lửa, rồi sau đều cho xe trân báu lớn.

Đức Như-Lai cũng lại như thế, dầu có trí lực cùng sức vô úy (10) mà chẳng dùng đến, chỉ dùng trí huệ phương tiện nơi nhà lửa tam giới cứu vớt chúng sanh, v́ chúng sanh nói ba thừa Thanh-văn, Duyên-giác cùng Phật-thừa mà bảo rằng: "Các ngươi không nên ưa ở trong nhà lửa tam giới, chớ có ham mê các món sắc, thanh, hương, vị, xúc thô hèn, nếu tham, mê ắt sinh ái nhiễm thời sẽ bị nó đốt; các ngươi mau ra khỏi ba cơi sẽ được chứng ba thừa: Thanh-văn, Duyên-giác và Phật-thừa.

Nay ta v́ các người mà bảo nhiệm việc đó quyết không dối vậy. Các người chỉ nên siêng năng tinh-tấn tu hành". Đức Như-Lai dùng phương tiện ấy để dụ dẫn chúng sanh thẳng đến, lại bảo: "Các ngươi nên biết rằng pháp ba thừa đó đều là pháp của các đấng Thánh khen ngợi, là pháp tự tại không bị ràng buộc không c̣n phải nương gá t́m cầu, ngồi trong ba thừa này dùng các món căn, lực, giác-chi, thánh-đạo (11) , thiền định vô lậu cùng giải thoát tam muội v.v... để tự vui sướng, được vô lượng sự an ổn khoái lạc".

Xá-Lợi-Phất! nếu có chúng sanh nào bề trong có trí tánh, theo đức Phật Thế-Tôn nghe pháp tin nhận ân cần tinh tấn, muốn chóng ra khỏi ba cơi tự cầu chứng Niết-bàn, gọi đó là Thanh-văn thừa, như các người con kia v́ cầu xe dê mà ra khỏi nhà lửa.

Nếu có chúng sanh nào theo đức Thế-Tôn nghe pháp, tin nhận, rồi ân cần tinh tấn, cầu trí huệ tự nhiên ưa thích riêng lẻ vắng lặng, sâu rơ nhân duyên của các pháp, gọi đó là Duyên-giác-thừa, như các người con kia v́ cầu xe hươu mà ra khỏi nhà lửa.

Nếu có chúng sanh nào theo đức Phật Thế-Tôn nghe pháp tin nhận, siêng tu tinh tấn cầu nhứt-thiết-trí, Phật-trí, tự-nhiên-trí, vô-sư-trí, các món tri-kiến-lực, vô-úy của Như-Lai, có ḷng thương xót làm an vui cho vô lượng chúng sanh, lợi ích trời, người, độ thoát tất cả, hạng đó gọi là Đại-thừa, Bồ-Tát v́ cầu được thừa này thời gọi là Ma-ha-tát, như các người con kia cầu xe trâu mà ra khỏi nhà lửa.

Xá-Lợi-Phất! Như ông Trưởng-giả kia thấy các con được an ổn ra khỏi nhà lửa đến chỗ vô úy, ông tự nghĩ, ta của giàu vô lượng, nên b́nh đẳng đem xe lớn đồng cho các con. Đức Như-Lai cũng lại như thế, là cha của tất cả chúng sanh, nếu thấy có vô lượng ngh́n ức chúng sanh do cửa Phật giáo mà thoát khỏi khổ, đường hiểm đáng sợ của ba cơi được sự vui Niết-bàn.

Bấy giờ, đức Như-Lai bèn nghĩ: "Ta có vô lượng vô biên trí huệ, lực-vô-úy v.v... tạng pháp của các đức Phật, các chúng sanh này đều là con của ta đồng ban cho pháp Đại-thừa, chẳng để có người được diệt độ riêng, đều đem pháp diệt độ của Như-Lai mà cho chúng sanh nó diệt độ.

Những chúng sanh đă thoát khỏi ba cơi đó, Phật đều cho món vui thiền định, giải thoát v.v... của các đức Phật, các món đó đều là một tướng, một thứ mà các đấng Thánh khen ngợi, hay sanh ra sự vui sạch mầu bậc nhất.

Xá-Lợi-Phất! Như ông Trưởng-giả ban đầu dùng ba thứ xe dụ dẫn các con, sau rồi chỉ ban cho xe lớn vật báu trang nghiêm an ổn thứ nhất, song ông Trưởng-giả kia không có lỗi hư dối. Đức Như-Lai cũng như thế, không có hư dối, ban đầu nói ba thừa dẫn dắt chúng sanh sau rồi chỉ dùng Đại-thừa mà độ giải thoát đó.

V́ sao? Như-Lai có vô lượng tạng pháp trí huệ, lực, vô-sở-úy, có thể ban pháp Đại-thừa cho tất cả chúng sanh, chỉ v́ chúng sanh không thọ được hết.

Xá-Lợi-Phất! V́ nhân duyên đó nên phải biết các đức Như-Lai dùng sức phương tiện ở nơi một Phật-thừa phân biệt nói thành ba.

Đức Phật muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

Thí như ông Trưởng-giả

Có một căn nhà rất lớn

Nhà đó đă lâu cũ

Mà lại rất xấu xa,

Pḥng nhà vừa cao nguy

Gốc cột lại gẫy mục

Trính xiêng đều xiêu vẹo

Nền móng đă nát ră,

Vách phên đều sụp đổ

Đất bùn rơi rớt xuống,

Tranh lợp sa tán loạn

Kèo đ̣n tay rời khớp,

Bốn bề đều cong vạy

Khắp đầy những tạp nhơ,

Có đến năm trăm người

Ở đỗ nơi trong đó.

Chim xi, hiêu, điêu, thứu,

Qua, chim thước, cưu, cáp

Loài ngoan-xà, phúc-yết,

Giống ngô-công, do-diên,

Loài thủ-cung, bá-túc

Dứu-ly cùng hề-thử

Các giống độc trùng dữ

Ngang dọc xen ruỗi chạy,

Chỗ phẩn giải hôi thối.

Đồ bất tịnh chảy tràn

Các loài trùng khương lương

Bu nhóm ở trên đó,

Cáo, sói cùng dă-can

Liếm nhai và dày đạp

Cắn xé những thây chết

Xương thịt bừa băi ra,

Do đây mà bầy chó

Đua nhau đến ngoạm lấy,

Ốm đói và sợ sệt

Nơi nơi t́m món ăn

Giành giựt cấu xé nhau

Gầm gừ gào sủa rên,

Nhà đó sự đáng sợ

Những biến trạng dường ấy.

Khắp chỗ đều có những

Quỷ, lỵ, mị, vọng, lượng

Quỷ Dạ-xoa quỉ dữ

Nuốt ăn cả thịt người,

Các loài trùng độc dữ

Những cầm thú hung ác

Ấp, cho bú sản sanh

Đều tự giấu ǵn giữ

Quỷ Dạ-xoa đua đến

Giành bắt mà ăn đó,

Ăn đó no nê rồi

Ḷng hung dữ thêm hăng

Tiếng chúng đánh căi nhau

Thật rất đáng lo sợ.

Những quỉ Cưu-bàn-trà

Ngồi xổm trên đống đất

Hoặc có lúc hỏng đất

Một thước hay hai thước

Qua rồi lại, dạo đi

Buông lung chơi cùng giỡn

Nắm hai chân của chó

Đánh cho la thất thanh

Lấy chân đạp trên cổ

Khủng bố chó để vui.

Lại có các giống quỷ

Thân nó rất cao lớn

Trần truồng thân đen xấu

Thường ở luôn trong đó

Rền tiếng hung ác lớn

Kêu la t́m món ăn

Lại có các giống quỷ

Cổ nó nhỏ bằng kim,

Lại có các giống quỷ

Đầu nó như đầu trâu

Hoặc là ăn thịt người

Hoặc là ăn thịt chó,

Đầu tóc rối tung lên

Rất ác lại hung hiểm,

Bị đói khát bức ngặt

Kêu la vừa rong chạy

Dạ-xoa cùng quỷ đói

Các chim muông ác độc

Đói gấp rảo bốn bề

Ŕnh xem các cửa sổ

Các nạn dường thế đấy

Vô lượng việc ghê sợ (12)

Nhà cũ mục trên đó

Thuộc ở nơi một người

Người ấy vừa mới ra

Thời gian chưa bao lâu

Rồi sau nhà cửa đó

Bỗng nhiên lửa cháy đỏ

Đồng một lúc bốn bề

Ngọn lửa đều hừng hực,

Rường cột và trính xiêng

Tiếng tách nổ vang động

Nát gẫy rơi rớt xuống

Vách phên đều lở ngă,

Các loại quỷ thần thảy

Đồng cất tiếng kêu to,

Các giống chim điêu, thứu

Quỷ Cưu-bàn-trà thảy

Kinh sợ chạy sảng sốt

Vẫn không tự ra được,

Thú dữ loài trùng độc

Chui núp trong lỗ hang

Các quỷ Tỳ-xá-xà

Cũng ở trong hang đó

V́ phước đức kém vậy

Bị lửa đến đốt bức

Lại tàn hại lẫn nhau

Uống máu ăn thịt nhau.

Những loại thú dă-can

Thời đều đă chết trước

Các giống thú dữ lớn

Giành đua đến ăn nuốt.

Khói tanh bay phùn phụt

Phủ khắp bít bốn bề,

Loài ngô-công, do-diên

Cùng với rắn hung độc

Bị lửa ḷn đốt cháy

Tranh nhau chạy khỏi hang

Quỷ Bàn-trà ŕnh chờ

Liền bắt lấy mà ăn.

Lại có các ngă-quỷ

Trên đầu lửa rực cháy

Đói khát rất nóng khổ

Sảng sốt chạy quàng lên,

Nhà lửa đó dường ấy

Rất đáng nên ghê sợ

Độc hại cùng tai lửa

Các nạn chẳng phải một.

Lúc bấy giờ chủ nhà

Đứng ở nơi ngoài cửa

Nghe có người mách rằng:

Các người con của ông

Trước đây v́ dạo chơi

Mà đến vào nhà này

Thơ bé không hiểu biết

Chỉ vui ham ưa đắm.

Trưởng-giả vừa nghe xong

Kinh sợ vào nhà lửa

T́m phương nghi cứu tế

Cho con khỏi thiêu hại

Mà dụ bảo các con

Nói rơ các hoạn nạn:

Nào ác quỷ độc trùng

Hỏa tai lan tràn cháy

Các sự khổ thứ lớp

Nối luôn không hề dứt

Loài độc xà, ngươn phúc

Và các quỷ Dạ-xoa

Cùng quỷ Cưu-bàn-trà

Những dă-can, chồn, chó

Chim điêu, thứu xi, hiêu

Lại giống bá túc thảy

Đều đói khát khổ gấp

Rất đáng phải ghê sợ

Chỗ khổ nạn như thế

Huống lại là lửa lớn.

Các con nhỏ không hiểu

Dầu có nghe cha dạy

Cứ vẫn c̣n ham ưa

Vui chơi măi không thôi

Bấy giờ trưởng-giả kia

Mới bèn nghĩ thế này

Các con như thế đó

Làm ta thêm sầu năo

Nay trong nhà lửa này

Không một việc đáng vui

Mà các con ngây dại

Vẫn ham mê vui chơi

Chẳng chịu nghe lời ta

Toan sẽ bị lửa hại.

Ông bèn lại suy nghĩ

Nên bày các phương tiện

Bảo với các con rằng:

Cha có rất nhiều thứ

Các đồ chơi trân kỳ

Những xe báu tốt đẹp

Nào xe dê, xe hươu

Cùng với xe trâu lớn

Hiện để ở ngoài cửa

Các con mau ra đây

Cha chính v́ các con

Mà sắm những xe này

Tùy ư các con thích

Có thể để dạo chơi.

Các con nghe cha nói

Các thứ xe như vậy

Tức thời cùng giành đua

Rảo chạy ra khỏi nhà

Đến nơi khoảng đất trống

Rời những sự khổ nạn

Trưởng-giả thấy các con

Được ra khỏi nhà lửa

Ở nơi ngă tư đường

Đều ngồi ṭa sư-tử

Ông bèn tự mừng rằng

Ta nay rất mừng vui

Những đứa con ta đây

Đẻ nuôi rất khó lắm

Chúng nhỏ dại không hiểu

Mới lầm vào nhà hiểm

Có nhiều loài trùng độc

Quỷ, lỵ mị đáng sợ

Lửa lớn cháy hừng hực

Bốn phía đều phựt lên

Mà các trẻ con này

Lại ham ưa vui chơi

Nay ta đă cứu chúng

Khiến đều được thoát nạn

V́ thế các người ơi!

Ta nay rất vui mừng.

Khi ấy các người con

Biết cha đă ngồi an

Đều đến bên chỗ cha

Mà thưa cùng cha rằng:

Xin cha cho chúng con

Ba thứ xe báu lạ

Như vừa rồi cha hứa

Các con mau ra đây

Sẽ cho ba thứ xe

Tùy ư các con muốn

Bây giờ chính phải lúc

Xin cha thương cấp cho.

Trưởng-giả giàu có lớn

Kho đụn rất nhiều đầy

Vàng bạc cùng lưu ly

Xa-cừ ngọc mă-năo,

Dùng những món vật báu

Tạo thành các xe lớn

Chưng dọn trang nghiêm đẹp

Khắp ṿng có bao lơn

Bốn mặt đều treo linh

Dây vàng xen thắt tụi

Lưới mành kết trân châu

Giăng bày phủ phía trên

Hoa vàng các chuỗi ngọc

Ḷng tḥng rủ khắp chỗ

Các màu trang sức đẹp

Khắp ṿng xây quanh xe

Dùng nhiễu hàng mềm mại

Để làm nệm lót ngồi

Vải quí mịn rất tốt

Giá trị đến ngh́n muôn

Bóng láng trắng sạch sẽ

Dùng trải trùm trên nệm

Có trâu trắng to lớn

Mập khỏe nhiều sức mạnh

Thân h́nh rất tươi tốt

Để kéo xe báu đó

Đông những tôi và tớ

Mà chực hầu giữ ǵn

Đem xe đẹp như thế

Đồng ban cho các con

Các con lúc bấy giờ

Rất vui mừng hớn hở

Ngồi trên xe báu đó

Dạo đi khắp bốn phương

Vui chơi nhiều khoái lạc

Tự tại không ngăn ngại.

Bảo Xá-Lợi-Phất này

Đức Phật cũng như vậy

Tôn cả trong hàng Thánh

Cha lành của trong đời

Tất cả các chúng sanh

Đều là con của ta

Say mê theo thế lạc

Không có chút huệ tâm

Ba cơi hiểm không an

Dường như nhà lửa cháy

Các nạn khổ dẫy đầy

Rất đáng nên ghê sợ

Thường có những sanh, già

Bệnh, chết và rầu lo

Các thứ lửa như thế

Cháy hừng chẳng tắt dứt

Đức Như-Lai đă ĺa

Nhà lửa ba cơi đó

Vắng lặng ở thong thả

An ổn trong rừng nội

Hiện nay ba cơi này

Đều là của ta cả

Những chúng sanh trong đó

Cũng là con của ta

Mà nay trong ba cơi

Có nhiều thứ hoạn nạn

Chỉ riêng một ḿnh ta

Có thể cứu hộ chúng

Dầu lại đă dạy bảo

Mà vẫn không tin nhận

V́ nơi các dục nhiễm

Rất sanh ḷng tham mê

Bởi thế nên phương tiện

V́ chúng nói ba thừa

Khiến cho các chúng sanh

Rơ ba cơi là khổ

Mở bày cùng diễn nói

Những đạo pháp xuất thế,

Các người con đó thảy

Nếu nơi tâm quyết định

Đầy đủ ba món minh (13)

Và sáu món thần thông (14)

Có người được Duyên-Giác

Hoặc bất thối Bồ-Tát.

Xá-Lợi-Phất phải biết

Ta v́ các chúng sanh

Dùng món thí dụ này

Để nói một Phật-thừa

Các ông nếu có thể

Tin nhận lời nói đây

Tất cả người đều sẽ

Chứng thành quả Phật đạo

Phật thừa đây vi diệu

Rất thanh tịnh thứ nhất

Ở trong các thế giới

Không c̣n pháp nào trên

Của các Phật vui ưa,

Tất cả hàng chúng sanh

Đều phải nên khen ngợi

Và cúng dường lễ bái

Đủ vô lượng ngh́n ức

Các trí lực, giải thoát

Thiền định và trí huệ

Cùng pháp khác của Phật

Chứng được thừa như thế

Khắp cho các con thảy

Ngày đêm cùng kiếp số

Thường được ngồi dạo chơi

Cho các hàng Bồ-Tát

Cùng với chúng Thanh-văn

Nương nơi thừa báu này

Mà thẳng đến đạo tràng.

V́ bởi nhân duyên đó

T́m kỹ khắp mười phương

Lại không thừa nào khác

Trừ Phật dùng phương tiện

Bảo với Xá-Lợi-Phất!

Bọn ông các người thảy

Đều là con của ta

Ta thời là cha lành.

Các ông trải nhiều kiếp

Bị các sự khổ đốt

Ta đều đă cứu vớt

Cho ra khỏi ba cơi

Ta dầu ngày trước nói

Các ông được diệt độ

Nhưng chỉ hết sanh tử

Mà thật thời chẳng diệt

Nay việc nên phải làm

Chỉ có trí huệ Phật.

Nếu có Bồ-Tát nào

Ở trong hàng chúng này

Có thể một ḷng nghe

Pháp thật của các Phật,

Các đức Phật Thế-Tôn

Dầu dùng chước phương tiện

Mà chúng sanh được độ

Đều là Bồ-Tát cả

Nếu có người trí nhỏ

Quá mê nơi ái dục

Phật bèn v́ bọn này

Mà nói lư khổ-đế,

Chúng sanh nghe ḷng mừng

Được điều chưa từng có

Đức Phật nói khổ-đế,

Chơn thật không sai khác

Nếu lại có chúng sanh

Không rơ biết gốc khổ

Quá say nơi khổ nhân

Chẳng tạm rời bỏ được

Phật v́ hạng người này

Dùng phương tiện nói dạy

Nguyên nhân có các khổ

Tham dục là cội gốc

Nếu dứt được tham dục

Khổ không chỗ nương đỗ

Dứt hết hẳn các khổ

Gọi là đế thứ ba

V́ chứng diệt-đế vậy

Mà tu hành đạo-đế

Ĺa hết các khổ phược

Gọi đó là giải thoát

Người đó nơi pháp ǵ

Mà nói được giải thoát?

Chỉ xa rời hy vọng

Gọi đó là giải thoát

Kỳ thực chưa phải được

Giải thoát hẳn tất cả

Đức Phật nói người đó

Chưa phải thật diệt độ

V́ người đó chưa được

Đạo quả vô thượng vậy.

Ư của ta không muốn

Cho đó đến diệt độ,

Ta là đấng Pháp-vương

Tự tại nơi các Pháp

V́ an ổn chúng sanh

Nên hiện ra nơi đời.

Xá-Lợi-Phất phải biết

Pháp ấn của ta đây

V́ muốn làm lợi ích

Cho thế gian nên nói

Tại chỗ ông đi qua

Chớ có vọng tuyên truyền.

Nếu có người nghe đến

Tùy hỷ kính nhận lấy

Phải biết rằng người ấy

Là bậc bất-thối-chuyển

Nếu có người tin nhận

Kinh pháp vô thượng này.

Thời người đó đă từng

Thấy các Phật quá khứ

Cung kính và cúng dường

Cũng được nghe pháp này.

Nếu người nào có thể

Tin chịu lời ông nói

Thời chính là thấy Ta

Cũng là thấy nơi ông

Cùng các chúng Tỳ-kheo

Và các hàng Bồ-Tát.

Phật v́ người trí sâu

Nói kinh Pháp-Hoa này

Kẻ thức cạn nghe đến

Mê lầm không hiểu được.

Tất cả hàng Thanh-văn

Cùng với Bích-chi-Phật

Ở trong kinh pháp này

Sức kia không hiểu được.

Chính ông Xá-Lợi-Phất

Hăy c̣n nơi kinh này

Dùng ḷng tin được vào

Huống là Thanh-văn khác.

Bao nhiêu Thanh-văn khác

Do tin theo lời Phật

Mà tùy thuận kinh này

Chẳng phải trí của ḿnh.

Lại này Xá-Lợi-Phất!

Kẻ kiêu mạn biếng lười

Vọng so chấp lấy ngă

Chớ v́ nói kinh này,

Hạng phàm phu biết cạn

Quá mê năm món dục

Nghe pháp không hiểu được

Cũng chẳng nên v́ nói.

Nếu có người không tin

Khinh hủy chê kinh này

Thời là dứt tất cả

Giống Phật ở thế gian.

Nếu có người sịu mặt

Mà ôm ḷng nghi hoặc

Ông nên lóng nghe nói

Tội báo của người đó

Hoặc Phật c̣n tại thế

Hoặc sau khi diệt độ

Nếu có người chê bai

Kinh điển như thế này

Thấy có người đọc tụng

Biên chép thọ tŕ kinh

Rồi khinh tiện ghét ghen

Mà ôm ḷng kết hờn

Tội báo của người đó

Ông nay lại lóng nghe.

Người đó khi mạng chung

Sa vào ngục A-tỳ

Đầy đủ một kiếp chẵn

Kiếp măn hết lại sanh

Cứ xoay vần như thế

Nhẫn đến vô số kiếp.

Từ trong địa ngục ra

Sẽ đọa vào súc sanh,

Hoặc làm chó, dă-can

Thân thể nó ốm gầy

Đen điu thêm ghẻ lác

Bị người thường chọc ghẹo

Lại c̣n phải bị người

Gớm nhờm và ghét rẻ

Thường ngày đói khát khổ

Xương thịt đều khô khan,

Lúc sống chịu khổ sở

Chết bị ném ngói đá

V́ đoạn mất giống Phật

Nên thọ tội báo đó

Hoặc sanh làm lạc đà

Hoặc sanh vào loài lừa

Thân thường mang kéo nặng

Lại thêm bị đánh đập

Chỉ nhớ tưởng: nước, cỏ

Ngoài ra không biết ǵ

V́ khinh chê kinh này

Mà mắc tội như vậy

Có khi làm dă-can

Đi vào trong xóm làng

Thân thể đầy ghẻ lác

Lại chột hết một mắt

Bị bọn trẻ nhỏ vây

Theo đánh đập liệng ném

Chịu nhiều các đau khổ

Hoặc có lúc phải chết

Ở đây vừa chết rồi

Liền lại thọ thân rắn

Thân thể nó dài lớn

Đến năm trăm do tuần

Điếc ngây và không chân

Lăn lóc đi bằng bụng

Bị các loài trùng nhỏ

Cắn rúc ăn thịt máu

Bị khổ cả ngày đêm

Không tạm có ngừng nghỉ

V́ khinh chê kinh này

Mà mắc tội như vậy.

Nếu được sanh làm người

Các căn đều ám độn

Lùn xấu lại lệch què

Đui điếc thêm lưng gù

Có nói ra lời ǵ

Mọi người không tin nhận

Hơi miệng thường hôi thối

Bị quỷ mị dựa nhập

Nghèo cùng rất hèn hạ

Bị người sai khiến luôn,

Nhiều bệnh thân ốm gầy

Không có chỗ cậy nhờ

Dù nương gần với người

Mà người chẳng để ư

Nếu có được điều chi

Thời liền lại quên mất,

Nếu học qua nghề thuốc

Theo đúng phép trị bịnh

Mà bệnh người nặng thêm

Hoặc có khi đến chết,

Nếu tự ḿnh có bệnh

Không người chữa lành được

Dù có uống thuốc hay

Mà bệnh càng thêm nặng,

Hoặc người khác phản nghịch

Cướp giật trộm lấy của

Các tội dường thế đó

Lại tự mang vạ lây.

Những người tội như đây

Trọn không thấy được Phật

Là vua trong hàng Thánh

Thường nói pháp giáo hóa

Những người tội như đây

Thường sanh chỗ hoạn nạn

Tâm cuồng loạn, tai điếc

Trọn không nghe pháp được,

Trải qua vô số kiếp

Như số cát sông Hằng

Sanh ra liền điếc câm

Các căn chẳng đầy đủ

Thường ở trong địa ngục

Như dạo chơi vườn nhà,

Ở tại các đạo khác

Như ở nhà cửa ḿnh

Lạc đà, lừa, lợn, chó

Là chỗ kia thường đi

V́ khinh chê kinh này

Mắc tội dường thế đó.

Nếu được sanh làm người

Điếc, đui lại câm, ngọng

Nghèo cùng các tướng suy

Dùng đó tự trang nghiêm.

Sưng bủng bệnh khô khát

Ghẻ, lác, cùng ung thư

Các bệnh như trên đó

Dùng làm y phục mặc,

Thân thể thường hôi hám

Nhơ nhớp không hề sạch

Ḷng chấp ngă sâu chặt

Thêm nhiều tánh giận hờn

T́nh dâm dục hẫy hừng

Đến chẳng chừa cầm thú,

V́ khinh chê kinh này

Mắc tội dường thế đó.

Bảo cho Xá-Lợi-Phất!

Người khinh chê kinh này

Nếu kể nói tội kia

Cùng kiếp cũng chẳng hết

V́ bởi nhân duyên đó

Ta vẫn bảo các ông

Trong nhóm người vô trí

Chớ nên nói kinh này

Nếu có người lợi căn

Sức trí huệ sáng láng

Học rộng và nhớ dai

Ḷng mong cầu Phật đạo

Những hạng người như thế

Mới nên v́ đó nói

Nếu có người đă từng

Thấy trăm ngh́n ức Phật

Trồng các cội đức lành

Thâm tâm rất bền vững

Hạng người được như thế

Mới nên v́ đó nói.

Nếu có người tinh tấn

Thường tu tập ḷng từ

Chẳng hề tiếc thân mạng

Mới nên v́ đó nói

Nếu có người cung kính

Không có sanh ḷng khác

Ĺa xa các phàm phu

Ở riêng trong núi thẩm

Những hạng người như thế

Mới nên v́ đó nói

Lại Xá-Lợi-Phất này!

Nếu thấy có người nào

Rời bỏ ác tri-thức

Gần gũi bạn hiền lành

Người được như thế ấy

Mới nên v́ đó nói.

Nếu thấy hàng Phật tử

Giữ giới hạnh trong sạch

Như minh châu sáng sạch

Ham cầu kinh Đại thừa

Những người được như thế

Mới nên v́ đó nói.

Nếu người không ḷng giận

Chắc thật ư dịu ḥa

Thường thương xót mọi loài

Cung kính các đức Phật

Hạng người tốt như thế

Mới nên v́ đó nói.

Lại có hàng Phật tử

Ở tại trong đại chúng

Thuần dùng ḷng thanh tịnh

Các món nhân cùng duyên

Thí dụ và lời lẽ

Nói pháp không chướng ngại

Những người như thế ấy

Mới nên v́ đó nói

Nếu có vị Tỳ-kheo

V́ cầu nhứt-thiết-trí

Khắp bốn phương cầu pháp

Chắp tay cung kính thọ

Chỉ ưa muốn thọ tŕ

Kinh điển về Đại-thừa

Nhẫn đến không hề thọ

Một bài kệ kinh khác

Hạng người được như thế

Mới nên v́ đó nói.

Như có người chí tâm

Cầu xá-lợi của Phật

Cầu kinh cũng như thế

Được rồi đỉnh lễ thọï

Người đó chẳng c̣n lại

Có ḷng cầu kinh khác

Cũng chưa từng nghĩ tưởng

Đến sách vở ngoại đạo

Người được như thế ấy

Mới nên v́ đó nói.

Bảo cùng Xá-Lợi-Phất!

Ta nói các sự tướng

Của người cầu Phật đạo

Cùng kiếp cũng chẳng hết

Những người như thế đó

Thời có thể tin hiểu

Ông nên v́ họ nói

Kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa.

04 - PHẨM “TÍN GIẢI”

Lúc bấy giờ, các Ngài Tuệ-Mệnh Tu-Bồ-Đề, Đại Ca-Chiên-Diên, Đại Ca-Diếp, Đại Mục-Kiền-Liên, từ nơi Phật được nghe pháp chưa từng có. Đức Thế-Tôn dự ghi cho Ngài Xá-Lợi-Phất sẽ thành vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác, sanh ḷng hy hữu hớn hở vui mừng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy sửa y phục trịch bày vai hữu, gối hữu chấm đất, một ḷng chấp tay cúi ḿnh cung kính chiêm ngưỡng dung nhan Phật mà bạch cùng Phật rằng: "Chúng con ở đầu trong hàng Tăng, tuổi đều già lụn, tự cho đă được Niết-bàn không kham nhiệm ǵ nữa, chẳng c̣n thẳng cầu thêm đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác.

Đức Thế-Tôn thuở trước nói pháp đă lâu, lúc đó chúng con ngồi nơi ṭa thân thể mỏi mệt, chỉ nhớ nghĩ ba pháp: Không, vô tướng, vô tác, đối với các pháp du hư thần thông, tịnh cơi nước Phật, độ thoát chúng sanh của Bồ-Tát, ḷng chúng con không ưa thích.

V́ sao? Đức Thế-Tôn khiến chúng con ra khỏi ba cơi được chứng Niết-bàn, lại nay đây chúng con tuổi đă già nua ở nơi đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác của Phật dạy Bồ-Tát không hề sanh một niệm ưa thích. Chúng con hôm nay ở trước Phật nghe thọ kư cho Thanh-văn sẽ được vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác, ḷng rất vui mừng được pháp chưa từng có, chẳng ngờ hôm nay bỗng nhiên được pháp hy hữu, tự rất mừng may được lợi lành lớn, vô lượng trân báu chẳng t́m cầu mà tự được.

Thế-Tôn! chúng con hôm nay xin nói thí dụ để chỉ rơ nghĩa đó.

Thí như có người tuổi thơ bé, bỏ cha trốn đi qua ở lâu nơi nước khác, hoặc mười, hai mươi đến năm mươi năm; người đó tuổi đă lớn lại thêm nghèo cùng khốn khổ, dong ruổi bốn phương để cầu đồ mặc vật ăn, dạo đi lần lần t́nh cờ về bổn quốc.

Người cha từ trước đến nay, t́m con không được bèn ở lại tại một thành trong nước đó. Nhà ông giàu lớn của báu vô lượng, các kho đụn, vàng, bạc, lưu ly, san-hô, hổ-phách, pha lê, châu ngọc v.v... thảy đều đầy tràn; tôi tớ, thần tá, lại dân rất đông, voi, ngựa, xe cộ ḅ dê nhiều vô số. Cho vay thâu vào lời lăi khắp đến nước khác, khách thương buôn bán cũng rất đông nhiều.

Bấy giờ, gă nghèo kia dạo đến các tụ lạc, trải qua xóm làng, lần hồi đến nơi thành của người cha ở.

Người cha hằng nhớ con, cùng con biệt ly hơn năm mươi năm mà ông vẫn chưa từng đối với người nói việc như thế, chỉ tự suy nghĩ già nua và có nhiều của cải, vàng bạc, trân báu, kho đụn tràn đầy, không có con cái, một mai mà chết mất th́ của cải tản thất không người giao phó. Cho nên ân cần nhớ luôn đến con. Ông lại nghĩ: Nếu ta gặp được con ủy phó của cải, thản nhiên khoái lạc không c̣n sầu lo.

Thưa Thế-Tôn! Bấy giờ gă cùng tử làm thuê làm mướn lần hồi t́nh cờ đến nhà người cha bèn đứng lại bên cửa, xa thấy cha ngồi giường sư tử, ghế báu đỡ chân, các hàng Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, Cư-sĩ đều cung kính bao quanh. Trên thân ông đó dùng chuổi ngọc chân châu giá trị ngh́n vạn để trang nghiêm, kẻ lại dân tôi tớ tay cầm phất trần trắng đứng hầu hai bên. Màn báu che trên, những phan đẹp tḥng xuống, nước thơm rưới đất, rải các thứ danh hoa, các vật báu chưng bày, phát ra, thâu vào, lấy, cho v.v... có các sự nghiêm sức dường ấy, uy đức rất tôn trọng.

Gă cùng tử thấy cha có thế lực lớn liền sanh ḷng lo sợ, hối hận về việc đến nhà này, nó thầm nghĩ rằng: "Ông này chắc là vua, hoặc là bậc đồng vua, chẳng phải là chỗ của ta làm thuê mướn được tiền vật.

Chẳng bằng ta qua đến xóm nghèo có chỗ cho ta ra sức dễ được đồ mặc vật ăn, nếu như ta đứng lâu ở đây hoặc rồi họ sẽ bức ngặt ép sai ta làm". Gă nghĩ như thế rồi, liền chạy mau đi thẳng.

Khi đó, ông Trưởng-giả ngồi nơi ṭa sư tử thấy con bèn nhớ biết, ḷng rất vui mừng mà tự nghĩ rằng: “Của cải kho tàng của ta nay đă có người giao phó rồi, ta thường nghĩ nhớ đứa con này làm sao gặp được, nay bỗng nó tự đến rất vừa chỗ muốn của ta, ta dầu tuổi già có vẫn thương tiếc”. Ông liền sai người hầu cận đuổi gấp theo bắt lại.

Lúc ấy, kẻ sứ giả chạy mau qua bắt, gă cùng tử kinh ngạc lớn tiếng kêu oan: "Tôi không hề xúc phạm, cớ sao lại bị bắt?" Kẻ sứ giả bắt đó càng gấp cưỡng dắt đem về. Khi đó gă cùng tử tự nghĩ không tội chi mà bị bắt bớ đây chắc định phải chết, lại càng sợ sệt mê ngất ngă xuống đất.

Người cha xa thấy vậy bèn nói với kẻ sứ giả rằng: "Không cần người đó, chớ cưỡng đem đến, lấy nước lạnh rưới trên mặt cho nó tỉnh lại đừng nói chi với nó".

V́ sao? Cha biết con ḿnh chí ư hạ liệt, tự biết ḿnh giàu sang làm khiếp sợ cho con. Biết chắc là con rồi mà dùng phương tiện chẳng nói với người khác biết là con ḿnh. Kẻ sứ giả nói với cùng tử: "Nay ta thả ngươi đi đâu tùy ư".

Gă cùng tử vui mừng được điều chưa từng có, từ dưới đất đứng dậy, qua đến xóm nghèo để t́m cầu sự ăn mặc.

Bấy giờ ông Trưởng-giả toan muốn dụ dẫn người con mà bày chước phương tiện, mật sai hai người, h́nh sắc tiều tụy không có oai đức: “Hai người nên qua xóm kia từ từ nói với gă cùng tử, nơi đây có chỗ làm trả giá gấp bội. Gă cùng tử nếu chịu thời dắt về đây khiến làm. Nếu nó có hỏi muốn sai làm ǵ? Th́ nên nói với nó rằng: Thuê người hốt phân, chúng ta hai người cũng cùng ngươi chung nhau làm.” Khi đó hai người sứ liền t́m gă cùng tử, rồi thuật đủ việc như trên.

Bấy giờ gă cùng tử trước hỏi lấy giá cả liền đến hốt phân. Người cha thấy con, thương xót và quái lạ. Lại một ngày khác ông ở trong cửa sổ xa thấy con ốm o tiều tụy, phân đất bụi bặm dơ dáy không sạch. Ông liền cởi chuỗi ngọc, áo tốt mịn màng cùng đồ trang sức, lại mặc áo thô rách trỉn dơ, bụi đất lấm thân, tay mặt cầm đồ hốt phân, bộ dạng đáng nể sợ, bảo những người làm rằng: “Các ngươi phải siêng làm việc chớ nên lười nghỉ!” Dùng phương tiện đó được đến gần người con.

Lúc sau lại bảo con rằng: "Gă nam tử này! Ngươi thường làm ở đây đừng lại đi nơi khác, ta sẽ trả thêm giá cho ngươi; những đồ cần dùng như loại bồn, chậu, gạo, bột, muối, dấm, ngươi chớ tự nghi ngại. Cũng có kẻ tớ già hèn hạ, nếu cần ta cấp cho, nên phải an ḷng, ta như cha của ngươi chớ có sầu lo".

V́ sao? V́ ta tuổi tác già lớn mà ngươi th́ trẻ mạnh, ngươi thường trong lúc làm việc không ḷng dối khi trễ nải giận hờn nói lời thán oán, đều không thấy ngươi có các điều xấu đó như các người làm công khác. Từ ngày nay nhẫn sau như con đẻ của ta. Tức thời Trưởng-giả lại đặt tên cho cùng tử gọi đó là "con".

Khi đó gă cùng tử, dầu mừng việc t́nh cờ đó song vẫn c̣n tự cho ḿnh là khách, là người làm công hèn, v́ cớ đó mà trong hai mươi năm thường sai hốt phân, sau đó ḷng gă mới lần thể tin ra vào không ngại sợ, nhưng chỗ gă ở cũng vẫn nguyên chỗ cũ.

Thế-Tôn! Bấy giờ Trưởng-giả có bệnh, tự biết ḿnh không bao lâu sẽ chết mới bảo cùng tử rằng: "Ta nay rất nhiều vàng bạc, trân, báu, kho đụn tràn đầy, trong đó nhiều ít chỗ đáng xài dùng ngươi phải biết hết đó. Ḷng ta như thế, ngươi nên thể theo ư ta.

V́ sao? Nay ta cùng ngươi bèn là không khác, nên gắng dụng tâm chớ để sót mất". Khi ấy cùng tử liền nhận lời bảo lănh biết các của vật, vàng, bạc, trân, báu và các kho tàng, mà trọn không có ư mong lấy của đáng chừng bữa ăn, chỗ của gă ở vẫn tại chỗ cũ, tâm chí hạ liệt cũng chưa bỏ được.

Lại trải qua ít lâu sau, cha biết ư chí con lần đă thông thái trọn nên chí lớn, tự chê tâm ngày trước. Đến giờ sắp chết, ông gọi người con đến và hội cả thân tộc, quốc-vương, quan đại-thần, ḍng sát-lợi, hàng cư-sĩ, khi đă nhóm xong, ông liền tự tuyên rằng: "Các ngài nên rơ, người này là con ta, của ta sanh ra, ngày trước trong thành nọ, bỏ ta trốn đi, nổi trôi khổ sở, hơn năm mươi năm, nó vốn tên ấy, c̣n ta tên ấy. Xưa ta ở tại thành này ḷng lo lắng t́m kiếm, bỗng ở nơi đây gặp được nó. Nó thật là con ta, ta thật là cha nó. Nay ta có tất cả bao nhiêu của cải, đều là của con ta có, trước đây của cải cho ra thâu vào, con ta đây coi biết."

Thế-Tôn! Khi đó gả cùng tử nghe cha nói như thế, liền rất vui mừng được điều chưa từng có, mà nghĩ rằng: "Ta vốn không có ḷng mong cầu, nay kho tàng báu này tự nhiên mà đến".

Thế-Tôn ! Ông phú Trưởng-giả đó là đức Như-Lai, c̣n chúng con đều giống như con của Phật. Đức Như-Lai thường nói chúng con là con.

Thưa Thế-Tôn! Chúng con v́ ba món khổ (16) nên ở trong sanh tử chịu các sự đau đớn mê lầm không hiểu biết, ưa thích các pháp tiểu thừa. Ngày nay đức Thế-Tôn khiến chúng con suy nghĩ dọn trừ những phân dơ các pháp hư luận (17). Chúng con ở trong đó siêng gắng tinh tấn được đến Niết-bàn, cái giá một ngày. Đă được đây rồi ḷng rất vui mừng tự cho là đủ, mà tự nói rằng: Ở trong pháp của Phật; do siêng năng tinh tấn nên chỗ được rộng nhiều.

Nhưng đức Thế-Tôn trước biết chúng con ḷng ưa muốn sự hèn tệ, ham nơi pháp tiểu thừa, chúng con không bị Phật buông bỏ chẳng v́ phân biệt rằng: Các ông sẽ có phần bảo tàng tri kiến của Như-Lai.

Đức Thế-Tôn dùng sức phương tiện nói bày trí huệ của Như-Lai. Chúng con theo Phật được giá Niết-bàn một ngày, cho là nhiều rồi, đối với pháp Đại-thừa này không có chí cầu. Chúng con lại nhân trí huệ của Phật, v́ các vị Bồ-Tát mà chỉ bày diễn nói, nhưng chính tự ḿnh lại không có chí muốn nơi pháp đó.

V́ sao? Đức Phật biết chúng con ưa nơi pháp tiểu thừa, nên dùng sức phương tiện thuận theo chúng con mà nói pháp, chúng con không tự biết thật là Phật tử. Ngày nay chúng con mới biết đức Thế-Tôn ở nơi trí huệ của Phật không có lẫn tiếc.

V́ sao? Chúng con từ xưa đến nay thật là Phật tử mà chỉ ưa nơi pháp tiểu thừa, nếu chúng con có tâm ham Đại-thừa, thời Phật v́ chúng con mà nói pháp Đại-thừa. Ở trong kinh này chỉ nói pháp nhứt thừa. Lúc xưa đức Phật ở trước Bồ-Tát chê trách Thanh-văn ham pháp tiểu thừa.

Nhưng đức Phật thực dùng Đại-thừa để giáo hóa, v́ thế nên chúng con nói vốn không có ḷng mong cầu mà nay báu lớn của đấng Pháp-vương tự nhiên đến, như chỗ nên được của Phật tử đều đă được có.

Bấy giờ ngài Ma-ha Ca-Diếp muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

Chúng con ngày hôm nay

Nghe âm giáo của Phật

Ḷng hớn hở mừng rỡ

Được pháp chưa từng có.

Phật nói hàng Thanh-văn

Sẽ được thành quả Phật

Đống châu báu vô thượng

Chẳng cầu tự nhiên được.

Ví như gă đồng tử

Thơ bé không hiểu biết

Bỏ cha trốn chạy đi

Đến cơi nước xa khác

Nổi trôi khắp nước ngoài

Hơn năm mươi năm dài

Cha gă ḷng buồn nhớ

Kiếm t́m khắp bốn phương

Kiếm t́m đó đă mỏi

Liền ở lại một thành

Xây dựng nên nhà cửa

Năm món dục tự vui.

Nhà ông giàu có lớn

Nhiều những kho vàng, bạc

Xa-cừ, ngọc mă-năo

Trân châu, ngọc lưu ly

Voi ngựa cùng trâu dê

Kiệu, cán đủ xe cộ

Ruộng đất và tôi tớ

Nhân dân rất đông nhiều

Xuất nhập thâu lời lăi

Bèn khắp đến nước khác

Khách thương người buôn bán

Không xứ nào không có,

Ngh́n muôn ức chúng hội

Vây quanh cung kính ông,

Thường được bậc vua chúa

Mến yêu nhớ tưởng đến,

Các quan, hạng hào tộc

Đều cũng đồng tôn trọng

V́ có các sự duyên

Người tới lui rất đông,

Giàu mạnh như thế đó

Có thế lực rất lớn

Mà tuổi đă già nua

Lại càng buồn nhớ con

Ngày đêm luống suy nghĩ

Giờ chết toan sắp đến

Con thơ dại bỏ ta

Hơn năm mươi năm tṛn,

Các của vật kho tàng

Sẽ phải làm thế nào?

Bấy giờ gă cùng tử

Đi t́m cầu ăn mặc

Ấp này đến ấp khác

Nước này sang nước nọ,

Hoặc có khi được của

Hoặc có khi không được,

Đói thiếu h́nh gầy g̣

Thân thể sanh ghẻ lác.

Lần lựa đi trải qua

Đến thành cha gă ở

Xoay vần làm thuê mướn

Bèn đến trước nhà cha.

Lúc ấy ông Trưởng-giả

Đang ở trong nhà ông

Giăng màn châu báu lớn

Ngồi ṭa sư-tử cao

Hàng quyến thuộc vây quanh

Đông người đứng hầu hạ,

Hoặc có người tính toán

Vàng, bạc, cùng vật báu

Của cải ra hoặc vào

Biên chép ghi giấy tờ.

Gă cùng tử thấy cha

Quá mạnh giàu tôn nghiêm

Cho là vị quốc-vương

Hoặc là đồng bậc vua,

Kinh sợ tự trách thầm

Tại sao lại đến đây?

Lại thầm tự nghĩ rằng:

Nếu ta đứng đây lâu

Hoặc sẽ bị bức ngặt

Ép buộc sai khiến làm.

Suy nghĩ thế đó rồi

Rảo chạy mà đi thẳng

Hỏi thăm xóm nghèo nàn

Muốn qua làm thuê mướn.

Lúc bấy giờ Trưởng-giả

Ngồi trên ṭa sư-tử

Xa trông thấy con ḿnh

Thầm lặng mà ghi nhớ,

Ông liền bảo kẻ sứ

Đuổi theo bắt đem về.

Gă cùng tử sợ kêu

Mê ngất ngă trên đất

Người này theo bắt tôi

Chắc sẽ bị giết chết

Cần ǵ đồ ăn mặc

Khiến tôi đến thế này!

Trưởng-giả biết con ḿnh

Ngu dại ḷng hẹp hèn

Chẳng chịu tin lời ta

Chẳng tin ta là cha

Ông liền dùng phương tiện

Lại sai hai người khác

Mắt chột, thân lùn xấu

Hạng không có oai đức!

Các người nên bảo nó

Rằng ta sẽ thuê nó

Hốt dọn các phân nhơ

Trả giá bội cho nó.

Gă cùng tử nghe rồi

Vui mừng theo sứ về

V́ dọn các phân nhơ

Sạch sẽ các pḥng nhà

Trưởng-giả trong cửa sổ

Thường ngó thấy con ḿnh

Nghĩ con ḿnh ngu dại

Ưa thích làm việc hèn.

Lúc đó ông Trưởng-giả

Mặc y phục cũ rách

Tay cầm đồ hốt phân

Qua đến chỗ con làm

Phương tiện lần gần gũi

Bảo rằng: rán siêng làm!

Đă thêm giá cho ngươi

Và cho dầu thoa chân

Đồ ăn uống đầy đủ

Thêm đệm chiếu đầy ấm

Cặn kẽ nói thế này:

Ngươi nên siêng làm việc!

Rồi lại dịu dàng bảo

Như con thật của ta.

Ông Trưởng-giả có trí

Lần lần cho ra vào

Trải qua hai mươi năm

Coi sóc việc trong nhà,

Chỉ cho biết vàng, bạc,

Ngọc trân châu, pha-lê

Các vật ra hoặc vào

Đều khiến gă biết rơ.

Gă vẫn ở ngoài cửa

Nương náu nơi am tranh

Tự nghĩ phận nghèo nàn

Ta không có vật đó.

Cha biết ḷng con ḿnh

Lần lần đă rộng lớn

Muốn giao tài vật cho

Liền nhóm cả thân tộc

Quốc vương các đại thần

Hàng sát-lợi, cư-sĩ

Rồi ở trong chúng này

Tuyên nói chính con ta

Bỏ ta đi nước khác

Trải hơn năm mươi năm,

Từ gặp con đến nay

Đă hai mươi năm rồi

Ngày trước ở thành kia

Mà mất đứa con này

Ta đi t́m khắp nơi

Bèn đến ngụ nơi đây

Phàm của cải ta có

Nhà cửa cùng nhân dân

Thảy đều phó cho nó

Mặc t́nh nó tiêu dùng.

Người con nhớ xưa nghèo

Chí ư rất kém hèn

Nay ở nơi cha ḿnh

Được quá nhiều châu báu

Và cùng với nhà cửa

Gồm tất cả tài vật,

Ḷng rất đỗi vui mừng

Được điều chưa từng có.

Đức Phật cũng như thế

Biết con ưa tiểu thừa

Nên chưa từng nói rằng

Các ngươi sẽ thành Phật

Mà chỉ nói chúng con

Được có đức vô lậu

Trọn nên quả tiểu thừa

Hàng Thanh-văn đệ tử

Đức Phật bảo chúng con

Nói đạo pháp tối thượng

Người tu tập pháp này

Sẽ được thành Phật quả

Chúng con vâng lời Phật

V́ các Bồ-Tát lớn

Dùng các món nhân duyên

Cùng các món thí dụ

Bao nhiêu lời lẽ hay

Để nói đạo vô thượng.

Các hàng Phật tử thảy

Từ nơi con nghe pháp

Ngày đêm thường suy gẫm

Tinh tấn siêng tu tập.

Bấy giờ các đức Phật

Liền thọ kư cho kia:

Các ông ở đời sau

Sẽ được thành Phật đạo.

Pháp mầu rất bí tàng

Của tất cả các Phật

Chỉ để v́ Bồ-Tát

Mà dạy việc thật đó,

Nhưng chẳng v́ chúng con

Nói pháp chân yếu này

Như gă cùng tử kia

Được gần bên người cha

Dầu lănh biết các vật

Nhưng ḷng chẳng mong cầu,

Chúng con dầu diễn nói

Tạng pháp báu của Phật

Tự ḿnh không chí nguyện

Cũng lại như thế đó.

Chúng con diệt bề trong (18)

Tự cho là đă đủ

Chỉ xong được việc này

Lại không biết việc khác.

Chúng con dầu có nghe

Pháp tịnh cơi nước Phật

Cùng giáo hóa chúng sanh

Đều không ḷng ưa vui.

Như thế là v́ sao?

V́ tất cả các pháp

Thảy đều là không lặng

Không sanh cũng không diệt

Không lớn cũng không nhỏ

Vô lậu và vô vi,

Suy nghĩ thế đó rồi

Chẳng sanh ḷng ưa muốn.

Chúng con đă từ lâu

Đối với trí huệ Phật

Không tham không ưa thích

Lại không có chí nguyện,

Mà đối với pháp ḿnh

Cho đó là rốt ráo.

Chúng con từ lâu nay

Chuyên tu tập pháp không

Được thoát khỏi hoạn nạn

Khổ năo của ba cơi

Trụ trong thân rốt sau

Hữu dư y Niết-bàn (19)

Đức Phật dạy bảo ra

Chứng được đạo chẳng luống

Thời là đă có thể

Báo được ơn của Phật.

Chúng con dầu lại v́

Các hàng Phật tử thảy

Tuyên nói pháp Bồ-Tát

Để cầu chứng Phật đạo

Mà ḿnh đối pháp đó

Trọn không ḷng ham muốn

Đấng Đạo-Sư buông bỏ

V́ xem biết ḷng con

Ban đầu không khuyên gắng

Nói những lợi có thực

Như ông Trưởng-giả giàu

Biết con chí kém hèn

Bèn dùng sức phương tiện

Để ḥa phục tâm con

Vậy sau mới giao phó

Tất cả tài vật báu

Đức Phật cũng thế đó

Hiện ra việc ít có

Biết con ưa tiểu thừa

Bèn dùng sức phương tiện

Điều phục tâm của con

Rồi mới dạy trí lớn.

Chúng con ngày hôm nay

Được pháp chưa từng có

Chẳng phải chỗ trước mong

Mà nay tự nhiên được

Như gă cùng tử kia

Được vô lượng của báu

Thế-Tôn! Chúng con nay

Được đạo và chứng quả

Ở nơi pháp vô lậu

Được tuệ nhăn thanh tịnh

Chúng con từ lâu nay

Ǵn tịnh giới Phật chế

Mới ở ngày hôm nay

Được hưởng quả báo đó,

Trong pháp của Pháp-vương

Lâu tu-hành phạm hạnh

Ngày nay được vô lậu

Quả báo lớn vô thượng

Chúng con ngày hôm nay

Mới thật là Thanh-văn

Đem tiếng đạo của Phật

Cho tất cả đều nghe

Chúng con ngày hôm nay

Thật là A-la-hán

Ở nơi các thế gian

Trời, người và ma, phạm,

Khắp ở trong chúng đó

Đáng lănh của cúng dường

Ơn lớn của Thế-Tôn

Đem việc ít có này

Thương xót dạy bảo cho

Làm lợi ích chúng con

Trải vô lượng ức kiếp

Ai có thể đền được.

Tay lẫn chân cung cấp

Đầu đảnh lễ cung kính

Tất cả đều cúng dường

Đều không thể đền được.

Hoặc dùng đầu đội Phật

Hai vai cùng cơng vác

Trong kiếp số hằng sa

Tận tâm mà cung kính,

Lại đem dưng đồ ngon

Y phục báu vô lượng

Và các thứ đồ nằm

Cùng các món thuốc thang

Gỗ ngưu-đầu chiên-đàn

Và các vật trân báu

Để dựng xây tháp miếu

Y báu lót trên đất

Như các việc trên đây

Đem dùng cúng dường Phật

Trải kiếp số hằng sa

Cũng không đền đáp được.

Các Phật thật ít có

Đấng vô lượng vô biên

Đến bất-khả tư-ngh́

Đủ sức thần thông lớn,

Bậc vô lậu vô vi

Là vua của các Pháp

Hay v́ kẻ hạ liệt

Nhẫn việc cao thượng đó,

Hiện lấy tướng phàm phu

Tùy cơ nghi dạy nói

Các Phật ở nơi pháp

Được sức rất tự tại

Biết các hàng chúng sanh

Có những điều ưa muốn

Và chí lực của nó

Theo sức nó kham nhiệm

Dùng vô lượng thí dụ

Mà v́ chúng nói pháp

Tùy theo các chúng sanh

Trồng căn lành đời trước

Lại biết đă thành thục

Hay là chưa thành thục

Suy lường những điều đó

Phân biệt biết rơ rồi

Ở nơi đạo nhất thừa

Tùy cơ nghi nói ba.

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA

| ML | Q 01 | Q 02 | Q 03 | Q 04 | Q 05 | Q 06 | Q 07 |

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA

Hán Dịch: Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập

Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

QUYỂN 3

05 - PHẨM “DƯỢC THẢO DỤ”

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ngài Ma-ha Ca-Diếp và các vị đại đệ tử: "Hay thay! Hay thay! Ca-Diếp. Khéo nói được công đức chơn thật của đức Như-Lai. Đúng như lời các ông vừa nói; đức Như-Lai lại c̣n có vô lượng vô biên a-tăng-kỳ công đức, các ông dầu trải qua vô lượng ức kiếp nói cũng không hết được.

Ca-Diếp nên biết! Đức Như-Lai là vua của các pháp nếu có nói ra lời chi đều không hư dối vậy. Phật ở nơi tất cả pháp dùng sức trí huệ phương tiện mà diễn nói, pháp của Phật nói thảy đều đến bậïc nhứt-thiết-trí (1) . Đức Như-Lai xem biết chỗ quy thú (2) của tất cả pháp; cũng rơ biết chỗ tâm sở hành (3) của tất cả chúng sanh không thấu không ngại. Phật lại ở nơi các pháp rốt ráo rơ biết hết, chỉ bày tất cả trí huệ cho các chúng sanh.

Ca-Diếp! Thí như trong cơi tam-thiên đại-thiên nơi núi, sông, khe, hang, ruộng, đất sanh ra cây cối, lùm rừng và các cỏ thuốc, bao nhiêu giống loại tên gọi màu sắc đều khác. Mây dầy bủa giăng trùm khắp cơi tam-thiên đại-thiên (4) đồng thời mưa xối xuống, khắp nơi nhuần thấm, cây cối lùm rừng và các cỏ thuốc: hoặc thứ gốc nhỏ, thân nhỏ, nhánh nhỏ, lá nhỏ, hoặc thứ gốc chỉ vừa, thân vừa, nhánh vừa, lá vừa; hoặc có thứ gốc lớn, thân lớn, nhánh lớn, lá lớn.

Các giống cây lớn nhỏ, tùy hạng thượng trung hạ mà hấp thụ khác nhau. Một cụm mây tuôn mưa xuống xứng theo mỗi giống loại mà cây cỏ được sanh trưởng, đơm bông kết trái. Dầu rằng một cơi đất sanh, một trận mưa thấm nhuần mà các cỏ cây đều có sai khác.

Ca-Diếp nên biết! Đức Như-Lai cũng lại như thế, hiện ra nơi đời như là vừng mây lớn nổi lên, dùng giọng tiếng lớn vang khắp thế giới cả trời, người, A-tu-la, như mây lớn kia trùm khắp cơi nước tam-thiên đại-thiên. Phật ở trong đại chúng mà xướng lời nầy:

"Ta là đấng Như-Lai, Ứng-cúng, Chánh-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Điều-ngự trượng-phu, Thiên-Nhân-Sư, Phật Thế-Tôn. Người chưa được độ thời làm cho được độ, người chưa tỏ ngộ thời làm cho tỏ ngộ, người chưa an thời làm cho được an, người chưa chứng Niết-bàn thời làm cho chứng Niết-bàn, đời nay và đời sau Phật đều biết đúng như thật. Ta là bậc nhứt-thiết-trí, bậc nhứt-thiết-kiến, là bậc tri đạo, bậïc khai đạo, bậïc thuyết đạo. Các ngươi, hàng trời, người, A-tu-la đều nên đến đây v́ để nghe pháp vậy."

Bấy giờ có vô số ngh́n muôn ức loài chúng sanh đi đến chỗ, đức Như-Lai xem xét các căn lợi độn, tinh tấn hay giải đăi của chúng sanh đó, thuận vừa sức nó kham được mà v́ chúng nói pháp, chủng loại nhiều vô lượng, Phật đều khiến vui mừng được nhiều lợi lành. Các chúng sanh nầy nghe pháp rồi, hiện đời an ổn, đời sau sanh về chỗ lành, do đạo được thọ hưởng vui và cũng được nghe pháp, đă nghe pháp rồi ĺa khỏi các chướng ngại ở trong các pháp theo sức ḿnh kham được lần lần đều được vào đạo. Như mây lớn kia mưa rưới khắp tất cả cỏ cây lùm rừng và các cỏ thuốc, theo giống của mỗi thứ đều được đượm nhuần đầy đủ, đều được sanh trưởng. Đức Như-Lai nói pháp một tướng một vị, nghĩa là: Tướng giải thoát, tướng xa ĺa, tướng diệt, rốt ráo đến bậc "nhứt-thiết-chủng-trí". Có chúng sanh nào nghe pháp của Như-Lai hoặc thọ tŕ đọc tụng, đúng như lời mà tu hành, được công đức tự ḿnh không hay biết.

V́ sao? V́ chỉ có Như-Lai là biết chủng tướng thể tánh của chúng sanh đó: Nhớ việc ǵ? Nghĩ việc ǵ? Tu việc ǵ? Nhớ thế nào? Nghĩ thế nào? Tu thế nào?

Dùng pháp ǵ để nhớ? Dùng pháp ǵ để nghĩ? Dùng pháp ǵ để tu? Dùng pháp ǵ đặng pháp ǵ?

Chúng sanh ở nơi các bậïc, chỉ có đức Như-Lai thấy đó đúng như thật, rơ ràng không bị ngại. Như cây cối lùm rừng các cỏ thuốc kia không tự biết tánh thượng trung hạ của nó.

Đức Như-Lai biết pháp một tướng một vị ấy, nghĩa là: Tướng giải thoát, tướng xa ĺa, tướng diệt, tướng rốt ráo Niết-bàn thường tịch diệt, trọn về nơi không, Phật biết như thế rồi xem xét tâm ưa muốn của chúng sanh mà dắt d́u nó, cho nên chẳng liền v́ chúng vội nói “nhứt-thiết-chủng-trí.”

Ca-Diếp! Các ông rất là hy hữu, có thể biết rơ đức Như-Lai tùy cơ nghi nói pháp, hay tin hay nhận. V́ sao? V́ các đức Phật Thế-Tôn tùy cơ nghi nói pháp khó hiểu khó biết.

Khi đó đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

Pháp Vương phá các cơi

Hiện ra trong thế gian

Theo tánh của chúng sanh

Dùng các cách nói pháp

Đức Như-Lai tôn trọng

Trí huệ rất sâu xa

Lâu giữ pháp yếu này

Chẳng vội liền nói ra

Người trí nếu được nghe

Thời có thể tin hiểu,

Kẻ không trí nghi hối

Thời bèn là mất hẳn.

Ca-Diếp! V́ cớ đó

Theo sức chúng nói pháp

Dùng các món nhân duyên

Cho chúng được chánh kiến

Ca-Diếp! ông nên biết

Thí như vừng mây lớn

Nổi lên trong thế gian

Che trùm khắp tất cả

Mây trí huệ chứa nhuần

Chớp nhoáng sáng chói ḷa

Tiếng sấm xa vang động

Khiến mọi loài vui đẹp

Nhậït quang bị che khuất

Trên mặt đất mát mẻ

Mây mù sa bủa gần

Dường có thể nắm tới.

Trận mưa đó khắp cùng

Bốn phương đều xối xuống

Ḍng nước tuôn vô lượng

Cơi đất đều rút đầy

Nơi núi sông hang hiểm

Chỗ rậm rợp sanh ra

Những cây cối cỏ thuốc

Các thứ cây lớn nhỏ

Trăm giống lúa mộng mạ

Các thứ mía cùng nho

Nhờ nước mưa đượm nhuần

Thảy đều tươi tốt cả.

Đất khô khắp được rưới

Thuốc cây đều sum sê

Vừng mây kia mưa xuống

Nước mưa thuần một vị

Mà cỏ cây lùm rừng

Tất cả các giống cây

Hạng thượng trung cùng hạ

Xứng theo tánh lớn nhỏ

Đều được sanh trưởng cả.

Gốc thân nhánh và lá

Trổ bông trái sắc vàng

Một trận mưa rưới đến

Cây cỏ đều thấm mướt

Theo thể tướng của nó

Tánh loại chia lớn nhỏ

Nước đượm nhuần vẫn một

Mà đều được sum sê.

Đức Phật cũng như thế

Hiện ra nơi trong đời

Ví như vầng mây lớn

Che trùm khắp tất cả

Đă hiện ra trong đời

Bèn v́ các chúng sanh

Phân biệt diễn nói bày

Nghĩa thật của các pháp

Đấng Đại-Thánh Thế-Tôn

Ở trong hàng trời người

Nơi tất cả chúng hội

Mà tuyên nói lời nầy:

Ta là bậc Như-Lai

Là đấng Lưỡng-Túc-Tôn (5)

Hiện ra nơi trong đời

Dường như vầng mây lớn

Thấm nhuần khắp tất cả

Những chúng sanh khổ khó

Đều làm cho ĺa khổ

Được an ổn vui sướng

Hưởng sự vui thế gian

Cùng sự vui Niết-bàn.

Các chúng trời người nầy

Một ḷng khéo lóng nghe

Đều nên đến cả đây

Ra mắt đấng vô thượng.

Ta là đấng Thế-Tôn

Không có ai bằng được

Muốn an ổn chúng sanh

Nên hiện ra trong đời

V́ các đại chúng nói

Pháp cam lồ trong sạch

Pháp đó thuần một vị

Giải thoát Niết-bàn thôi.

Dùng một giọng tiếng mầu

Diễn xướng nghĩa nhiệm nầy

Đều thường v́ Đại-thừa

Mà kết làm nhân duyên.

Ta xem tất cả chúng

Khắp đều b́nh đẳng cả

Không có ḷng bỉ thử

Cũng không có hạn ngại

Hằng v́ tất cả chúng

Mà b́nh đẳng nói pháp

Như khi v́ một người

Lúc chúng đông cũng vậy.

Thường diễn nói pháp luôn

Từng không việc ǵ khác

Ngồi, đứng, hoặc đến, đi

Trọn không hề nhàm mỏi

Đầy đủ cho thế gian

Như mưa khắp thấm nhuần

Sang hèn cùng thượng hạ

Giữ giới hay phá giới

Oai nghi được đầy đủ

Và chẳng được đầy đủ

Người chánh-kiến tà-kiến

Kẻ độn căn lợi căn

Khắp rưới cho mưa pháp

Mà không chút nhàm mỏi.

Tất cả hàng chúng sanh

Được nghe pháp của ta

Tùy sức ḿnh lănh lấy

Trụ ở các nơi các bậïc

Hoặc là ở trời, người

Làm Chuyển-luân thánh-vương

Trời Thích, Phạm, các vua

Đó là cỏ thuốc nhỏ

Hoặc rơ pháp vô lậu

Hay chứng được Niết-bàn

Khởi sáu pháp thần thông

Và được ba món minh

Ở riêng trong núi rừng

Thường hành môn thiền định

Chứng được bậc Duyên-giác

Là cỏ thuốc bậc trung.

Hoặc cầu bực Thế-Tôn

Ta sẽ được thành Phật

Tu hành tinh tấn, định

Là cỏ thuốc bậc thượng

Lại có hàng Phật tử

Chuyên tâm nơi Phật đạo

Thường thật hành từ bi

Tự biết ḿnh làm Phật

Quyết định không c̣n nghi

Gọi đó là cây nhỏ.

Hoặc an trụ thần thông

Chuyển bất thối pháp luân

Độ vô lượng muôn ức

Trăm ngh́n loài chúng sanh

Bồ-Tát hạng như thế

Gọi đó là cây lớn.

Phật chỉ b́nh đẳng nói

Như nước mưa một vị

Theo căn tánh chúng sanh

Mà hưởng thọ không đồng

Như những cỏ cây kia

Được đượm nhuần đều khác

Phật dùng món dụ nầy

Để phương tiện chỉ bày

Các thứ lời lẽ hay

Đều diễn nói một pháp

Ở nơi trí huệ Phật

Như một giọt trong biển.

Ta rưới trận mưa pháp

Đầy đủ khắp thế gian

Pháp mầu thuần một vị

Tùy sức riêng tu hành,

Như thể lùm rừng kia

Và cỏ thuốc những cây

Tùy giống lớn hay nhỏ

Lần lần thêm sum suê

Pháp của các đức Phật

Thường dùng thuần một vị

Khiến cho các thế gian

Đều khắp được đầy đủ

Lần lựa siêng tu hành

Rồi đều được đạo quả.

Hàng Thanh-văn, Duyên-giác,

Ở nơi chốn núi rừng,

Trụ thân h́nh rốt sau

Nghe Phật Pháp được quả

Nếu các vị Bồ-Tát

Trí huệ rất vững bền

Rơ suốt cả ba cơi

Cầu được thừa tối thượng

Đó gọi là cây nhỏ

Mà được thêm lớn tốt.

Lại có vị trụ thiền

Được sức thần thông lớn

Nghe nói các pháp không

Ḷng rất sanh vui mừng

Phóng vô số hào quang

Độ các loài chúng sanh

Đó gọi là cây lớn

Mà được thêm lớn tốt

Như thế, Ca-Diếp này!

Đức Phật nói pháp ra

Thí như vầng mây lớn

Dùng nước mưa một vị

Đượm nhuần nơi hoa người

Đều được kết trái cả.

Ca-Diếp ông phải biết

Ta dùng các nhân duyên

Các món thí dụ thảy

Để chỉ bày đạo Phật

Đó là ta phương tiện

Các đức Phật cũng thế

Nay ta v́ các ông

Nói việc rất chân thật

Các chúng thuộc Thanh-văn

Đều chẳng phải diệt độ

Chỗ các ông tu hành

Là đạo của Bồ-Tát

Lần lần tu học xong

Thảy đều sẽ thành Phật.

06 - PHẨM “THỌ KƯ”

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói bài kệ đó rồi, bảo các đại chúng xướng lời thế nầy: "Ông Ma-Ha Ca-Diếp, đệ tử của Ta, ở đời vị lai sẽ phụng thờ ba trăm muôn ức các đức Thế Tôn, cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen, rộng nói vô lượng đại pháp của các đức Phật, ở nơi thân rốt sau được thành Phật hiệu là Quang-Minh Như-Lai, Ứng-cúng, Chánh-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Điều-ngự trượng-phu, Thiên-nhân-sư, Phật Thế-Tôn.

Nước tên là Quang Đức, kiếp tên là Đại-Trang-Nghiêm. Phật thọ mười hai tiểu kiếp. Chánh pháp trụ thế hai mươi tiểu kiếp. Cơi nước tốt đẹp, không có các thứ dơ xấu, ngói sỏi gai góc cùng đồ tiện lợi chẳng sạch. Cơi đó bằng thẳng không có cao thấp hầm hố g̣ nổng, đất bằng lưu ly, cây báu thẳng giăng bên đường, rải các hoa báu khắp nơi sạch sẽ.

Bồ-Tát trong nước đó đông vô lượng ngh́n ức, các chúng Thanh-văn cũng lại vô số. Không có việc ma, dầu là có ma và dân ma, nhưng đều hộ tŕ Phật Pháp".

Bấy giờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

Bảo các Tỳ-kheo rằng:

Ta dùng mắt của Phật

Thấy ông Ca-Diếp nầy

Ở nơi đời vị lai

Quá vô số kiếp sau

Sẽ được thành quả Phật,

Và ở đời vị lai

Cúng dường và kính thờ

Đủ ba trăm muôn ức

Các đức Phật Thế-Tôn.

V́ cầu trí huệ Phật

Mà tịnh tu phạm hạnh

Cúng dường đấng tối thượng

Nhị Túc-Tôn xong rồi

Tu tập trọn tất cả

Trí huệ bậc vô thượng

Ở nơi thân rốt sau

Được chứng thành làm Phật

Cơi đó rất thanh tịnh

Chất lưu ly làm đất

Nhiều thứ cây bằng báu

Thẳng hàng ở bên đường

Dây vàng giăng ngăn đường

Người ngó thấy vui mừng

Thường thoảng ra hương thơm

Rải rác thứ hoa đẹp

Các món báu kỳ diệu

Dùng để làm trang nghiêm

Cơi đó đất bằng thẳng

Không có những g̣ hầm.

Các hàng chúng Bồ-Tát

Đông không thể xưng kể

Tâm các vị ḥa dịu

Đều được thần thông lớn

Phụng tŕ các kinh điển

Đại thừa của các Phật.

Các hàng chúng Thanh-văn

Vô lậu thân rốt sau

Là con của Pháp-vương

Cũng chẳng thể kể hết

Nhẫn đến dùng thiên nhăn

Cũng chẳng thể đếm biết.

Phật đó sẽ sống lâu

Tuổi mười hai tiểu kiếp

Tượng pháp trụ ở đời

Cũng hai mươi tiểu kiếp

Đức Quang-Minh Thế-Tôn

Việc của ngài như thế.

Lúc bấy giờ, ngài đại Mục-Kiền-Liên, ngài Tu-Bồ-Đề, ngài đại Ca-Chiên-Diên v.v... thảy đều run sợ một ḷng chấp tay chiêm ngưỡng dung nhan của Phật, mắt không hề tạm rời, liền đồng tiếng nhau nói kệ rằng:

Thế-Tôn rất hùng mănh

Mà ban giọng tiếng Phật.

Nói rơ thâm tâm con

Được Phật thọ kư cho

Như dùng cam lộ rưới

Từ nóng được mát mẻ.

Như từ nước đói đến

Bỗng gặp cỗ tiệc vua

C̣n ôm ḷng nghi sợ

Chưa dám tự ăn liền

Nếu lại được vua bảo

Vậy sau mới dám ăn,

Chúng con cũng như vậy

Hằng nghĩ lỗi tiểu thừa

Chẳng biết làm thế nào

Được huệ vô thượng Phật,

Dầu nghe giọng tiếng Phật

Nói chúng con thành Phật

C̣n ôm ḷng lo sợ

Như chưa dám tự ăn

Nếu được Phật thọ kư

Mới là khoái an vui

Thế Tôn rất hùng mănh

Thường muốn an thế gian

Xin thọ kư chúng con

Như đói cần bảo ăn.

Lúc bấy giờ, Thế-Tôn biết tâm niệm của các vị đệ tử lớn bảo các thầy Tỳ-kheo rằng: “Ông Tu-Bồ-Đề đây đến đời vị lai phụng thờ ba trăm năm muôn ức na-do-tha (6) đức Phật, cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen, thường tu hạnh thanh tịnh, đủ đạo Bồ-Tát, ở thân rốt sau được thành Phật hiệu: Danh-tướng Như-Lai, Ứng-cúng, Chánh-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Điều-ngự-trượng-phu, Thiên-nhân-Sư, Phật Thế-Tôn.

Kiếp đó tên Hữu-Bảo, nước đó tên là Bảo-Sanh. Cơi đó bằng thẳng, đất bằng lưu ly, cây báu trang nghiêm, không có những g̣, hầm, cát, sỏi, gai chông cùng tiện lợi dơ dáy; hoa báu trải đất khắp nơi sạch sẽ, nhân dân cơi đó đều ở đài báu và lầu gác quí đẹp. Hàng đệ tử Thanh-văn đông vô lượng vô biên, tính kể cùng thí dụ đều không thể biết. Các chúng Bồ-Tát đông vô số ngh́n muôn ức na-do-tha.

Đức Phật thọ mười hai tiểu kiếp, chánh pháp trụ ở đời hai mươi tiểu kiếp, tượng pháp cũng trụ đời hai mươi tiểu kiếp, Đức Phật đó thường ở trên hư không v́ chúng nói pháp độ thoát đặng vô lượng Bồ-Tát cùng chúng Thanh-văn”.

Khi đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

Các chúng Tỳ-kheo nầy!

Nay ta bảo các ông

Đều nên phải một ḷng

Lóng nghe lời ta nói.

Đệ tử lớn của ta

Là ông Tu-Bồ-Đề

Rồi sẽ được làm Phật

Hiệu gọi là Danh-Tướng

Sẽ phải cúng vô số

Muôn ức các đức Phật

Theo hạnh của Phật làm

Lần lần đủ đạo lớn.

Thân rốt sau sẽ được

Ba mươi hai tướng tốt

Xinh lịch đẹp đẽ lắm

Dường như núi báu lớn

Trang nghiêm sạch thứ nhất

Chúng sanh nào được thấy

Không ai chẳng ưa mến

Phật ở trong cơi đó

Độ thoát vô lượng chúng.

Trong pháp hội của Phật

Các Bồ-Tát đông nhiều

Thảy đều bực lợi căn

Chuyển pháp luân bất thối.

Cơi nước đó thường dùng

Bồ-Tát để trang nghiêm

Các chúng Thanh-văn lớn

Chẳng có thể đếm kể

Đều được ba món minh

Đủ sáu thứ thần thông

Trụ tám pháp giải thoát

Có oai đức rất lớn.

Đức Phật đó nói pháp

Hiện ra vô lượng món

Pháp thần thông biến hóa

Chẳng thể nghĩ bàn được.

Các hàng trời, nhân dân

Số đông như hằng sa

Đều cùng nhau chấp tay

Lóng nghe lời Phật dạy.

Đức Phật đó sẽ thọ

Tuổi mười hai tiểu kiếp

Chánh pháp trụ lại đời

Đủ hai mươi tiểu kiếp

Tượng pháp trụ ở đời

Cũng hai mươi tiểu kiếp.

Lúc bấy giờ, đức Thế-Tôn lại bảo các chúng Tỳ-kheo: “Ta nay nói với các ông, ông đại Ca-Chiên-Diên này ở đời vị lai, dùng các đồ cúng mà cúng dường phụng thờ tám ngh́n ức Phật cung kính tôn trọng. Sau khi các đức Phật diệt độ, ông đều dựng tháp miếu cao một ngh́n do tuần, ngang rộng ngay bằng năm trăm do tuần, tháp miếu đó dùng bảy món báu vàng, bạc, lưu ly, xa-cừ, mă-năo, trân châu và mai khôi hợp lại thành, cúng dường tháp miếu bằng các thứ hoa, chuỗi ngọc, hương xoa, hương bột, hương đốt, lọng nhiễu, tràng phan....

Sau thời kỳ đó sẽ lại cúng dường hai mươi muôn ức Phật cũng như trước, cúng dường các đức Phật đó rồi, đủ đạo Bồ-Tát sẽ được làm Phật hiệu: Diêm-Phù-Na-Đề-Kim-Quang Như-Lai, Ứng-cúng, Chánh-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Điều-ngự trượng-phu, Thiên-nhân-sư, Phật Thế-Tôn.

Cơi đó bằng thẳng, đất bằng pha lê, cây báu trang nghiêm, vàng ṛng làm bằng dây để giăng bên đường, hoa đẹp trải đất khắp nơi sạch sẽ. Người được thấy đều vui mừng, không có bốn đường dữ: Địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sanh và A-tu-la. Các trời cùng người rất đông, các chúng Thanh-văn và Bồ-Tát vô lượng muôn ức trang nghiêm nước đó. Đức Phật đó thọ mười hai tiểu kiếp, chánh pháp trụ ở đời hai mươi tiểu kiếp, tượng pháp cũng trụ hai mươi tiểu kiếp”.

Lúc đó, Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

Các chúng Tỳ-kheo này!

Đều nên một ḷng nghe

Như lời của ta nói

Chơn thậät không khác lạ.

Ông Ca-Chiên-Diên này

Sau sẽ dùng các món

Đồ cúng dường tốt đẹp

Mà cúng dường các Phật

Các đức Phật diệt rồi

Dựng tháp bằng bảy báu

Cũng dùng hoa và hương

Để cúng dường xá-lợi.

Thân rốt sau của ông

Đặng trí huệ của Phật

Thành bậc Đẳng-chánh-giác

Cơi nước rất thanh tịnh

Độ thoát được vô lượng

Muôn ức hàng chúng sanh

Đều được mười phương khác

Thường đến kính cúng dường,

Ánh sáng của Phật đó

Không ai có thể hơn

Đức Phật đó hiệu là:

Diêm-Phù-Kim-Quang Phật

Bồ-Tát và Thanh-văn

Dứt tất cả hữu lậu

Đông vô lượng vô số

Trang nghiêm cơi nước đó.

Lúc bấy giờ, đức Thế-Tôn lại bảo trong đại chúng: “Ta nay nói với các ông, ông đại Mục-Kiền-Liên đây sẽ dùng các món đồ cúng, cúng dường tám ngh́n các đức Phật, cung kính tôn trọng. Sau khi các đức Phật diệt độ đều dựng tháp miếu cao, một ngh́n do tuần, ngang rộng thẳng bằng năm trăm do tuần, dùng bảy món báu: vàng bạc, mai khôi hợp lại thành. Đem các thứ hoa, chuỗi ngọc, hương xoa, hương bột, hương đốt, lọng nhiễu và tràng phan để cúng dường tháp.

Sau lúc ấy lại sẽ cúng dường, hai trăm muôn ức các đức Phật cũng như trước, rồi sẽ được thành Phật hiệu: Đa-Ma La-Bạt-Chiên-Đàn-Hương Như-Lai, Ứng-cúng, Chánh-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Điều-ngự-trượng-phu, Thiên-nhân-sư, Phật Thế-Tôn.

Kiếp đó tên là Hỷ-Măn, nước tên là Ư Lạc, cơi đó bằng thẳng, chất pha lê là đất, cây báu trang nghiêm, rải hoa trân châu khắp nơi sạch sẽ, người được thấy đều vui mừng. Các hàng trời người rất đông, Bồ-Tát và Thanh-văn số nhiều vô lượng, đức Phật đó thọ hai mươi bốn tiểu kiếp, tượng pháp cũng trụ bốn mươi hai tiểu kiếp”.

Khi đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

Đệ tử của ta đây

Là đại Mục-Kiền-Liên

Bỏ thân người nầy rồi

Sẽ được gặp tám ngh́n

Hai trăm muôn ức vị

Các đức Phật Thế-Tôn

Ông v́ cầu Phật đạo

Nên cúng dường cung kính

Ở nơi các đức Phật

Thường tu tŕ phạm hạnh

Ở trong vô lượng kiếp

Phụng tŕ pháp của Phật.

Các đức Phật diệt rồi

Xây tháp bằng bảy báu

Tháp vàng rất cao rộng

Dùng hoa hương kỹ nhạc

Để dùng dâng cúng dường

Tháp miếu các đức Phật.

Lần lần được đầy đủ

Đạo hạnh Bồ-Tát rồi

Ở nơi nước Ư-Lạc

Mà được thành quả Phật

Hiệu là Đa-Ma-La

Bạt-Chiên-Đàn-Hương-Phật.

Đức Phật đó thọ mạng

Hai mươi bốn tiểu kiếp

Thường v́ hàng trời người

Mà diễn nói đạo Phật

Chúng Thanh-văn vô lượng

Như số cát sông Hằng

Đủ ba minh, sáu thông

Đều có oai đức lớn.

Bồ-Tát đông vô số

Chí bền ḷng tinh tấn

Ở nơi trí huệ Phật

Đều không hề thối chuyển.

Sau khi Phật diệt độ

Chánh pháp sẽ trụ đời

Đủ bốn mươi tiểu kiếp

Tượng pháp cũng như thế.

Các đệ tử của ta

Bậc oai đức đầy đủ

Số đó năm trăm người

Ta đều sẽ thọ kư

Ở nơi đời vị lai

Đều được chứng thành Phật

Ta cùng với các ông

Đời trước kết nhân duyên

Ta nay sẽ thuật nói

Các ông khéo lóng nghe.

07 - PHẨM “HÓA THÀNH DỤ”

Đức Phật bảo các thầy Tỳ-kheo: "Thuở quá khứ vô lượng vô biên bất khả tư ngh́ a-tăng-kỳ kiếp đă qua, lúc bấy giờ có đức Phật hiệu Đại-Thông Trí-Thắng Như -Lai, Ứng-cúng, Chánh-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Điều-ngự -phu, Thiên-nhân-sư, Phật Thế-Tôn.

Nước đó tên là Hảo-Thành, kiếp tên Đại-Tướng. Các Tỳ-kheo! Từ khi đức Phật đó diệt độ nhẫn đến nay rất là lâu xa, thí như địa chủng trong cơi tam-thiên đại-thiên, giả sử có người đem mài làm mực rồi đi khỏi một ngh́n cơi nước ở phương đông bèn chấm một điểm chừng bằng bụi nhỏ, lại qua một ngh́n cơi nước nữa cũng chấm một điểm, cứ như thế lần lượt chấm hết mực mài bằng địa chủng ở trên. Ư các ông nghĩ sao? Các cơi nước đó hoặc thầy toán có thể biết được ngằn mé số đó chăng?"

- Thưa Thế-Tôn! Không thể biết !

- Các Tỳ-kheo! Những cơi nước của người đó đi qua hoặc có chấm mực hoặc không chấm mực đều nghiền nát cả ra làm bụi, một hột bụi là một kiếp, từ đức Phật đó diệt độ đến nay lại lâu hơn số đó vô lượng vô biên trăm ngh́n muôn ức a-tăng-kỳ kiếp. Ta dùng sức tri kiến của Như- Lai xem thuở lâu xa đó dường như hiện ngày nay.

Bấy giờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

Ta nhớ đời quá khứ

Vô lượng vô biên kiếp

Có Phật Lưỡng-Túc-Tôn

Hiệu Đại-Thông Trí-Thắng

Như người dùng sức mài

Cơi tam-thiên đại-thiên

Hết tất cả địa chủng

Thảy đều làm thành mực

Quá hơn ngh́n cơi nước

Bèn chấm mỗi điểm trần

Như thế lần lựa chấm

Hết các mực trần nầy.

Bao nhiêu cơi nước đó

Điểm cùng chẳng điểm thảy

Lại đều nghiền làm bụi

Một bụi làm một kiếp

Kiếp số lâu xa kia

Lại nhiều hơn số bụi

Phật đó diệt đến nay

Vô lượng kiếp như thế

Trí vô ngại của Phật

Biết Phật đó diệt độ

Và Thanh-văn Bồ-Tát

Như hiện nay thẩy diệt.

Các Tỳ-kheo nên biết.

Trí Phật tịnh vi diệu

Vô lậu và vô ngại

Suốt thấu vô lượng kiếp.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: "Đức Đại-Thông Trí-Thắng Phật thọ năm trăm bốn mươi vạn ức na-do-tha kiếp, đức Phật đó khi trước lúc ngồi đạo tràng phá ma rồi, sắp được đạo vô-thượng chánh-đẳng, chánh-giác mà Phật pháp chẳng hiện ra trước, như thế một tiểu kiếp cho đến mười tiểu kiếp, ngồi xếp bằng thân và tâm đều không động mà các Phật pháp c̣n chẳng hiện ra trước.

Thuở đó, các vị trời Đao-Lợi ở dưới cội cây Bồ-đề đă trước v́ đức Phật đó mà trải toà sư-tử cao một do tuần (7), Phật ngồi nơi ṭa nầy sẽ được đạo vô-thượng, chánh-đẳng, chánh-giác. Khi Phật vừa ngồi trên ṭa đó các trời Phạm-Thiên-Vương rưới những hoa trời khắp bốn mươi do tuần, gió thơm lâu lâu thổi đến, thổi dẹp hoa héo rồi rưới hoa mới măi như thế không ngớt măn mười tiểu kiếp để cúng dường đức Phật, nhẫn đến khi Phật diệt độ thường rưới hoa nầy. Các trời Tứ-thiên-vương v́ cúng dường Phật nên thường đánh trống trời. Ngoài ra các vị trời khác trỗi kỹ nhạc trời, măn mười tiểu kiếp đến khi Phật diệt độ cũng lại như thế.

Các Tỳ-kheo! Đức Đại-Thông Trí-Thắng Phật quá mười tiểu kiếp các Phật pháp hiện ra trước thành đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác.

Lúc Phật chưa xuất gia có mười sáu người con trai, người con cả tên Trí-Tích. Các người con đó đều có các món đồ chơi tốt đẹp báu lạ, nghe cha chứng đặng quả vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác đều bỏ đồ báu của ḿnh đi đến chỗ Phật. Các người mẹ khóc lóc theo đ&