VT0262-2
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
Hán Dịch: Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
MỤC LỤC
QUYỂN 1
01 - PHẨM "TỰA"
02 - PHẨM “PHƯƠNG TIỆN”
QUYỂN 2
03 - PHẨM “THÍ DỤ”
04 - PHẨM “TÍN GIẢI”
QUYỂN 3
05 - PHẨM “DƯỢC THẢO DỤ”
06 - PHẨM “THỌ KƯ”
07 - PHẨM “HÓA THÀNH DỤ”
QUYỂN 4
08 - PHẨM “NGŨ BÁ ĐỆ TỬ THỌ KƯ”
09 - PHẨM “THỌ HỌC VÔ HỌC NHƠN KỲ”
10 - PHẨM “PHÁP SƯ”
11 - PHẨM “HIỆN BẢO THÁP”
12 - PHẨM “ĐỀ BÀ ĐẠT ĐA”
13 - PHẨM “TR̀”
QUYỂN 5
14 - PHẨM “AN LẠC HẠNH”
15 - PHẨM “TÙNG ĐỊA DŨNG XUẤT”
16 - PHẨM “NHƯ LAI THỌ LƯỢNG”
17 - PHẨM “PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC”
QUYỂN 6
18 - PHẨM “TÙY HỶ CÔNG ĐỨC”
19 - PHẨM “PHÁP SƯ CÔNG ĐỨC”
20 - PHẨM “THƯỜNG BẤT KHINH BỒ TÁT”
21 - PHẨM “NHƯ LAI THẦN LỰC”
22 - PHẨM “CHÚC LỤY”
23 - PHẨM “DƯỢC VƯƠNG BỒ TÁT BỔN SỰ”
QUYỂN 7
24 - PHẨM “DIỆU ÂM BỒ TÁT”
25 - PHẨM “QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT PHỔ-MÔN”
26 - PHẨM “ĐÀ LA NI”
27 - PHẨM “DIỆU TRANG NGHIÊM VƯƠNG BỔN SỰ”
28 - PHẨM “PHỔ HIỀN BỒ TÁT KHUYẾN PHÁT”
| ML | Q 01 | Q 02 | Q 03 | Q 04 | Q 05 | Q 06 | Q 07 |
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
Hán Dịch: Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Quyển 1
01 - PHẨM "TỰA"
Tôi nghe như thế này: Một thuở nọ đức Phật (2) ở trong núi Kỳ-Xà Quật, nơi thành vương xá cùng chúng đại Tỳ-kheo một vạn hai ngàn người câu hội. Các vị đó đều là bậc A-La-Hán, các lậu (3) đă hết, không c̣n phiền năo, việc lợi ḿnh đă xong (4) dứt sự ràng buộc trong các cơi (5) tâm được tự tại. Tên của các vị đó là: A-Nhă Kiều-Trần-Như, Ma-Ha Ca-Diếp, Ưu-Lâu-Tần-Loa Ca-Diếp, Dà-Gia Ca-Diếp, Na-Đề Ca-Diếp, Xá-Lợi-Phất, Đại Mục-Kiền-Liên, Ma-Ha Ca-Chiên-Diên, A-Nậu-Lâu-Đà, Kiếp-Tân-Na, Kiều-Phạm Ba-Đề, Ly-Bà-Đa Tất-Lăng-Già-Bà-Ta-Bạc-Câu-La, Ma-Ha-Câu-Hy-La, Nan-Đà, Tôn-Đà-La Nan-Đà, Phú-Lâu-Na, Di-Đa-La-Ni-Tử, Tu-Bồ-Đề, A-Nan, La-Hầu-La v.v.. đó là những vị đại A-la-hán hàng tri thức của chúng.
Lại có bậc hữu-học và vô-học (6) hai ngàn người.
Bà Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-Xà-Ba-Đề cùng với quyến thuộc sáu ngàn người câu-hội. Mẹ của La-Hầu-La là bà Tỳ-kheo-ni Gia-Du-Đà-La cùng với quyến thuộc câu-hội.
Bậc đại Bồ-Tát tám muôn người đều không thối chuyển ở nơi đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác (7) , đều chứng được pháp Đà-la-ni (8) nhạo-thuyết biện tài (9) chuyển nói pháp luân bất thối chuyển, từng cúng dường vô lượng trăm ngh́n chư Phật, ở các nơi đức Phật trồng các cội công-đức. Thường được các Phật ngợi khen, dùng đức từ để tu thân, khéo chứng trí tuệ của Phật thông đạt đại-trí đến nơi bờ kia (10), danh đồn khắp vô lượng thế-giới có thể độ vô số trăm ngàn chúng sanh.
Tên của các vị đó là: Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát. Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, Đắc-Đại-Thế-Chí Bồ-Tát, Thường-Tinh-Tấn Bồ-Tát, Bất-Hưu Tức Bồ-Tát, Bửu-Chưởng Bồ-Tát, Dược-Vương Bồ-Tát, Dơng-thí Bồ-Tát, Bửu-Nguyệt Bồ-Tát, Nguyệt-Quang Bồ-Tát, Măn-Nguyệt Bồ-Tát, Đại-Lực Bồ-Tát, Vô-Lượng-Lực Bồ-Tát, Việt-Tam-Giới Bồ-Tát, Bạt-Đà Bà-La Bồ-Tát, Di-Lặc Bồ-Tát, Bửu-Tích Bồ-Tát, Đạo-Sư Bồ-Tát v.v... các vị đại Bồ-Tát như thế tám vạn người câu hội.
Lúc bấy giờ, Thích-Đề Hoàn-Nhơn (11) cùng quyến thuộc hai vạn vị thiên-tử câu hội. Lại có Minh-Nguyệt thiên tử, Phổ-Hương thiên tử, Bửu-Quang thiên-tử, bốn vị đại Thiên-Vương cùng với quyến-thuộc một vạn thiên-tử câu hội.
Tự-Tại thiên-tử, Đại-Tự-Tại thiên-tử cùng với quyến thuộc ba vạn thiên-tử câu hội.
Chủ cơi Ta-Bà: Phạm-Thiên-Vương, Thi-Khí-Đại-Phạm, Quang-Minh Đại-Phạm v.v... cùng với quyến thuộc một vạn hai ngàn vị thiên-tử câu hội.
Có tám vị Long-vương: Nan-Đà Long-vương, Bạt-Nan-Đà Long-vương, Sa-Dà-La Long-vương, Ḥa-Tu-Cát Long-vương, Đức-Xoa-Ca Long-vương, A Na-Bà-Đạt-Đa Long-vương, Ma-Na-Tư Long-vương, Ưu-Bát-La Long-vương v.v... đều cùng bao nhiêu trăm ngh́n quyến thuộc câu hội.
Có bốn vị Khẩn-Na-La vương, Pháp-Khẩn-Na-La vương, Diệu-Pháp Khẩn-Na-La vương, Đại-Pháp Khẩn-Na-La vương, Tŕ-Pháp Khẩn-Na-La vương đều cùng bao nhiêu trăm ngàn quyến-thuộc câu hội.
Có bốn vị Càn-Thát-Bà vương: Nhạc-Càn-Thát-Bà vương, Nhạc-Âm-Càn-Thát-Bà vương, Mỹ Càn-Thát-Bà vương, Mỹ-Âm Càn-Thát-Bà vương, đều cùng bao nhiêu trăm ngàn quyến-thuộc câu hội.
Có bốn vị A-Tu-La vương: Bà-Trĩ A-Tu-La vương, Dà-La-Khiên-Đà A-Tu-La vương, Tỳ-Ma-Chất-Đa-La A-Tu-La vương, La-Hầu A-Tu-La vương, đều cùng bao nhiêu trăm ngàn quyến-thuộc câu hội.
Có bốn vị Ca-Lâu-La vương: Đại-Oai-Đức Ca-Lâu-La vương, Đại-Thân Ca-Lâu-La vương, Đại-Măn Ca-Lâu-La vương, Như-Ư Ca-Lâu-La vương, đều cùng bao nhiêu quyến thuộc câu hội.
Vua A-Xà-Thế, con bà Vi-Đề-Hi, cùng bao nhiêu trăm ngàn quyến thuộc câu hội.
Cả chúng đều lễ chân Phật, lui ngồi một phía.
Lúc bấy giờ, đức Thế-Tôn được hàng tứ chúng vây quanh cúng-dường cung kính ngợi khen tôn trọng, v́ các vị Bồ-Tát mà nói kinh Đại-thừa tên là: "Vô-Lượng-Nghĩa", là pháp giáo hóa Bồ-Tát được chư Phật hộ-niệm. Nói kinh này xong, đức Phật ngồi xếp bằng nhập vào chánh định "Vô-Lượng Nghĩa-Xứ", thân và tâm của Phật đều không lay động.
Khi đó trời mưa hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha Mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa Ma-ha Mạn-thù-sa, để rải trên đức Phật cùng hàng đại chúng; khắp cơi Phật sáu điệu vang động (12) .
Lúc bấy giờ, trong chúng hội các hàng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ, Trời, Rồng, Dạ-Xoa, Càn-thát-bà (13) , A-tu-la (14) , Ca-lâu-la (15) , Khẩn-na-la (16) , Ma-hầu-la-dà (17) , nhơn, phi-nhơn và các vị tiểu-vương cùng Chuyển-luân-thánh-vương, các đại chúng ấy đều được thấy việc chưa từng có, vui mừng chắp tay một ḷng nh́n Phật.
Bấy giờ, đức Phật từ nơi tướng lông trắng giữa chặn mày phóng ra luồng hào-quang chiếu khắp cả một muôn tám ngh́n cơi ở phương Đông, dưới thời chiếu đến địa ngục A-Tỳ, trên suốt thấu trời Sắc-cứu-cánh. Chúng ở cơi này đều thấy cả sáu loài chúng-sanh (18) ở các cơi kia.
Lại thấy các đức Phật hiện tại nơi các cơi kia và nghe kinh pháp của các đức Phật ấy nói. Cùng thấy nơi các cơi kia, các hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ, những người tu hành đắc đạo.
Lại thấy các vị đại Bồ-Tát dùng các món nhân duyên, các ḷng tín giải, các loại tướng mạo mà tu hành đạo Bồ-Tát. Lại thấy các đức Phật nhập Niết-bàn, lại thấy sau khi các đức Phật nhập Niết-bàn, đem xá-lợi của Phật mà dựng tháp bằng bảy báu.
Khi ấy, ngài Di-Lặc Bồ-Tát nghĩ rằng: "Hôm nay đức Thế-Tôn hiện thần biến tướng, v́ nhân duyên ǵ mà có điềm lành này.
Nay đức Phật đương nhập chánh định, việc biến hiện hi hữu không thể nghĩ bàn này nên hỏi ai, ai đáp được?"
Ngài lại nghĩ: "Ông Pháp-Vương-tử (19) Văn-Thù Sư-Lợi này đă từng gần gũi cúng dường vô lượng các đức Phật đời quá khứ chắc đă thấy tướng hi hữu này, ta nay nên hỏi ông".
Lúc đó, hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ (20) và các trời, rồng, quỉ, thần v.v.. đều nghĩ rằng: "Tướng thần thông sáng chói của đức Phật hiện đây, nay nên hỏi ai?"
Bấy giờ, ngài Di-Lặc Bồ-Tát muốn giải quyết chỗ nghi của ḿnh, ngài lại xét tâm niệm của bốn-chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ và của cả chúng hội trời, rồng, quỉ, thần v.v.. mà hỏi Văn-Thù Sư-Lợi rằng: “V́ nhân duyên ǵ mà có tướng lành thần thông này, Phật phóng ánh sáng lớn soi khắp một muôn tám ngh́n cơi ở phương Đông, đều thấy cơi nước trang nghiêm của các đức Phật?”
Khi đó, ngài Di-Lặc muốn nói lại nghĩa trên, dùng kệ hỏi rằng:
Ngài Văn-Thù Sư-Lợi!
Đức Đạo-Sư cớ chi
Lông trắng giữa chặn mày
Phóng ánh sáng khắp soi?
Trời mưa hoa Mạn-đà
Cùng hoa Mạn-thù-Sa,
Gió thơm mùi chiên đàn
Vui đẹp ḷng đại chúng
V́ nhân duyên như vậy
Cơi đất đều nghiêm tịnh
Mà trong thế giới này
Sáu điệu vang động lên
Bấy giờ bốn bộ chúng
Thảy đều rất vui mừng
Thân cùng ư thơ thới
Được việc chưa từng có.
Ánh sáng giữa chặn mày
Soi suốt thẳng phương Đông
Một muôn tám ngh́n cơi
Đều ánh như sắc vàng.
Từ địa ngục A-tỳ
Trên đến trời Hữu-Đảnh
Trong các thế giới đó
Cả sáu đạo chúng sanh
Sống chết của kia đến
Nghiệp duyên lành cùng dữ
Thọ báo có tốt xấu
Tại đây đều thấy rơ.
Lại thấy các đức Phật
Đấng Thánh-Chúa sư-tử
Diễn nói các kinh điển
Nhiệm mầu bậc thứ nhất.
Tiếng của Ngài thanh-tịnh
Giọng nói ra êm dịu
Dạy bảo các Bồ-Tát
Vô-số ức muôn người
Tiếng Phạm-âm thâm diệu
Khiến người đều ưa nghe.
Các Phật ở cơi ḿnh
Mà giảng nói chánh pháp
Dùng nhiều món nhân duyên
Cùng vô lượng tỉ dụ
Để soi rơ Phật Pháp
Mà khai ngộ chúng sanh.
Nếu có người bị khổ
Nhàm ĺa già, bệnh, chết,
Phật v́ nói Niết-bàn
Để dứt các ngằn khổ
Nếu là người có phước
Đă từng cúng dường Phật
Chí cầu pháp thù thắng
V́ nói hạnh Duyên-giác
Nếu lại có Phật tử
Tu-tập các công hạnh
Để cầu tuệ vô thượng
Phật v́ nói tịnh đạo.
Ngài Văn-Thù Sư-Lợi!
Tôi ở tại nơi đây
Thấy nghe dường ấy đó
Và ngh́n ức việc khác
Thấy rất nhiều như thế
Nay sẽ lược nói ra:
Tôi thấy ở cơi kia
Có hằng sa Bồ-Tát
Dùng các món nhân duyên
Mà cầu chứng Phật đạo.
Hoặc có vị bố-thí
Vàng, bạc, ngọc, san-hô,
Chơn châu, ngọc như-ư,
Ngọc xa-cừ mă-năo,
Kim-cương các trân-bửu
Cùng tôi tớ, xe cộ
Kiệu, cán chưng châu báu
Vui vẻ đem bố thí
Hồi hướng về Phật đạo
Nguyện được chứng thừa ấy
Bậïc nhất của ba cơi
Các Phật hằng khen ngợi.
Hoặc có vị Bồ-Tát
Xe tứ mă xe báu
Bao lơn che tàn đẹp
Trau tria dùng bố thí.
Lại thấy có Bồ-Tát
Bố thí cả vợ con
Thân thịt cùng tay chân
Để cầu vô thượng đạo.
Lại thấy có Bồ-Tát
Đầu, mắt và thân thể
Đều ưa vui thí cho
Để cầu trí tuệ Phật
Ngài Văn-Thù Sư Lợi!
Ta thấy các Quốc-vương
Qua đến chỗ của Phật
Thưa hỏi đạo vô thượng
Bèn bỏ nước vui vẻ
Cung điện cả thần thiếp
Cạo sạch râu lẫn tóc
Mà mặc y pháp phục.
Hoặc lại thấy Bồ-Tát
Mà hiện làm Tỳ-kheo
Một ḿnh ở vắng vẻ
Ưa vui tụng kinh điển
Cũng thấy có Bồ-Tát
Dơng mănh và tinh tấn
Vào ở nơi thâm sơn
Suy xét mối Phật đạo
Và thấy bậc ly dục
Thường ở chỗ không nhàn
Sâu tu các thiền định
Được năm món thần thông
Và thấy vị Bồ-Tát
Chắp tay trụ thiền định
Dùng ngàn muôn bài kệ
Khen ngợi các Pháp-vương
Lại thấy có Bồ-Tát
Trí sâu chí bền chắc
Hay hỏi các đức Phật
Nghe rồi đều thọï tŕ.
Lại thấy hàng Phật tử
Định huệ trọn đầy đủ
Dùng vô lượng tỉ dụ
V́ chúng mà giảng pháp
Vui ưa nói các pháp
Dạy bảo các Bồ-Tát
Phá dẹp chúng binh ma
Mà đánh rền trống pháp
Cùng thấy vị Bồ-Tát
Vắng bặt yên lặng ngồi
Trời, rồng đều cung-kính
Chẳng lấy đó làm mừng,
Và thấy có Bồ-Tát
Ở rừng phóng hào quang
Cứu khổ chốn địa ngục
Khiến đều vào Phật đạo.
Lại thấy hàng Phật tử
Chưa từng có ngủ nghỉ
Kinh hành ở trong rừng
Siêng năng cầu Phật đạo
Cũng thấy đủ giới đức
Uy nghi không thiếu sót
Ḷng sạch như bảo châu
Để cầu chứng Phật đạo.
Và thấy hàng Phật tử
Trụ vào sức nhẫn nhục
Bị kẻ tăng-thượng-mạn
Mắng rủa cùng đánh đập
Thảy đều hay nhẫn được
Để cầu chứng Phật đạo
Lại thấy có Bồ-Tát
Xa rời sự chơi cười
Và quyến thuộc ngu si
Ưa gần gũi người trí
Chuyên tâm trừ loạn động
Nhiếp niệm ở núi rừng
Trải ức ngh́n muôn năm
Để cầu được Phật đạo.
Lại thấy vị Bồ-Tát
Đồ ăn uống ngọt ngon
Cùng trăm món thuốc thang
Đem cúng Phật và Tăng,
Áo tốt đồ thượng phục
Giá đáng đến ngh́n muôn
Hoặc là vô giá y
Dùng ngh́n muôn ức thứ
Nhà báu bằng Chiên đàn
Các giường nằm tốt đẹp
Để cúng Phật cùng Tăng
Rừng vườn rất thanh tịnh
Bông trái đều sum sê
Suối chảy cùng ao tắm
Cúng cho Phật và Tăng,
Cúng thí như thế đó
Các đồ cúng tốt đẹp
Vui vẻ không hề nhàm
Để cầu đạo vô thượng.
Lại có vị Bồ-Tát
Giảng nói pháp tịch diệt
Dùng các lời dạy dỗ
Dạy vô số chúng sanh
Hoặc thấy vị Bồ-Tát
Quán sát các pháp tịnh
Đều không có hai tướng
Cũng như khoảng hư không
Lại thấy hàng Phật tử
Tâm không chỗ mê đắm
Dùng món diệu huệ này
Mà cầu đạo vô thượng.
Ngài Văn-Thù Sư-Lợi!
Lại có vị Bồ-Tát
Sau khi Phật diệt độ
Cúng dường Xá-Lợi-Phật.
Lại thấy hàng Phật tử
Xây dựng các tháp miếu
Nhiều vô số hằng sa
Nghiêm sức khắp cơi nước.
Bảo tháp rất cao đẹp
Đều năm ngh́n do tuần.
Bề ngang rộng xứng nhau
Đều hai ngh́n do tuần.
Trong mỗi mỗi tháp miếu
Đều có ngàn tràng phan
Màn châu xen thả xuống
Tiếng linh báu ḥa reo
Các vị trời, rồng, thần,
Người cùng với phi nhơn
Hương, hoa, cùng kỹ nhạc
Thường đem đến cúng dường
Ngài Văn-Thù Sư-Lợi!
Các hàng Phật tử kia
V́ cúng dường xá-lợi
Nên trang sức tháp miếu,
Cơi quốc giới tự nhiên
Thù đặc rất tốt đẹp
Như cây Thiên-thụ-vương
Hoa kia đang x̣e nở
Phật phóng một luồng sáng
Ta cùng cả chúng hội
Thấy nơi cơi nước này
Các thứ rất tốt đẹp
Thần lực của chư Phật
Trí huệ đều hi hữu
Phóng một luồng tịnh-quang
Soi khắp vô lượng cơi
Chúng ta thấy việc này
Được điều chưa từng có.
Xin Phật tử Văn-Thù
Giải quyết ḷng chúng nghi
Bốn chúng đều mong ngóng
Nh́n ngài và nh́n ta
Đức Thế-Tôn cớ chi
Phóng ánh quang minh này?
Phật tử phải thời đáp
Quyết nghi cho chúng mừng
Có những lợi ích ǵ
Đức Phật phóng quang này?
Khi Phật ngồi đạo tràng
Chứng được pháp thâm diệu
V́ muốn nói Pháp đó
Hay là sẽ thọ kư?
Hiện bày các cơi Phật
Các báu sạch trang nghiêm
Cùng thấy các đức Phật
Đây không phải cớ nhỏ
Ngài Văn-Thù nên biết
Bốn chúng và Long, Thần
Nh́n xem xét ngài đó
Mong sẽ nói những ǵ?
Lúc bấy giờ, ngài Văn-Thù Sư-Lợi nói với ngài Di-Lặc Đại Bồ-Tát cùng các vị Đại-sĩ: "Các Thiện-nam-tử! Như chỗ tôi xét nghĩ th́ nay đức Phật Thế-Tôn muốn nói pháp lớn, mưa pháp vũ lớn, thổi pháp loa lớn, đánh pháp cổ lớn và diễn pháp nghĩa lớn.
Các thiện-nam-tử! Ta từng ở nơi các đức Phật đời quá khứ thấy điềm lành này, Phật kia phóng hào quang đó rồi liền nói pháp lớn. Cho nên chắc biết rằng hôm nay đức Phật hiện hào quang cũng lại như vậy. Phật v́ muốn cho chúng sanh đều được nghe biết pháp mầu mà tất cả trong đời khó tin theo, cho nên hiện điềm lành này.
Các thiện-nam-tử! Như vô lượng vô biên a-tăng-kỳ (21) kiếp về trước. Bấy giờ có đức Phật hiệu Nhật-Nguyệt Đăng-Minh Như-Lai, Ứng-cúng, Chính-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Điều-ngự Trượng-phu, Thiên-Nhân-Sư, Phật Thế-Tôn, diễn nói chánh pháp. Ban đầu, giữa, rốt sau ba chặng đều lành, nghĩa lư rất sâu xa, lời lẽ khéo mầu, thuần một không tạp, đầy đủ cả tướng phạm hạnh thanh bạch.
Phật v́ người cầu đạo Thanh-văn, nói pháp Tứ-đế (22) thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, cứu cánh Niết-bàn. V́ hạng cầu quả Duyên-giác, nói pháp Mười-hai-nhân-duyên (23), v́ hàng Bồ-Tát nói sáu pháp Ba-la-mật (24) làm cho chứng được quả vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác thành bậc nhứt- thiết chủng-trí. (25)
Kế lại có đức Phật cũng hiệu Nhật-Nguyệt Đăng-Minh, lại có đức Phật cũng hiệu Nhật-Nguyệt Đăng-Minh. Như thế đến hai muôn đức Phật đều đồng một tên, hiệu Nhật-Nguyệt Đăng-Minh, lại cùng đồng cùng một họ, họ Phả-La-Đọa.
Di-Lặc nên biết! Đức Phật trước, đức Phật sau đều đồng một tên, hiệu Nhật-Nguyệt Đăng-Minh, đầy đủ mười hiệu, những pháp được nói ra, đầu, giữa, sau đều lành.
Đức Phật rốt sau cả, lúc chưa xuất-gia có tám vị vương- tử: Người thứ nhất tên Hữu-Ư, thứ hai tên Thiện-Ư, thứ ba tên Vô-Lượng-Ư, thứ tư tên Bửu-Ư, thứ năm tên Tăng-Ư, thứ sáu tên Trừ-Nghi-Ư, thứ bảy tên Hưởng-Ư, thứ tám tên Pháp-Ư.
Tám vị vương- tử đó có uy đức tự tại đều lănh trị bốn châu thiên hạ (26). Nghe vua cha xuất gia chứng đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác đều bỏ ngôi vua cũng xuất-gia theo, phát tâm Đại thừa, thường tu hạnh thanh tịnh, đều làm bậc pháp sư, thuở trước đă từng ở chỗ ngh́n muôn đức Phật vun trồng các cội lành.
Đức Phật Nhật-Nguyệt Đăng-Minh lúc đó nói kinh Đại thừa tên "Vô-Lượng Nghĩa-Xứ" là pháp giáo hóa Bồ-Tát được chư Phật hộ niệm. Nói kinh đó rồi, Phật liền ở trong đại chúng ngồi xếp bằng nhập vào cảnh chánh định "Vô-Lượng Nghĩa-Xứ", thân và tâm chẳng động.
Khi ấy trời mưa hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha Mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa cùng hoa Ma-ha Mạn-thù-sa để rải trên đức Phật và hàng đại-chúng. Khắp cơi nước Phật sáu điệu vang động. Lúc đó trong hội, hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự nam, cận-sự nữ, trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-dà, nhơn, phi-nhơn cùng các vị tiểu vương, các vị Chuyển-luân thánh-vương v.v... các đại-chúng đó được điều chưa từng có, mừng rỡ chắp tay một ḷng nh́n Phật.
Bấy giờ, đức Như-Lai từ tướng lông trắng chặn giữa chân mày phóng ra luồng ánh sáng soi khắp cùng cả một muôn tám ngh́n cơi nước ở phương đông, như nay đương thấy ở cơi Phật đây.
Di-Lặc nên biết! Khi đó trong hội, có hai mươi ức Bồ-Tát ưa muốn nghe pháp, các vị Bồ-Tát ấy thấy ánh sáng chiếu khắp các cơi Phật được điều chưa từng có, đều muốn biết v́ duyên cớ ǵ mà phóng ánh-sáng này.
Khi ấy, có vị Bồ-Tát hiệu Diệu-Quang có tám trăm người đệ-tử.
Bấy giờ, đức Phật Nhật-Nguyệt Đăng-Minh từ trong chánh-định mà dậy, v́ Diệu-Quang Bồ-Tát nói kinh Đại-thừa tên "Diệu-Pháp Liên-Hoa" là pháp giáo hóa Bồ-Tát được chư Phật hộ niệm, trải qua sáu mươi tiểu kiếp chẳng rời chỗ ngồi.
Lúc ấy trong hội, người nghe pháp cũng ngồi một chỗ đến sáu mươi tiểu kiếp thân tâm đều không lay động, nghe đức Phật nói pháp cho là như trong khoảng bữa ăn. Bấy giờ trong chúng không có một người nào hoặc là thân hoặc là tâm mà sanh lười mỏi.
Đức Phật Nhật-Nguyệt Đăng-Minh trong sáu mươi tiểu kiếp nói kinh đó rồi, liền ở trong chúng Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, và Trời, Người, A-tu-la mà tuyên rằng: "Hôm nay vào nửa đêm, Như-Lai sẽ nhập Vô-dư Niết-bàn".
Khi đó có vị Bồ-Tát tên Đức-Tạng, đức Phật Nhật-Nguyệt Đăng-Minh liền thọ-kư (27) cho, bảo các Tỳ-kheo rằng: "Ông Đức-Tạng Bồ-Tát này kế đây sẽ thành Phật hiệu là Tịnh-Thân Như-Lai Ứng-cúng, chánh-đẳng chánh-giác".
Đức Phật thọ kư xong, vào nửa đêm bèn nhập Vô-dư Niết-bàn.
Sau khi đức Phật diệt-độ, Diệu-Quang Bồ-Tát tŕ kinh "Diệu-Pháp Liên-Hoa" trải tám mươi tiểu kiếp v́ người mà diễn nói.
Tám người con của Phật Nhật-Nguyệt Đăng-Minh đều học với ngài Diệu-Quang, ngài Diệu-Quang dạy bảo cho đều vững bền ở nơi đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác. Các vị Vương-tử đó cúng dường vô lượng trăm ngh́n muôn ức đức Phật đều thành Phật-đạo. Vị thành Phật rốt sau hết, hiệu là Nhiên-Đăng.
Trong hàng tám trăm người đệ-tử có một người tên: Cầu-Danh, người này tham ưa danh lợi, dầu cũng đọc tụng các kinh mà chẳng thuộc rành, phần nhiều quên mất, nên gọi là Cầu-Danh. Người này cũng do có trồng các nhân duyên căn lành nên được gặp vô lượng trăm ngh́n muôn ức đức Phật mà cúng dường cung kính tôn trọng khen ngợi.
Di-Lặc nên biết! Lúc đó Diệu-Quang Bồ-Tát đâu phải người nào lạ, chính là ta đấy. C̣n Cầu-Danh Bồ-Tát là ngài đấy.
Nay thấy điềm lành này, cùng với xưa không khác, cho nên ta xét nghĩ hôm nay đức Phật Như-Lai sẽ nói kinh Đại-thừa tên: “Diệu-Pháp Liên-Hoa” là pháp giáo hóa Bồ-Tát được chư Phật hộ niệm.
Bấy giờ, ngài Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát ở trong đại-chúng, muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Ta nhớ thuở quá khứ
Vô lượng vô số kiếp
Có Phật Nhân Trung-Tôn
Hiệu Nhật-Nguyệt Đăng-Minh
Đức Thế-Tôn nói pháp
Độ vô lượng chúng sanh
Vô số ức Bồ-Tát
Khiến vào trí huệ Phật.
Khi Phật chưa xuất gia
Có sanh tám vương-tử
Thấy Đại-Thánh xuất gia
Cũng theo tu phạm-hạnh
Phật nói kinh Đại-thừa
Tên là "Vô-Lượng-Nghĩa"
Ở trong hàng đại chúng
Mà v́ rộng tỏ bày.
Phật nói kinh ấy rồi
Liền ở trong pháp ṭa
Xếp bằng nhập chánh định
Tên "Vô-Lượng-Nghĩa-Xứ"
Trời rưới hoa Mạn-đà
Trống trời tự nhiên vang
Các trời, rồng, quỉ, thần
Cúng dường đấng Nhân-Tôn,
Tất cả các cơi Phật
Tức thời vang động lớn,
Phật phóng sáng giữa mày
Hiện các việc hi hữu
Ánh sáng chiếu phương Đông
Muôn tám ngh́n cơi Phật
Bày sanh tử nghiệp báo
Của tất cả chúng sanh
Lại thấy các cơi Phật
Dùng các báu trang nghiêm
Màu lưu ly pha lê
Đây bởi Phật quang soi.
Lại thấy những trời, người
Rồng, thần, chúng Dạ-xoa
Càn-thát, Khẩn-na-la
Đều cúng dường Phật ḿnh
Lại thấy các Như-Lai
Tự nhiên thành Phật đạo,
Màu thân như núi vàng
Đoan nghiêm rất đẹp mầu
Như trong lưu ly sạch
Hiện ra tượng chơn kim
Thế-Tôn trong đại chúng
Dạy nói nghĩa thâm diệu.
Mỗi mỗi các cơi Phật
Chúng Thanh-văn vô số,
Nhân Phật-quang soi sáng
Đều thấy đại-chúng kia.
Hoặc có các Tỳ-kheo
Ở tại trong núi rừng
Tinh tấn giữ tịnh giới
Dường như ǵn châu sáng
Lại thấy các Bồ-Tát
Bố thí nhẫn nhục thảy
Số đông như hằng sa (28)
Đây bởi sáng Phật soi.
Lại thấy hàng Bồ-Tát
Sâu vào các thiền định
Thân tâm lặng chẳng động
Để cầu đạo vô thượng.
Lại thấy các Bồ-Tát
Rơ tướng pháp tịch diệt
Đều ở tại nước ḿnh
Nói pháp cầu Phật đạo.
Bấy giờ bốn bộ chúng
Thấy Phật Nhật-Nguyệt-Đăng
Hiện sức thần thông lớn
Tâm kia đều vui mừng
Mỗi người tự hỏi nhau
Việc này nhân-duyên ǵ?
Đấng của trời người thờ
Vừa từ chánh-định dậy
Khen Diệu-Quang Bồ-Tát
Ông là mắt của đời
Mọi người đều tin về
Hay vâng giữ tạng pháp
Như pháp của ta nói
Chỉ ông chứng biết được
Đức Phật đă ngợi khen
Cho Diệu-Quang vui mừng
Liền nói kinh Pháp-Hoa
Trải sáu mươi tiểu kiếp
Chẳng rời chỗ ngồi ấy
Ngài Diệu-Quang Pháp-sư
Trọn đều hay thọï tŕ
Pháp thượng diệu của Phật.
Phật nói kinh Pháp-Hoa
Cho chúng vui mừng rồi
Liền chính trong ngày đó
Bảo hàng chúng trời, người
Các pháp "nghĩa thật tướng"
Đă v́ các ông nói
Nay ta giữa đêm này
Sẽ vào cơi Niết-bàn
Phải một ḷng tinh tấn
Rời các sự buông lung
Các Phật rất khó gặp
Ức kiếp được một lần
Các con của Phật thảy
Nghe Phật sắp nhập diệt
Thảy đều ḷng buồn khổ
Sao Phật gấp Niết-bàn?
Đấng Thánh-chúa-Pháp-vương
An ủi vô lượng chúng:
Nếu lúc ta diệt độ
Các ông chớ lo sợ
Đức-Tạng Bồ-Tát đây
Tâm đă được thông thấu
Nơi vô lậu thiệt tướng
Kế đây sẽ thành Phật
Tên hiệu là Tịnh-Thân
Cũng độ vô lượng chúng.
Đêm đó Phật diệt độ
Như củi hết, lửa tắt
Chia phân các xá-lợi
Mà xây vô lượng tháp
Tỳ- kheo, Tỳ-kheo-ni
Số đông như hằng sa
Lại càng thêm tinh tấn
Để cầu đạo vô thượng
Diệu-Quang pháp-sư ấy
Vâng giữ Phật pháp tạng
Trong tám mươi tiểu kiếp.
Rộng nói kinh Pháp-Hoa.
Tám vị vương-tử đó
Được Diệu-Quang dạy bảo
Vững bền đạo vô-thượng
Sẽ thấy vô số Phật
Cúng dường các Phật xong
Thuận theo tu đại đạo
Nối nhau đặng thành Phật
Chuyển thứ thọ kư nhau,
Đấng Phật rốt sau cả
Hiệu là: Phật Nhiên-Đăng
Đạo-Sư (29) của thiên tiên
Độ thoát vô lượng chúng.
Diệu-Quang Pháp-sư đó
Có một người đệ tử
Tâm thường cưu biếng trễ
Tham ưa nơi danh lợi
Cầu danh lợi không nhàm
Thường đến nhà sang giàu
Rời bỏ việc tụng học
Bỏ quên không thông thuộc
V́ bởi nhân duyên ấy
Nên gọi là Cầu-Danh
Cũng tu các nghiệp lành
Được thấy vô số Phật
Thuận tu theo đại đạo
Đủ sáu ba-la-mật
Nay gặp đấng Thích-Ca
Sau đây sẽ thành Phật
Hiệu rằng: “Phật Di-Lặc”
Rộng độ hàng chúng sanh
Số đông đến vô lượng.
Sau Phật kia diệt độ
Lười biếng đó là ngài
C̣n Diệu-Quang Pháp-sư
Nay thời chính là ta.
Ta thấy Phật Đăng-Minh
Điềm sáng trước như thế
Cho nên biết rằng nay
Phật muốn nói "Pháp-Hoa"
Tướng nay như điềm xưa.
Là phương tiện của Phật
Nay Phật phóng ánh sáng
Giúp bày nghĩa thiệt tướng
Các người nay nên biết
Chắp tay một ḷng chờ
Phật sẽ rưới nước pháp
Đầy đủ người cầu đạo
Các người cầu ba thừa (30)
Nếu có chỗ nghi hối
Phật sẽ dứt trừ cho
Khiến hết không c̣n thừa.
02 - PHẨM “PHƯƠNG TIỆN”
Lúc bấy giờ, đức Thế-Tôn từ chánh định an lành mà dậy, bảo ngài Xá-Lợi-Phất: "Trí-huệ của các đức Phật rất sâu vô lượng, môn trí huệ đó khó hiểu khó vào, tất cả hàng Thanh-văn cùng Tích-chi-Phật đều không biết được. V́ sao?
Phật đă từng gần gũi trăm ngh́n muôn ức vô số các đức Phật, trọn tu vô lượng đạo pháp của các đức Phật, dơng mănh tinh tấn, danh tốt đồn khắp, trọn nên pháp rất sâu chưa từng có, theo thời nghi mà nói pháp ư thú khó hiểu.
Xá-Lợi-Phất! Từ ta thành Phật đến nay, các món nhân duyên, các món thí dụ, rộng nói ngôn giáo, dùng vô số phương tiện d́u dắt chúng sanh, làm cho xa ĺa ḷng chấp. V́ sao? Đức Như-Lai đă đầy đủ phương tiện, tri kiến và ba-la-mật.
Xá-Lợi-Phất! Tri kiến của Như-Lai rộng lớn sâu xa, đức vô lượng vô-ngại-lực, vô-sở-úy, thiền-định, giải-thoát tam-muội, đều sâu vào không ngằn mé, trọn nên tất cả pháp chưa từng có.
Xá-Lợi-Phất! Như-Lai hay các món phân biệt, khéo nói các pháp lời lẽ êm dịu vui đẹp ḷng chúng.
Xá-Lợi-Phất! Tóm yếu mà nói đó, vô lượng vô biên pháp vị tằng hữu, đức Phật thảy đều trọn nên.
Thôi Xá-Lợi-Phất! Chẳng cần nói nữa. V́ sao? V́ pháp khó hiểu ít có thứ nhất mà Phật trọn nên đó, chỉ có Phật cùng Phật mới có thể thấu tột tướng chân thật của các pháp, nghĩa là các pháp: tướng như vậy, tánh như vậy, thể như vậy, lực như vậy, tác như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, trước sau rốt ráo như vậy.
Bấy giờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói bài kệ rằng:
Đấng Thế-Hùng khó lường
Các trời cùng người đời
Tất cả loài chúng sanh
Không ai hiểu được Phật
Trí-lực, vô-sở-úy
Giải thoát các tam-muội
Các pháp khác của Phật
Không ai so lường được
Vốn từ vô số Phật
Đầy đủ tu các đạo
Pháp nhiệm mầu rất sâu
Khó thấy khó rơ được
Trong vô lượng ức kiếp
Tu các đạo đó rồi
Đạo tràng được chứng quả
Ta đều đă thấy biết
Quả báo lớn như vậy
Các món tính tướng nghĩa
Ta cùng mười phương Phật
Mới biết được việc đó
Pháp đó không chỉ được
Vắng bặt tướng nói năng
Các loài chúng sinh khác
Không có ai hiểu được
Trừ các chúng Bồ-Tát
Người sức tin bền chặt
Các hàng đệ tử Phật
Từng cúng dường các Phật
Tất cả lậu đă hết
Trụ thân rốt sau này
Các hạng người vậy thảy
Sức họ không kham được,
Giả sử đầy thế gian
Đều như Xá-Lợi-Phất
Cùng suy chung so lường
Chẳng lường được Phật trí
Chính sử khắp mười phương
Đều như Xá-Lợi-Phất
Và các đệ-tử khác
Cũng đầy mười phương cơi
Cùng suy chung so lường
Cũng lại chẳng biết được.
Bậc Duyên-giác trí lành
Vô lậu thân rốt sau
Cũng đầy mười phương cơi
Số đông như rừng tre,
Hạng này chung một ḷng
Trong vô lượng ức kiếp
Muốn xét Phật thật trí
Chẳng biết được chút phần.
Bồ-Tát mới phát tâm
Cúng dường vô số Phật
Rơ thấu các nghĩa thú
Lại hay khéo nói pháp
Như lúa, mè, tre, lau
Đông đầy mười phương cơi
Một ḷng dùng trí mầu
Trải số kiếp hằng sa
Thảy đều chung suy lường
Chẳng biết được trí Phật
Hàng bất-thối Bồ-Tát
Số đông như hằng sa
Một ḷng chung suy cầu
Cũng lại chẳng hiểu được.
Lại bảo Xá-Lợi-Phất
Pháp nhiệm mầu rất sâu
Vô lậu khó nghĩ bàn
Nay ta đă được đủ
Chỉ ta biết tướng đó
Mười phương Phật cũng vậy,
Xá-Lợi-Phất phải biết
Lời Phật nói không khác
Với Pháp của Phật nói
Nên sinh sức tin chắc
Pháp của Phật lâu sau
Cần phải nói chân thật
Bảo các chúng Thanh-văn
Cùng người cầu Duyên-giác
Ta khiến cho thoát khổ
Đến chứng được Niết-bàn
Phật dùng sức phương tiện
Dạy cho ba thừa giáo
Chúng sanh nơi nơi chấp
Dắt đó khiến ra khỏi.
Khi đó trong đại chúng có hàng Thanh-văn lậu tận A-la-hán, ngài A-Nhă Kiều-Trần-Như v.v... một ngh́n hai trăm người và các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam cùng cận-sự-nữ, hạng người phát tâm Thanh-văn, Duyên-giác đều nghĩ rằng: "Hôm nay đức Phật cớ chi lại ân cần ngợi khen phương tiện mà nói thế này: "Pháp của Phật chứng rất sâu khó hiểu, tất cả hàng Thanh-văn cùng Duyên-giác không thể đến được."
Đức Phật nói một nghĩa giải thoát, chúng ta cũng chứng được pháp đó đến nơi Niết-bàn, mà nay chẳng rơ nghĩa đó về đâu?
Lúc ấy, ngài Xá-Lợi-Phất biết ḷng nghi của bốn chúng, chính ḿnh cũng chưa rơ, liền bạch Phật rằng: Thưa Thế-Tôn! Nhân ǵ duyên ǵ mà Phật ân cần khen ngợi pháp phương-tiện thứ nhất nhiệm mầu rất sâu khó hiểu của các đức Phật? Con từ trước đến nay chưa từng nghe Phật nói điều đó, hôm nay bốn chúng thảy đều có ḷng nghi. Cúi xin đức Thế-Tôn bày nói việc đó. Cớ ǵ mà đức Thế-Tôn ân cần khen ngợi pháp nhiệm mầu rất sâu khó hiểu? Khi đó ngài Xá-Lợi-Phất muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Đấng Huệ-Nhật Đại-thánh
Lâu mới nói pháp này,
Tự nói pháp ḿnh chứng
Lực, vô-úy, tam-muội,
Thiền-định, giải-thoát thảy
Đều chẳng nghĩ bàn được.
Pháp chứng nơi đạo tràng
Không ai hỏi đến được,
Ư con khó lường được
Cũng không ai hay hỏi.
Không hỏi mà tự nói
Khen ngợi đạo ḿnh làm
Các đức Phật chứng được
Trí huệ rất nhiệm mầu.
Hàng vô-lậu La-hán
Cùng người cầu Niết-bàn
Nay đều sa lưới nghi
Phật cớ chi nói thế?
Hạng người cầu Duyên-giác.
Tỳ-kheo, Tỳkheo-ni,
Các trời, rồng, quỉ, thần
Và Càn-thát-bà thảy
Ngó nhau mang ḷng nghi
Nh́n trông đấng Túc-Tôn,
Việc đó là thế nào
Xin Phật vị dạy cho?
Trong các chúng Thanh-văn
Phật nói con hạng nhất
Nay con nơi trí ḿnh
Nghi lầm không rơ được
V́ là pháp rốt ráo
V́ là đạo Phật làm
Con từ miệng Phật sanh
Chắp tay nh́n trông chờ
Xin ban tiếng nhiệm mầu
Liền v́ nói như thực
Các trời, rồng, thần thảy
Số đông như hằng sa
Bồ-Tát cầu thành Phật
Số nhiều có tám muôn
Lại những muôn ức nước
Vua Chuyển-Luân-vương đến
Đều ḷng kính chắp tay
Muốn nghe đạo đầy đủ.
Khi đó đức Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất: Thôi thôi! Chẳng nên nói nữa, nếu nói việc đó tất cả trong đời các trời và người đều sẽ kinh sợ nghi-ngờ."
Ngài Xá-Lợi-Phất lại bạch Phật rằng: "Thưa Thế-Tôn! Cúi xin nói đó, cúi xin nói đó. V́ sao? Trong hội đây có vô số trăm ngh́n muôn ức a-tăng-kỳ chúng-sinh đă từng gặp các đức Phật, các căn mạnh lẹ, trí huệ sáng suốt, được nghe Phật dạy chắc có thể kính tin".
Lúc ấy, ngài Xá-Lợi-Phất muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
Đấng Pháp-Vương vô thượng
Xin nói chuyện đừng lo
Vô lượng chúng hội đây
Có người hay kính tin.
Đức Phật lại ngăn Xá-Lợi-Phất: "Nếu nói việc đó th́ tất cả trong đời, trời, người, A-tu-la đều sẽ nghi sợ, Tỳ-kheo tăng-thượng-mạn sẽ phải sa vào hầm lớn."
Khi đó đức Thế-Tôn lại nói kệ rằng:
Thôi thôi! Chẳng nên nói
Pháp ta diệu khó nghĩ
Những kẻ tăng-thượng-mạn
Nghe ắt không kính tin.
Lúc ấy ngài Xá-Lợi-Phất bạch Phật rằng: “Thưa Thế-Tôn! Cúi xin Phật nói, cúi xin Phật nói. Nay trong hội này hạng người sánh bằng con có trăm ngh́n muôn ức. Đời đời đă từng theo Phật học hỏi, những người như thế chắc hay kính tin lâu dài an ổn nhiều điều lợi ích.”
Khi đó ngài Xá-Lợi-Phất, muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Đấng vô thượng Lưỡng-túc
Xin nói pháp đệ nhất
Con là trưởng tử Phật
Xin thương phân biệt nói.
Vô lượng chúng hội đây
Hay kính tin pháp này
Đời đời Phật đă từng
Giáo hóa chúng như thế
Đều một ḷng chắp tay
Muốn nghe lănh lời Phật.
Chúng con ngh́n hai trăm
Cùng hạng cầu Phật nọ
Nguyện Phật v́ chúng này
Cúi xin phân biệt nói
Chúng đây nghe pháp ấy
Thời sanh ḷng vui mừng.
Bấy giờ, đức Thế-Tôn bảo ngài Xá-Lợi-Phất: "Ông đă ân cần ba phen thưa thỉnh đâu được chẳng nói. Ông nay lóng nghe khéo suy nghĩ nhớ đó, ta sẽ v́ ông phân biệt giải-nói."
Khi đức Phật nói lời đó, trong hội có các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ, cả thẩy năm ngh́n người, liền từ chỗ ngồi đứng dậy lễ Phật mà lui về. V́ sao? V́ bọn người này gốc tội sâu nặng cùng tăng-thượng-mạng, chưa được mà nói đă được, chưa chứng mà đă cho chứng, có lỗi dường ấy, cho nên không ở lại. Đức Thế-Tôn yên lặng không ngăn cản.
Bấy giờ, Đức Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất: "Trong chúng ta đây không c̣n cành lá, rặt có hạt chắc. Xá-Lợi-Phất! Những gă tăng-thượng-mạn như vậy lui về cũng là tốt. Ông nay nên khéo nghe, ta sẽ v́ ông mà nói."
Ngài Xá-Lợi-Phất bạch rằng: "Vâng thưa Thế-Tôn con nguyện ưa muốn nghe".
Đức Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất: "Pháp mầu như thế, các đức Phật Như-Lai đến khi đúng thời mới nói, ví như hoa linh-thoại đến thời tiết mới hiện một lần. Xá-Lợi-Phất! Các ông nên tin lời của Phật nói không hề hư vọng.
Xá-Lợi-Phất! Các đức Phật theo thời nghi nói pháp y-thú khó hiểu. V́ sao? Ta dùng vô số phương tiện các món nhân duyên, lời lẽ thí dụ diễn nói các pháp.
Pháp đó không phải là suy lường phân biệt mà có thể hiểu, chỉ có các đức Phật mới biết được đó. V́ sao? Các đức Phật Thế-Tôn, chỉ do một sự nhân duyên lớn mà hiện ra nơi đời.
Xá-Lợi-Phất! Sao nói rằng các đức Phật Thế-Tôn chỉ do một sự nhân duyên lớn mà hiện ra đời? Các đức Phật Thế-Tôn v́ muốn cho chúng sanh khai tri kiến Phật để được thanh tịnh mà hiện ra nơi đời; v́ muốn chỉ tri kiến Phật cho chúng-sanh mà hiện ra nơi đời; v́ muốn cho chúng sanh tỏ ngộ tri kiến Phật mà hiện ra nơi đời; v́ muốn cho chúng sanh chứng vào đạo tri kiến Phật mà hiện ra nơi đời.
Xá-Lợi-Phất! Đó là các đức Phật do v́ một sự nhân duyên lớn mà hiện ra nơi đời".
Đức Phật bảo Xá-Lợi-Phất: "Các đức Phật Như-Lai chỉ giáo hóa Bồ-Tát, những điều làm ra thường v́ một việc: chỉ đem tri kiến Phật chỉ cho chúng sanh tỏ ngộ thôi"
Xá-Lợi-Phất! Đức Như-Lai chỉ dùng một Phật thừa mà v́ chúng sanh nói pháp không có các thừa hoặc hai hoặc ba khác.
Xá-Lợi-Phất! Pháp của tất cả các đức Phật ở mười phương cũng như thế.
Xá-Lợi-Phất! Thuở quá khứ các đức Phật dùng vô lượng vô số phương tiện các món nhân duyên lời lẽ thí dụ mà v́ chúng sanh diễn nói các pháp. V́ pháp đó đều là một Phật thừa, nên các chúng sanh đó theo chư Phật nghe pháp rốt ráo đều được chứng "nhứt-thiết chủng-trí."
Xá-Lợi-Phất! Thuở vị lai, các đức Phật sẽ ra đời cũng dùng vô lượng vô số phương tiện các món nhân duyên lời lẽ thí dụ mà v́ chúng sanh diễn nói các pháp, v́ pháp ấy đều là một Phật thừa nên các chúng sanh đó theo Phật nghe pháp rốt ráo đều được chứng "nhứt-thiết chủng-trí".
Xá-Lợi-Phất! Hiện tại nay, trong vô lượng trăm ngh́n muôn ức cơi Phật ở mười phương, các đức Phật Thế-Tôn nhiều điều lợi ích an vui cho chúng sanh. Các đức Phật đó cũng dùng vô lượng vô số phương tiện các món nhân-duyên lời lẽ thí dụ mà v́ chúng sanh diễn nói các pháp, v́ pháp đó đều là một Phật thừa, các chúng sanh ấy theo Phật nghe pháp rốt ráo đều được chứng "nhứt-thiết chủng-trí".
Xá-Lợi-Phất! Các đức Phật đó chỉ giáo hóa Bồ-Tát, v́ muốn đem tri kiến Phật mà chỉ cho chúng sanh, v́ muốn đem tri kiến Phật cho chúng sanh tỏ ngộ, v́ muốn làm cho chúng sanh chứng vào tri kiến Phật vậy.
Xá-Lợi-Phất! Nay ta cũng lại như thế, rơ biết các chúng sanh có những điều ưa muốn, thân tâm mê chấp, ta tùy theo bản tánh kia dùng các món nhân duyên lời lẽ thí dụ cùng sức phương tiện mà v́ đó nói pháp.
Xá-Lợi-Phất! Như thế đều v́ để chứng được một Phật thừa "nhứt-thiết chủng-trí."
Xá-Lợi-Phất! Trong cơi nước ở mười phương c̣n không có hai thừa hà huống có ba!
Xá-Lợi-Phất! Các đức Phật hiện ra trong đời ác năm trược, nghĩa là: Kiếp trược, phiền-năo-trược, chúng-sinh-trược, kiến-trược, mệnh-trược. Như thế, Xá-Lợi-Phất, lúc kiếp loạn trược chúng sinh nhơ nặng, bỏn sẻn, tham lam, ghét ganh, trọn nên các căn chẳng lành, cho nên các đức Phật dùng sức phương tiện, nơi một Phật thừa, phân biệt nói thành ba.
Xá-Lợi-Phất! Nếu đệ tử ta tự cho ḿnh là A-la-hán cùng Duyên-giác mà không nghe không biết việc của các đức Phật Như-Lai chỉ giáo hóa Bồ-Tát, người này chẳng phải là đệ tử Phật, chẳng phải A-la-hán, chẳng phải Duyên-giác.
Lại-nữa, Xá-Lợi-Phất! Các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni đó tự cho ḿnh đă được A-la-hán, là thân rốt sau rốt ráo Niết-bàn, bèn chẳng lại chí quyết cầu đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác. Nên biết bọn đó là kẻ tăng-thượng-mạn. V́ sao? nếu có Tỳ-kheo thực chứng quả A-la-hán mà không tin pháp này, quyết không có lẽ ấy, trừ sau khi Phật diệt độ hiện tiền không Phật. V́ sao? Sau khi Phật diệt độ, những kinh như thế, người hay thọ tŕ đọc tụng hiểu nghĩa rất khó có được, nếu gặp đức Phật khác, ở trong pháp này bèn được hiểu rơ.
Xá-Lợi-Phất! Các ông nên một ḷng tin hiểu thọ tŕ lời Phật dạy. Lời các đức Phật Như-Lai nói không hư vọng, không có thừa nào khác, chỉ có một Phật thừa thôi.
Khi ấy, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni
Mang ḷng tăng-thượng-mạng
Cận-sự-nam ngă mạn
Cận-sự-nữ chẳng tin,
Hàng bốn chúng như thế
Số kia có năm ngh́n
Chẳng tự thấy lỗi ḿnh
Nơi giới có thiếu sót
Tiếc giữ tội quấy ḿnh
Trí nhỏ đó đă ra,
Bọn cám tấm trong chúng
Oai đức Phật phải đi,
Gă đó kém phước đức
Chẳng kham lănh pháp này,
Chúng nay không cành lá
Chỉ có những hột chắc
Xá-Lợi-Phất khéo nghe!
Pháp của các Phật được
Vô lượng sức phương tiện
Mà v́ chúng sanh nói.
Tâm của chúng sanh nghĩ
Các món đạo ra làm
Bao nhiêu những tánh dục
Nghiệp lành dữ đời trước
Phật biết hết thế rồi
Dùng các duyên thí dụ
Lời lẽ sức phương tiện
Khiến tất cả vui mừng.
Hoặc là nói Thế kinh
Cô khởi cùng Bổn-sự.
Bổn-sanh, Vị-tằng-hữu
Cũng nói những nhân duyên
Thí dụ và Trùng tụng
Luận nghị cộng chín kinh.
Căn độn ưa pháp nhỏ.
Tham chấp nơi sanh tử
Nơi vô lượng đức Phật
Chẳng tu đạo sâu mầu
Bị các khổ năo loạn
V́ đó nói Niết-bàn.
Ta bày phương tiện đó
Khiến đều vào huệ Phật,
Chưa từng nói các ông
Sẽ được thành Phật đạo
Sở dĩ chưa từng nói
V́ giờ nói chưa đến,
Nay chính là đến giờ
Quyết định nói Đại-thừa.
Chín bộ pháp của ta
Thuận theo chúng sanh nói
Vào Đại-thừa làm gốc
Nên mới nói kinh này.
Có Phật tử tâm tịnh
Êm dịu cũng căn lợi,
Nơi vô lượng các Phật
Mà tu đạo sâu mầu,
V́ hàng Phật tử này
Nói kinh Đại-thừa đây.
Ta ghi cho người đó
Đời sau thành Phật đạo
Bởi thâm tâm niệm Phật
Tu tŕ tịnh giới vậy
Hạng này nghe thành Phật
Rất mừng đầy khắp ḿnh,
Phật biết tâm của kia.
Nên v́ nói Đại-thừa.
Thanh-văn hoặc Bồ-Tát,
Nghe ta nói pháp ra
Nhẫn đến một bài kệ
Đều thành Phật không nghi.
Trong cơi Phật mười phương
Chỉ có một thừa pháp
Không hai cũng không ba
Trừ Phật phương tiện nói
Chỉ dùng danh tự giả
Dẫn dắt các chúng sanh
V́ nói trí huệ Phật.
Các Phật ra nơi đời
Chỉ một việc này thực
Hai thứ chẳng phải chơn.
Trọn chẳng đem tiểu thừa
Mà tế độ chúng sanh,
Phật tự trụ Đại-thừa
Như pháp của ḿnh được
Định, huệ, lực trang nghiêm
Dùng đây độ chúng sanh.
Tự chứng đạo vô thượng
Pháp b́nh-đẳng Đại-thừa
Nếu dùng tiểu thừa độ
Nhẫn đến nơi một người
Thời ta đọa sân tham
Việc ấy tất không được,
Nếu người tin về Phật
Như-Lai chẳng dối gạt
Cũng không ḷng tham ghen
Dứt ác trong các pháp
Nên Phật ở mười phương
Mà riêng không chỗ sợ.
Ta dùng tướng trang nghiêm
Ánh sáng soi trong đời
Đấng vô lượng chúng trọng
V́ nói thực tướng ấn
Xá-Lợi-Phất! nên biết
Ta vốn lập thệ nguyện
Muốn cho tất cả chúng
Bằng như ta không khác,
Như ta xưa đă nguyện
Nay đă đầy đủ rồi
Độ tất cả chúng sanh
Đều khiến vào Phật đạo
Nếu ta gặp chúng sanh
Dùng Phật đạo dạy cả
Kẻ vô trí rối sai
Mê lầm không nhận lời.
Ta rơ chúng sanh đó
Chưa từng tu cội lành
Chấp chặt nơi ngũ dục
V́ si ái sinh khổ,
Bởi nhân duyên các dục.
Sanh vào ba đường dữ
Xoay lăn trong sáu nẻo
Chịu đủ những khổ độc
Thân mọn thọï bào thai
Đời đời tăng trưởng luôn
Người đức mỏng ít phước
Các sự khổ bức ngặt
Vào rừng rậm tà kiến
Hoặc chấp có, chấp không
Nương gá các chấp này
Đầy đủ sáu mươi hai
Chấp chặt pháp hư vọng
Bền nhận không bỏ được
Ngă mạn tự khoe cao
Dua nịnh ḷng không thực
Trong ngh́n muôn ức kiếp
Chẳng nghe danh tự Phật
Cũng chẳng nghe chánh pháp
Người như thế khó độ.
Cho nên Xá-Lợi-Phất!
Ta v́ bày phương tiện
Nói các đạo dứt khổ
Chỉ cho đó Niết-bàn
Ta dầu nói Niết-bàn
Cũng chẳng phải thật diệt,
Các pháp từ bổn lai
Tướng thường tự vắng lặng
Phật tử hành đạo rồi
Đời sau được thành Phật
Ta có sức phương tiện
Mở bày khắp ba thừa.
Tất cả các Thế-Tôn
Đều nói đạo nhất thừa
Nay trong đại chúng này
Đều nên trừ nghi lầm
Lời Phật nói không khác
Chỉ một, không hai thừa.
Vô số kiếp đă qua
Vô lượng Phật diệt độ
Trăm ngh́n muôn ức Phật
Số nhiều không lường được.
Các Thế-Tôn như thế
Các món duyên thí dụ
Vô số ức phương tiện
Diễn nói các pháp tướng,
Các đức Thế-Tôn đó
Đều nói pháp nhất thừa
Độ vô lượng chúng sanh
Khiến vào nơi Phật đạo
Lại các đại-Thánh-chúa
Biết tất cả thế gian
Trời người loài quần sanh
Thâm tâm chỗ ưa muốn
Bèn dùng phương tiện khác
Giúp bày nghĩa đệ nhất.
Nếu có loài chúng sanh
Gặp các Phật quá khứ
Hoặc nghe pháp bố thí
Hoặc tŕ giới nhẫn nhục
Tinh tấn, thiền, trí thảy
Các món tu phước huệ,
Những người như thế đó
Đều đă thành Phật đạo
Sau các Phật diệt độ
Nếu người ḷng lành dịu
Các chúng sanh như thế
Đều đă thành Phật đạo
Các Phật diệt độ rồi
Người cúng dường xá-lợi
Dựng muôn ức thứ tháp
Vàng, bạc và pha-lê
Xa-cừ cùng mă-năo
Ngọc mai khôi, lưu ly
Thanh tịnh rộng nghiêm sức,
Trau giồi nơi các tháp,
Hoặc có dựng miếu đá
Chiên-đàn và trầm-thủy
Gỗ mật cùng gỗ khác
Gạch ngói bùn đất thảy,
Hoặc ở trong đồng trống
Chứa đất thành miếu Phật
Nhẫn đến đồng tử giỡn
Nhóm cát thành tháp Phật,
Những hạng người như thế
Đều đă thành Phật đạo.
Nếu như người v́ Phật
Xây dựng các h́nh-tượng
Chạm trổ thành các tướng
Đều đă thành Phật đạo.
Hoặc dùng bảy báu làm
Thau, đồng bạch, đồng đỏ
Chất nhôm cùng ch́ kẽm
Sắt, gỗ cùng với bùn
Hoặc dùng keo, sơn, vải
Nghiêm sức làm tượng Phật
Những người như thế đó
Đều đă thành Phật đạo
Vẽ vời làm tượng Phật
Trăm tướng phước trang nghiêm
Tự làm hoặc bảo người
Đều đă thành Phật đạo.
Nhẫn đến đồng tử giỡn
Hoặc cỏ cây và bút
Hoặc lấy móng tay ḿnh
Mà vẽ làm tượng Phật
Những hạng người như thế
Lần lần chứa công-đức
Đầy đủ tâm đại bi
Đều đă thành Phật đạo
Chỉ dạy các Bồ-Tát
Độ thoát vô lượng chúng.
Nếu người nơi tháp miếu
Tượng báu và tượng vẽ
Dùng hoa, hương, phan, lọng
Lồng kính mà cúng dường
Hoặc khiến người trổi nhạc
Đánh trống, thổi sừng ốc
Tiêu địch, cầm, không-hầu
Tỳ-bà, chụp-chả đồng
Các tiếng hay như thế
Đem dùng cúng dường hết
Hoặc người ḷng vui mừng
Ca ngâm khen đức Phật
Nhẫn đến một tiếng nhỏ
Đều đă thành Phật đạo
Nếu người ḷng tán loạn
Nhẫn đến dùng một hoa
Cúng dường nơi tượng vẽ
Lần thấy các đức Phật
Hoặc có người lễ lạy
Hoặc lại chỉ chắp tay
Nhẫn đến giơ một tay
Hoặc lại hơi cúi đầu
Dùng đây cúng dường tượng
Lần thấy vô lượng Phật
Tự thành đạo vô thượng
Rộng độ chúng vô số
Vào Vô dư Niết-bàn
Như củi hết lửa tắt.
Nếu người tâm tán loạn
Bước vào trong tháp chùa
Chỉ niệm Nam-mô Phật
Đều đă thành Phật đạo
Nơi các Phật quá khứ
Tại thế, hoặc diệt độ,
Có người nghe pháp này
Đều đă thành Phật đạo
Các Thế-Tôn vị lai
Số nhiều không thể lường
Các đức Như-Lai đó
Cùng phương tiện nói pháp.
Tất cả các Như-Lai
Dùng vô lượng phương tiện
Độ thoát các chúng sanh
Vào trí vô lậu Phật,
Nếu có người nghe pháp
Không ai chẳng thành Phật.
Các Phật vốn thệ nguyện
Ta tu hành Phật đạo
Khắp muốn cho chúng sanh
Cũng đồng được đạo này.
Các Phật đời vị lai
Dầu nói trăm ngh́n ức
Vô số các pháp môn
Kỳ thực v́ nhất thừa.
Các Phật Lưỡng-Túc-tôn
Biết pháp thường không tánh
Giống Phật theo duyên sanh
Cho nên nói nhứt thừa.
Pháp đó trụ ngôi pháp
Tướng thế gian thường c̣n
Nơi đạo tràng biết rồi
Đức Phật phương tiện nói.
Hiện tại mười phương Phật
Của trời người cúng dường
Số nhiều như hằng sa
Hiện ra nơi thế gian
V́ an ổn chúng sanh
Cũng nói pháp như thế.
Biết vắng bặt thứ nhứt
Bởi dùng sức phương tiện
Dầu bày các món đạo
Kỳ thực v́ Phật thừa
Biết các hạnh chúng sanh
Thâm tâm nó nghĩ nhớ
Nghiệp quen từ quá khứ
Tánh dục, sức tinh tấn
Và các căn lợi độn
Dùng các món nhân duyên
Thí dụ cùng lời lẽ
Tùy cơ phương tiện nói.
Ta nay cũng như vậy
V́ an ổn chúng sanh
Dùng các món pháp môn
Rao bày nơi Phật đạo
Ta dùng sức trí huệ
Rơ tính dục chúng sanh
Phương tiện nói các pháp
Đều khiến được vui mừng.
Xá-Lợi-Phất nên biết!
Ta dùng mắt Phật xem
Thấy sáu đường chúng sanh
Nghèo cùng không phước huệ
Vào đường hiểm sanh tử
Khổ nối luôn không dứt
Sâu tham nơi ngũ dục
Như trâu "mao" mến đuôi
Do tham ái tự che
Đui mù không thấy biết
Chẳng cầu Phật thế lớn
Cùng pháp dứt sự khổ
Sâu vào các tà kiến
Lấy khổ muốn bỏ khổ
Phật v́ chúng sanh này
Mà sanh ḷng đại bi
Xưa, tu ngồi đạo tràng
Xem cây cùng kinh hành
Suy nghĩ việc như vầy:
Trí huệ của ta được
Vi diệu rất thứ nhứt
Chúng sanh các căn chậm
Tham vui si làm mù
Các hạng người như thế
Làm sao mà độ được?
Bấy giờ các Phạm-vương
Cùng các trời Đế-Thích
Bốn Thiên-vương hộ đời
Và trời Đại-Tự-Tại
Cùng các thiên chúng khác
Trăm ngh́n ức quyến thuộc
Chắp tay cung kính lễ
Thỉnh ta chuyển pháp-luân.
Ta liền tự suy nghĩ
Nếu chỉ khen Phật thừa
Chúng sanh ch́m nơi khổ
Không thể tin pháp đó
Do phá pháp không tin
Rớt trong ba đường dữ
Ta thà không nói pháp
Mau vào cơi Niết-bàn
Liền nhớ Phật quá khứ
Thực hành sức phương tiện
Ta nay chứng được đạo
Cũng nên nói ba thừa.
Lúc ta nghĩ thế đó
Mười phương Phật đều hiện
Tiếng Phạm an-ủi ta
Hay thay! đức Thích-Ca
Bậc Đạo-Sư thứ nhứt
Được pháp vô thượng ấy
Tùy theo tất cả Phật
Mà dùng sức phương tiện
Chúng ta cũng đều được
Pháp tối diệu thứ nhứt
V́ các loại chúng sanh
Phân biệt nói ba thừa.
Trí kém ưa pháp nhỏ
Chẳng tự tin thành Phật
Cho nên dùng phương tiện
Phân biệt nói các quả
Dầu lại nói ba thừa
Chỉ v́ dạy Bồ-Tát.
Xá-Lợi-Phất nên biết!
Ta nghe các đức Phật
Tiếng nhiệm mầu rất sạch
Xưng: “Nam-mô chư Phật!”
Ta lại nghĩ thế này
Ta ra đời trược ác
Như các Phật đă nói
Ta cũng thuận làm theo
Suy nghĩ việc đó rồi
Liền đến thành Ba-Nại.
Các pháp tướng tịch diệt
Không thể dùng lời bày
Bèn dùng sức phương tiện
V́ năm Tỳ-kheo nói.
Đó gọi chuyển pháp luân
Bèn có tiếng Niết-bàn
Cùng với A-la-hán
Tên pháp, tăng sai khác.
Từ kiếp xa nhẫn lại
Khen bày Pháp Niết-bàn
Dứt hẳn khổ sống chết
Ta thường nói như thế
Xá-Lợi-Phất phải biết
Ta thấy các Phật tử
Chí quyết cầu Phật đạo
Vô lượng ngh́n muôn ức
Đều dùng ḷng cung kính
Đồng đi đến chỗ Phật
Từng đă theo các Phật
Nghe nói pháp phương tiện
Ta liền nghĩ thế này
Sở dĩ Phật ra đời
Để v́ nói Phật huệ
Nay chính đă đúng giờ.
Xá-Lợi-Phất phải biết!
Người căn chậm trí nhỏ
Kẻ chấp tướng kiêu mạn
Chẳng thể tin pháp này
Nay ta vui vô-úy
Ở trong hàng Bồ-Tát
Chính bỏ ngay phương tiện
Chỉ nói đạo vô thượng.
Bồ-Tát nghe pháp đó
Đều đă trừ lưới nghi
Ngh́n hai trăm La-hán
Cũng đều sẽ thành Phật
Như nghi thức nói pháp
Của các Phật ba đời
Ta nay cũng như vậy
Nói pháp không phân biệt
Các đức Phật ra đời
Lâu xa khó gặp gỡ
Chính sử hiện ra đời
Nói pháp này khó hơn
Vô lượng vô số kiếp
Nghe pháp này cũng khó,
Hay nghe được pháp này
Người đó cũng lại khó
Thí như hoa linh-thoại
Tất cả đều ưa mến
Ít có trong trời, người
Lâu lâu một lần trổ.
Người nghe pháp mừng khen
Nhẫn đến nói một lời
Thời là đă cúng dường
Tất cả Phật ba đời
Người đó rất ít có
Hơn cả hoa Ưu-đàm.
Các ông chớ có nghi
Ta là vua các pháp
Khắp bảo các đại chúng
Chỉ dùng đạo nhứt thừa
Dạy bảo các Bồ-Tát
Không Thanh-văn đệ tử
Xá-Lợi-Phất các ông!
Thanh-văn và Bồ-Tát
Phải biết pháp mầu này
Bí yếu của các Phật
Bởi đời ác năm trược
Chỉ tham ưa các dục
Những chúng sanh như thế
Trọn không cầu Phật đạo
Người ác đời sẽ tới
Nghe Phật nói nhứt thừa
Mê lầm không tin nhận
Phá pháp đọa đường dữ
Người tâm quí trong sạch
Quyết chí cầu Phật đạo
Nên v́ bọn người ấy
Rộng khen đạo nhất thừa.
Xá-Lợi-Phất nên biết
Pháp các Phật như thế
Dùng muôn ức phương tiện
Tùy thời nghi nói pháp
Người chẳng học tập tu
Không hiểu được pháp này
Các ông đă biết rơ
Phật là thầy trong đời
Việc phương-tiện tùy nghi
Không c̣n lại nghi lầm
Ḷng sinh rất vui mừng
Tự biết sẽ thành Phật.
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
| ML | Q 01 | Q 02 | Q 03 | Q 04 | Q 05 | Q 06 | Q 07 |
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
Hán Dịch: Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
QUYỂN 2
03 - PHẨM “THÍ DỤ”
Lúc bấy giờ ngài Xá-Lợi-Phất hớn hở vui mừng, liền đứng dậy chấp tay chiêm ngưỡng dung nhan của đức Phật mà bạch Phật rằng: Nay con theo đức Thế-Tôn nghe được tiếng pháp này, trong ḷng hớn hở được điều chưa từng có. V́ sao? Con xưa theo Phật nghe pháp như thế này, thấy các vị Bồ-Tát được thọ kư thành Phật mà chúng con chẳng được dự việc đó tự rất cảm thương mất vô lượng tri kiến của Như-Lai.
Thế-Tôn! Con thường khi một ḿnh ở dưới cây trong núi rừng, hoặc ngồi hoặc đi kinh hành, hằng nghĩ như vầy: Chúng ta đồng vào pháp tánh, tại sao đức Như-Lai lại dùng pháp tiểu thừa mà tế độ cho?
Đó là lỗi của chúng con chớ chẳng phải là Thế-Tôn vậy. V́ sao? Nếu chúng con chờ Phật nói pháp sở nhân thành đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác thời chắc do pháp Đại-thừa mà được độ thoát. Song chúng con chẳng hiểu Phật phương tiện theo cơ nghi mà nói pháp, vừa mới nghe Phật nói pháp vội tin nhận suy gẫm để chứng lấy.
Thế-Tôn! Con từ xưa đến nay trọn ngày luôn đêm hằng tự trách ḿnh, mà nay được từ Phật nghe pháp chưa từng có, trước khi hề nghe, dứt các ḷng nghi hối, thân ư thơ thới rất được an ổn. Ngày nay mới biết ḿnh thật là Phật tử, từ miệng Phật sanh ra, từ pháp hóa sanh, được pháp phần của Phật.
Khi ấy, Ngài Xá-Lợi-Phất muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Con nghe tiếng pháp này
Được điều chưa từng có
Ḷng rất đổi vui mừng
Lưới nghi đều đă trừ,
Xưa nay nhờ Phật dạy
Chẳng mất nơi Đại-thừa.
Tiếng Phật rất ít có
Hay trừ khổ chúng sanh
Con đă được lậu tận (1)
Nghe cũng trừ lo khổ.
Con ở nơi hang núi
Hoặc dưới cụm cây rừng
Hoặc ngồi hoặc kinh hành
Thường suy nghĩ việc này,
Thôi ôi! Rất tự trách
Sao lại tự khi ḿnh
Chúng ta cũng Phật tử
Đồng vào pháp vô lậu
Chẳng được ở vị lai
Nói pháp vô thượng đạo,
Sắc vàng, băm hai tướng (2)
Mười lực (3) các giải thoát.
Đồng chung trong một pháp
Mà chẳng được việc đây
Tám mươi tướng tốt đẹp
Mười tám pháp bất cộng (4)
Các công đức như thế
Mà ta đều đă mất
Lúc con kinh hành riêng
Thấy Phật ở trong chúng
Danh đồn khắp mười phương
Rộng lợi ích chúng sanh
Tự nghĩ mất lợi này
Chính con tự khi dối
Con thường trong ngày đêm
Hằng suy nghĩ việc đó
Muốn đem hỏi Thế-Tôn?
Là mất hay không mất?
Con thường thấy Thế-Tôn
Khen ngợi các Bồ-Tát (5)
V́ thế nên ngày đêm
Suy lường việc như vậy
Nay nghe tiếng Phật nói
Theo cơ nghi dạy Pháp
Vô lậu khó nghĩ bàn
Khiến chúng đến đạo tràng.
Con xưa chấp tà kiến
Làm thầy các Phạm-chí (6)
Thế-Tôn rơ tâm con
Trừ tà nói Niết-bàn.
Con trừ hết tà kiến
Được chứng nơi pháp không
Bấy giờ ḷng tự bảo
Được đến nơi diệt độ
Mà nay mới tự biết
Chẳng phải thực diệt độ.
Nếu lúc được thành Phật
Đủ ba mươi hai tướng
Trời, người, chúng, Dạ-xoa
Rồng, thần đều cung kính
Bấy giờ mới được nói
Dứt hẳn hết không thừa
Phật ở trong đại chúng
Nói con sẽ thành Phật
Nghe tiếng pháp như vậy
Ḷng nghi hối đă trừ.
Khi mới nghe Phật nói
Trong ḷng rất sợ nghi
Phải chăng ma giả Phật
Năo loạn ḷng ta ư?
Phật dùng các món duyên
Thí dụ khéo nói phô,
Ḷng kia an như biển
Con nghe, lưới nghi dứt.
Phật nói thuở quá khứ
Vô lượng Phật diệt độ
An trụ trong phương tiện
Cũng đều nói pháp đó.
Phật hiện tại, vị lai.
Số nhiều cũng vô lượng
Cũng dùng các phương tiện
Diễn nói pháp như thế.
Như Thế-Tôn ngày nay
Từ sanh đến xuất gia
Được đạo Chuyển-pháp-luân
Cũng dùng phương tiện nói
Thế-Tôn nói đạo thật
Ba tuần (7) không nói được
V́ thế con định biết
Không phải ma giả Phật
Con sa vào lưới nghi
Cho là ma làm ra.
Nghe tiếng Phật êm dịu
Sâu xa rất nhiệm mầu
Nói suốt pháp thanh tịnh
Tâm con rất vui mừng.
Nghi hối đă hết hẳn
An trụ trong thật trí
Con quyết sẽ thành Phật
Được trời, người cung kính
Chuyển pháp-luân vô thượng
Giáo hóa các Bồ-Tát.
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất: "Ta nay ở trong hàng trời, người, Sa-môn, Bà-la-môn mà nói. Ta xưa từng ở nơi hai muôn ức Phật v́ đạo vô thượng nên thường giáo hóa ông, ông cũng lâu dài theo ta thọï học, ta dùng phương tiện dẫn dắt ông sanh vào trong pháp ta. Xá-Lợi-Phất! Ta thuở xưa dạy ông chí nguyện Phật đạo, ông nay đều quên mà bèn tự nói đă được diệt độ. Ta nay lại muốn khiến ông nghĩ nhớ bản nguyện cùng đạo đă làm, mà v́ các Thanh-văn nói kinh Đại-thừa tên là: "Diệu-Pháp Liên-Hoa" là pháp giáo hóa Bồ-Tát được chư Phật hộ niệm.
Xá-Lợi-Phất! Ông đến đời vị lai, quá vô lượng vô biên bất-khả tư-ngh́ kiếp, cúng dường bao nhiêu ngh́n muôn ức Phật, phụng tŕ chánh pháp đầy đủ đạo tu hành của Bồ-Tát, sẽ thành Phật hiệu là Hoa-Quang Như-Lai, Ứng-cúng, Chánh-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Điều-ngự trượng-phu, Thiên-nhân-sư, Phật Thế-Tôn.
Nước tên: Ly-Cấu, cơi đó bằng thẳng thanh tịnh đẹp đẽ an ổn giàu vui, trời người đông đảo. Lưu ly làm đất, có tám đường giao thông, dây bằng vàng ṛng để giăng bên đường, mé đường đều có hàng cây bằng bảy báu, thường có hoa trái. Đức Hoa-Quang Như-Lai cũng dùng ba thừa giáo hóa chúng sanh.
Xá-Lợi-Phất! Lúc đức Phật ra đời dầu không phải là đời ác mà bởi bản nguyện nên nói pháp ba thừa. Kiếp đó tên là "Đại-Bảo-Trang-Nghiêm". V́ sao gọi là "Đại-Bảo-Trang-Nghiêm"? V́ trong cơi đó dùng Bồ-Tát làm "Đại-Bảo" vậy. Các Bồ-Tát trong số đông vô lượng vô biên bất-khả tư-ngh́, tính kể hay thí dụ đều không đếm được, chẳng phải sức trí huệ của Phật không ai có thể biết được. Khi muốn đi th́ có hoa đỡ chân.
Các vị Bồ-Tát đó không phải hàng mới phát tâm, đều đă trồng cội từ lâu. Ở nơi vô lượng trăm ngh́n muôn ức đức Phật, tịnh tu phạm hạnh hằng được các Phật khen. Thường tu trí huệ của Phật đủ sức thần thông lớn, khéo biết tất cả các pháp môn, ngay thật không dối, chí niệm bền vững bậc Bồ-Tát như thế, khắp đầy nước đó.
Xá-Lợi-Phất! Đức Phật Hoa-Quang thọï mười hai tiểu kiếp, trừ c̣n làm vương tử chưa thành Phật. Nhân dân nước đó thọ tám tiểu kiếp. Đức Hoa-Quang Như-Lai quá mười hai tiểu kiếp thọ kư vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác cho Kiên-Măn Bồ-Tát mà bảo các Tỳ-kheo: Ông Kiên-măn Bồ-Tát này kế đây sẽ thành Phật hiệu là Hoa-Túc An-Hành Như-Lai, Ứng-cúng, Chánh-biến-tri, cơi nước của đức Phật đó cũng lại như đây.
Xá-Lợi-Phất! Sau khi Phật Hoa-Quang đó diệt độ, chánh pháp trụ lại trong đời ba mươi hai tiểu kiếp, tượng pháp trụ đời cũng ba mươi hai tiểu kiếp.
Lúc ấy, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Xá-Lợi-Phất đời sau
Thành đấng Phật trí khắp
Hiệu rằng: Phật Hoa-Quang
Sẽ độ vô lượng chúng.
Cúng dường vô số Phật
Đầy đủ hạnh Bồ-Tát
Các công đức thập lực
Chứng được đạo vô thượng
Quá vô lượng kiếp rồi
Kiếp tên Đại-Bảo-Nghiêm
Cơi nước tên Ly-Cấu
Trong sạch không vết nhơ
Dùng lưu ly làm đất
Dây vàng giăng đường sá
Cây bảy báu sắc đẹp
Thường có hoa cùng trái
Bồ-Tát trong cơi đó
Chí niệm thường bền vững
Thần thông ba-la-mật
Đều đă trọn đầy đủ
Nơi vô số đức Phật
Khéo học đạo Bồ-Tát
Những Đại-sĩ như thế
Phật Hoa-Quang hóa độ.
Lúc Phật làm vương tử
Rời nước bỏ vinh hoa
Nơi thân cuối rốt sau
Xuất gia thành Phật đạo
Phật Hoa-Quang trụ thế
Thọ mười hai tiểu kiếp
Chúng nhân dân nước đó
Sống lâu tám tiểu kiếp
Sau khi Phật diệt độ
Chánh pháp trụ ở đời
Ba mươi hai tiểu kiếp
Rộng độ các chúng sanh
Chánh pháp diệt hết rồi
Tượng pháp cũng băm hai
Xá-lợi rộng truyền khắp
Trời, người, khắp cúng dường
Phật Hoa-Quang chỗ làm
Việc đó đều như thế.
Đấng Lưỡng-Túc-Tôn kia
Rất hơn không ai bằng
Phật tức là thân ông
Nên phải tự vui mừng.
Bấy giờ bốn bộ chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Cận-sự-nam, Cận-sự-nữ và cả đại-chúng: trời, rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, v.v... thấy Xá-Lợi-Phất ở trước Phật lănh lấy lời dự ghi sẽ thành vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác, ḷng rất vui mừng hớn hở vô lượng. Mỗi người đều cởi y trên của ḿnh đang đắp để cúng dường Phật.
Thích-Đề Hoàn-Nhơn cùng Phạm-Thiên-Vương v.v... và vô số thiên tử cũng đem y đẹp của trời, hoa trời Mạn-đà-la, Ma-ha Mạn-đà-la v.v... cúng dường nơi Phật. Y trời tung lên liền trụ giữa hư không mà tự xoay chuyển. Các kỹ nhạc trời trăm ngh́n muôn thứ ở giữa hư không đồng thời đều trổi. Rưới các thứ hoa trời mà nói lời rằng: "Đức Phật xưa ở thành Ba-La-Nại, ban đầu chuyển-pháp-luân rất lớn vô thượng".
Lúc đó các Thiên tử muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Xưa ở thành Ba-Nại
Chuyển pháp-luân Tứ- Đế
Phân biệt nói các pháp
Sanh diệt của năm nhóm (8)
Nay lại chuyển-pháp-luân
Rất lớn diệu vô thượng,
Pháp đó rất sâu mầu
Ít có người tin được.
Chúng ta từ xưa lại
Thường nghe Thế-Tôn nói
Chưa từng nghe thượng pháp
Thâm diệu như thế này,
Thế-Tôn nói pháp đó
Chúng ta đều tùy hỷ,
Đại trí Xá-Lợi-Phất
Nay được lănh Phật kư
Chúng ta cũng như vậy
Quyết sẽ được thành Phật,
Trong tất cả thế gian
Rất tôn không c̣n trên
Phật đạo chẳng thể bàn
Phương tiện tùy nghi nói
Ta bao nhiêu nghiệp phước
Đời nay hoặc quá khứ
Và công đức thấy Phật.
Trọn hồi hướng Phật đạo.
Bấy giờ, Xá-Lợi-Phất bạch rằng: "Thế-Tôn ! con nay không c̣n nghi hối, tự ḿnh ở trước Phật được thọï kư thành vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác. Các vị tâm tự tại một ngh́n hai trăm đây, lúc xưa ở bậc hữu-học, Phật thường dạy rằng: "Pháp của ta hay ĺa sanh, già, bệnh, chết rốt ráo Niết-bàn". Các vị hữu-học vô-học đây cũng đều đă tự rời chấp ngă cùng chấp có, chấp không v.v... nói là được Niết-bàn, mà nay ở trước đức Thế-Tôn nghe chỗ chưa từng nghe, đều sa vào nghi lầm. Hay thay Thế-Tôn! Xin Phật v́ bốn chúng nói nhân duyên đó, khiến ĺa ḷng nghi hối"
Khi ấy, Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất: Ta trước đâu không nói rằng: "Các Phật Thế-Tôn dùng các món nhân duyên lời lẽ thí dụ phương tiện mà nói pháp đều là vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác ư? Các điều nói đó đều v́ dạy Bồ-Tát vậy. Nhưng Xá-Lợi-Phất! Nay ta sẽ dùng một thí dụ để chỉ rơ lại nghĩa đó, những người có trí do thí dụ mà được hiểu."
Xá-Lợi-Phất! Như trong quốc ấp, tụ lạc có vị đại Trưởng-giả tuổi đă già suy, của giàu vô lượng, có nhiều nhà ruộng và các tôi tớ. Nhà ông rộng lớn mà chỉ có một cửa để ra vào, người ở trong đó rất đông; hoặc một trăm, hai trăm cho đến năm trăm người, lầu gác đă mục, vách phên sụp đổ, chân cột hư nát, trính xiêng xiêu ngă, bốn phía đồng một lúc, lửa bỗng nổi lên đốt cháy nhà cửa.
Các người con của Trưởng-giả hoặc mười người, hoặc hai mươi người, hoặc đến ba mươi người ở trong nhà đó.
Trưởng-giả thấy lửa từ bốn phía nhà cháy lên, liền rất sợ sệt mà nghĩ rằng: Ta dầu có thể ở nơi cửa của nhà cháy này ra ngoài rất an ổn, song các con ở trong nhà lửa ưa vui chơi giỡn không hay biết, không sợ sệt, lửa đến đốt thân rất đau khổ lắm, mà ḷng chẳng nhàm lo, không có ư cầu ra khỏi.
Xá-Lợi-Phất! Ông Trưởng-giả đó lại nghĩ: thân và tay của ta có sức mạnh, nên dùng vạt áo hoặc dùng ghe đẳng từ trong nhà mà ra ngoài. Ông lại nghĩ: Nhà này chỉ có một cái cửa mà lại hẹp nhỏ, các con thơ bé chưa hiểu, mê đắm chơi giỡn hoặc vấp ngă bị lửa đốt cháy, ta nên v́ chúng nó mà nói những việc đáng sợ.
Nhà này đă bị cháy phải mau ra liền, chớ để bị lửa đốt hại. Nghĩ như thế theo chỗ đă nghĩ đó mà bảo các con: "Các con mau ra!" Cha dầu thương xót khéo nói để dụ dỗ, mà các người con ưa vui chơi chẳng khứng tin chịu, chẳng sợ sệt, trọn không có ḷng muốn ra, lại cũng chẳng hiểu ǵ là lửa? ǵ là nhà? thế nào là hại? Chỉ cứ đông tây chạy giỡn nh́n cha mà thôi.
Bấy giờ, Trưởng-giả liền nghĩ nhà này đă bị lửa lớn đốt cháy, ta cùng các con nếu không ra liền chắc sẽ bị cháy, ta nay nên bày chước phương tiện khiến cho các con được khỏi nạn này.
Cha biết các con đều vẫn có ḷng thích các đồ chơi trân báu lạ lùng, nếu có, chắc chúng nó ưa đắm, mà bảo các con rằng: "Đây này là những món ít có khó được mà các con có thể vui chơi, nếu các con không ra lấy sau chắc buồn ăn năn. Các thứ xe dê, xe hươu, xe trâu như thế, nay ở ngoài cửa có thể dùng dạo chơi, các con ở nơi nhà lửa nên mau ra đây tùy ư các con muốn, cha đều sẽ cho các con".
Lúc bấy giờ, các người con nghe cha nói đồ chơi báu đẹp vừa ư ḿnh nên ḷng mỗi người đều mạnh mẽ xô đẩy lẫn nhau cùng đua nhau ruổi chạy tranh ra khỏi nhà lửa. Khi đó Trưởng-giả thấy các con được an ổn ra khỏi nhà lửa đều ở trong đường ngă tư nơi đất trống không c̣n bị chướng ngại, tâm ông thơ thới vui mừng hớn hở.
Bấy giờ, các người con đều thưa với cha rằng: "Cha lúc năy hứa cho những đồ chơi tốt đẹp, nào xe dê, xe hươu, xe trâu xin liền ban cho."
Xá-Lợi-Phất! Khi đó Trưởng-giả đều cho các con đồng một thứ xe lớn, xe đó cao rộng chưng dọn bằng các món báu, lan can bao quanh, bốn phía treo linh, lại dùng màn lọng giăng che ở trên, cũng dùng đồ báu đẹp tốt lạ mà trau giồi đó, dây bằng báu kết thắt các dải hoa rủ xuống, nệm chiếu mềm mại trải chồng, gối đỏ để trên, dùng trâu trắng kéo, sắc da mập sạch thân h́nh mập đẹp, có sức rất mạnh bước đi ngay bằng mau lẹ như gió, lại có đông tôi tớ để hầu hạ đó.
V́ cớ sao? V́ ông Trưởng-giả đó của giàu vô lượng, các thứ kho tàng thảy đều đầy ngập, ông nghĩ rằng: "Của cải của ta nhiều vô cực, không nên dùng xe nhỏ xấu kém mà cho các con, nay những trẻ thơ này đều là con của ta, đồng yêu không thiên lệch, ta có xe bằng bảy báu như thế số nhiều vô lượng nên lấy ḷng b́nh đẳng mà đều cho chúng nó, chẳng nên sai khác."
V́ sao? Dầu đem xe của ta đó khắp cho cả người một nước hăy c̣n không thiếu huống ǵ các con. Lúc ấy các người con đều ngồi xe lớn được điều chưa từng có, không phải chỗ trước kia ḿnh trông.
Xá-Lợi-Phất! Ư của ông nghĩ sao? Ông Trưởng-giả đó đồng đem xe trân báu lớn cho các người con, có lỗi hư vọng chăng? Xá-Lợi-Phất thưa: “Thưa Thế-Tôn ! Không, ông Trưởng giả chỉ làm cho các con được khỏi nạn lửa, toàn thân mạng chúng nó, chẳng phải là hư vọng. V́ sao? Nếu được toàn thân mạng bèn đă được đồ chơi tốt đẹp, huống nữa là dùng phương tiện cứu vớt ra khỏi nhà lửa.
Thế-Tôn! Dầu ông Trưởng-giả đó nhẫn đến chẳng cho một thứ xe rất nhỏ c̣n chẳng phải hư vọng. V́ sao? V́ ông Trưởng-giả đó trước có nghĩ như vầy: Ta dùng trước phương tiện cho các con được ra khỏi, v́ nhân duyên đó nên không hư vọng vậy. Huống ǵ ông Trưởng-giả tự biết ḿnh của giàu vô lượng muốn lợi ích các con mà đồng cho xe lớn!"
Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất: "Hay thay! Hay thay! Như lời ông nói, Xá-Lợi-Phất! Như-Lai cũng lại như thế, Phật là cha của tất cả thế gian, ở nơi các sự sợ hăi suy năo lo buồn vô minh che tối hết hẳn không c̣n thừa, mà trọn thành tựu vô lượng tri-kiến, trí-lực, vô-sở-úy; có sức đại thần thông cùng sức trí huệ đầy đủ các món phương tiện. Trí huệ Ba-la-mật, đại từ đại bi thường không hề lười mỏi. Hằng v́ cầu việc lành lợi cho tất cả muôn loại mà sanh vào nhà lửa tam giới cũ mục này, để độ chúng sanh ra khỏi nạn lửa; sanh, già, bệnh, chết, lo buồn khổ năo, ngu si tối tăm, ba độc; dạy bảo cho chúng sanh được vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác.
Ta thấy các chúng sanh bị những sự sanh, già, bệnh, chết, lo buồn khổ năo nó đốt cháy, cũng v́ năm món dục (9) tài lợi mà bị các điều thống khổ. Lại v́ tham mê đeo đuổi t́m cầu nên hiện đời thọ các điều khổ, đời sau thọï khổ địa-ngục, súc-sanh, ngạ-quỷ. Nếu sanh lên trời và ở trong loài người thời nghèo cùng khốn khổ, bị khổ về người yêu thường xa ĺa, kẻ oán ghét lại gặp gỡ. Các món khổ như thế chúng-sanh ch́m trong đó vui vẻ dạo chơi, chẳng hay biết, chẳng kinh chẳng sợ, cũng chẳng sanh ḷng nhàm, không cầu giải thoát; ở trong nhà lửa tam giới này đông tây rảo chạy dầu bị khổ nhiều vẫn chẳng lấy làm lo.
Xá-Lợi-Phất! Đức Phật thấy việc này rồi bèn nghĩ rằng: Ta là cha của chúng sanh nên cứu chúng nó ra khỏi nạn khổ đó, ban vô lượng vô biên món trí huệ vui của Phật để chúng nó dạo chơi.
Xá-Lợi-Phất! Đức Như-Lai lại nghĩ: Nếu ta chỉ dùng sức thần thông cùng sức trí huệ bỏ chước phương tiện, mà v́ chúng sanh khen ngợi các món tri-kiến, trí-lực, vô-sở-úy của Như-Lai, ắt chúng sanh chẳng có thể do đó mà được độ thoát. V́ sao? V́ các chúng sanh đó chưa khỏi sự sanh, già, bệnh, chết, lo buồn, đau khổ, đương bị thiêu đốt trong nhà lửa tam giới, làm sao có thể hiểu được trí huệ của Phật.
Xá-Lợi-Phất! Như ông Trưởng-giả kia dầu thân và tay có sức mạnh mà chẳng dùng đó, chỉ ân cần phương tiện gắng cứu các con thoát nạn nhà lửa, rồi sau đều cho xe trân báu lớn.
Đức Như-Lai cũng lại như thế, dầu có trí lực cùng sức vô úy (10) mà chẳng dùng đến, chỉ dùng trí huệ phương tiện nơi nhà lửa tam giới cứu vớt chúng sanh, v́ chúng sanh nói ba thừa Thanh-văn, Duyên-giác cùng Phật-thừa mà bảo rằng: "Các ngươi không nên ưa ở trong nhà lửa tam giới, chớ có ham mê các món sắc, thanh, hương, vị, xúc thô hèn, nếu tham, mê ắt sinh ái nhiễm thời sẽ bị nó đốt; các ngươi mau ra khỏi ba cơi sẽ được chứng ba thừa: Thanh-văn, Duyên-giác và Phật-thừa.
Nay ta v́ các người mà bảo nhiệm việc đó quyết không dối vậy. Các người chỉ nên siêng năng tinh-tấn tu hành". Đức Như-Lai dùng phương tiện ấy để dụ dẫn chúng sanh thẳng đến, lại bảo: "Các ngươi nên biết rằng pháp ba thừa đó đều là pháp của các đấng Thánh khen ngợi, là pháp tự tại không bị ràng buộc không c̣n phải nương gá t́m cầu, ngồi trong ba thừa này dùng các món căn, lực, giác-chi, thánh-đạo (11) , thiền định vô lậu cùng giải thoát tam muội v.v... để tự vui sướng, được vô lượng sự an ổn khoái lạc".
Xá-Lợi-Phất! nếu có chúng sanh nào bề trong có trí tánh, theo đức Phật Thế-Tôn nghe pháp tin nhận ân cần tinh tấn, muốn chóng ra khỏi ba cơi tự cầu chứng Niết-bàn, gọi đó là Thanh-văn thừa, như các người con kia v́ cầu xe dê mà ra khỏi nhà lửa.
Nếu có chúng sanh nào theo đức Thế-Tôn nghe pháp, tin nhận, rồi ân cần tinh tấn, cầu trí huệ tự nhiên ưa thích riêng lẻ vắng lặng, sâu rơ nhân duyên của các pháp, gọi đó là Duyên-giác-thừa, như các người con kia v́ cầu xe hươu mà ra khỏi nhà lửa.
Nếu có chúng sanh nào theo đức Phật Thế-Tôn nghe pháp tin nhận, siêng tu tinh tấn cầu nhứt-thiết-trí, Phật-trí, tự-nhiên-trí, vô-sư-trí, các món tri-kiến-lực, vô-úy của Như-Lai, có ḷng thương xót làm an vui cho vô lượng chúng sanh, lợi ích trời, người, độ thoát tất cả, hạng đó gọi là Đại-thừa, Bồ-Tát v́ cầu được thừa này thời gọi là Ma-ha-tát, như các người con kia cầu xe trâu mà ra khỏi nhà lửa.
Xá-Lợi-Phất! Như ông Trưởng-giả kia thấy các con được an ổn ra khỏi nhà lửa đến chỗ vô úy, ông tự nghĩ, ta của giàu vô lượng, nên b́nh đẳng đem xe lớn đồng cho các con. Đức Như-Lai cũng lại như thế, là cha của tất cả chúng sanh, nếu thấy có vô lượng ngh́n ức chúng sanh do cửa Phật giáo mà thoát khỏi khổ, đường hiểm đáng sợ của ba cơi được sự vui Niết-bàn.
Bấy giờ, đức Như-Lai bèn nghĩ: "Ta có vô lượng vô biên trí huệ, lực-vô-úy v.v... tạng pháp của các đức Phật, các chúng sanh này đều là con của ta đồng ban cho pháp Đại-thừa, chẳng để có người được diệt độ riêng, đều đem pháp diệt độ của Như-Lai mà cho chúng sanh nó diệt độ.
Những chúng sanh đă thoát khỏi ba cơi đó, Phật đều cho món vui thiền định, giải thoát v.v... của các đức Phật, các món đó đều là một tướng, một thứ mà các đấng Thánh khen ngợi, hay sanh ra sự vui sạch mầu bậc nhất.
Xá-Lợi-Phất! Như ông Trưởng-giả ban đầu dùng ba thứ xe dụ dẫn các con, sau rồi chỉ ban cho xe lớn vật báu trang nghiêm an ổn thứ nhất, song ông Trưởng-giả kia không có lỗi hư dối. Đức Như-Lai cũng như thế, không có hư dối, ban đầu nói ba thừa dẫn dắt chúng sanh sau rồi chỉ dùng Đại-thừa mà độ giải thoát đó.
V́ sao? Như-Lai có vô lượng tạng pháp trí huệ, lực, vô-sở-úy, có thể ban pháp Đại-thừa cho tất cả chúng sanh, chỉ v́ chúng sanh không thọ được hết.
Xá-Lợi-Phất! V́ nhân duyên đó nên phải biết các đức Như-Lai dùng sức phương tiện ở nơi một Phật-thừa phân biệt nói thành ba.
Đức Phật muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Thí như ông Trưởng-giả
Có một căn nhà rất lớn
Nhà đó đă lâu cũ
Mà lại rất xấu xa,
Pḥng nhà vừa cao nguy
Gốc cột lại gẫy mục
Trính xiêng đều xiêu vẹo
Nền móng đă nát ră,
Vách phên đều sụp đổ
Đất bùn rơi rớt xuống,
Tranh lợp sa tán loạn
Kèo đ̣n tay rời khớp,
Bốn bề đều cong vạy
Khắp đầy những tạp nhơ,
Có đến năm trăm người
Ở đỗ nơi trong đó.
Chim xi, hiêu, điêu, thứu,
Qua, chim thước, cưu, cáp
Loài ngoan-xà, phúc-yết,
Giống ngô-công, do-diên,
Loài thủ-cung, bá-túc
Dứu-ly cùng hề-thử
Các giống độc trùng dữ
Ngang dọc xen ruỗi chạy,
Chỗ phẩn giải hôi thối.
Đồ bất tịnh chảy tràn
Các loài trùng khương lương
Bu nhóm ở trên đó,
Cáo, sói cùng dă-can
Liếm nhai và dày đạp
Cắn xé những thây chết
Xương thịt bừa băi ra,
Do đây mà bầy chó
Đua nhau đến ngoạm lấy,
Ốm đói và sợ sệt
Nơi nơi t́m món ăn
Giành giựt cấu xé nhau
Gầm gừ gào sủa rên,
Nhà đó sự đáng sợ
Những biến trạng dường ấy.
Khắp chỗ đều có những
Quỷ, lỵ, mị, vọng, lượng
Quỷ Dạ-xoa quỉ dữ
Nuốt ăn cả thịt người,
Các loài trùng độc dữ
Những cầm thú hung ác
Ấp, cho bú sản sanh
Đều tự giấu ǵn giữ
Quỷ Dạ-xoa đua đến
Giành bắt mà ăn đó,
Ăn đó no nê rồi
Ḷng hung dữ thêm hăng
Tiếng chúng đánh căi nhau
Thật rất đáng lo sợ.
Những quỉ Cưu-bàn-trà
Ngồi xổm trên đống đất
Hoặc có lúc hỏng đất
Một thước hay hai thước
Qua rồi lại, dạo đi
Buông lung chơi cùng giỡn
Nắm hai chân của chó
Đánh cho la thất thanh
Lấy chân đạp trên cổ
Khủng bố chó để vui.
Lại có các giống quỷ
Thân nó rất cao lớn
Trần truồng thân đen xấu
Thường ở luôn trong đó
Rền tiếng hung ác lớn
Kêu la t́m món ăn
Lại có các giống quỷ
Cổ nó nhỏ bằng kim,
Lại có các giống quỷ
Đầu nó như đầu trâu
Hoặc là ăn thịt người
Hoặc là ăn thịt chó,
Đầu tóc rối tung lên
Rất ác lại hung hiểm,
Bị đói khát bức ngặt
Kêu la vừa rong chạy
Dạ-xoa cùng quỷ đói
Các chim muông ác độc
Đói gấp rảo bốn bề
Ŕnh xem các cửa sổ
Các nạn dường thế đấy
Vô lượng việc ghê sợ (12)
Nhà cũ mục trên đó
Thuộc ở nơi một người
Người ấy vừa mới ra
Thời gian chưa bao lâu
Rồi sau nhà cửa đó
Bỗng nhiên lửa cháy đỏ
Đồng một lúc bốn bề
Ngọn lửa đều hừng hực,
Rường cột và trính xiêng
Tiếng tách nổ vang động
Nát gẫy rơi rớt xuống
Vách phên đều lở ngă,
Các loại quỷ thần thảy
Đồng cất tiếng kêu to,
Các giống chim điêu, thứu
Quỷ Cưu-bàn-trà thảy
Kinh sợ chạy sảng sốt
Vẫn không tự ra được,
Thú dữ loài trùng độc
Chui núp trong lỗ hang
Các quỷ Tỳ-xá-xà
Cũng ở trong hang đó
V́ phước đức kém vậy
Bị lửa đến đốt bức
Lại tàn hại lẫn nhau
Uống máu ăn thịt nhau.
Những loại thú dă-can
Thời đều đă chết trước
Các giống thú dữ lớn
Giành đua đến ăn nuốt.
Khói tanh bay phùn phụt
Phủ khắp bít bốn bề,
Loài ngô-công, do-diên
Cùng với rắn hung độc
Bị lửa ḷn đốt cháy
Tranh nhau chạy khỏi hang
Quỷ Bàn-trà ŕnh chờ
Liền bắt lấy mà ăn.
Lại có các ngă-quỷ
Trên đầu lửa rực cháy
Đói khát rất nóng khổ
Sảng sốt chạy quàng lên,
Nhà lửa đó dường ấy
Rất đáng nên ghê sợ
Độc hại cùng tai lửa
Các nạn chẳng phải một.
Lúc bấy giờ chủ nhà
Đứng ở nơi ngoài cửa
Nghe có người mách rằng:
Các người con của ông
Trước đây v́ dạo chơi
Mà đến vào nhà này
Thơ bé không hiểu biết
Chỉ vui ham ưa đắm.
Trưởng-giả vừa nghe xong
Kinh sợ vào nhà lửa
T́m phương nghi cứu tế
Cho con khỏi thiêu hại
Mà dụ bảo các con
Nói rơ các hoạn nạn:
Nào ác quỷ độc trùng
Hỏa tai lan tràn cháy
Các sự khổ thứ lớp
Nối luôn không hề dứt
Loài độc xà, ngươn phúc
Và các quỷ Dạ-xoa
Cùng quỷ Cưu-bàn-trà
Những dă-can, chồn, chó
Chim điêu, thứu xi, hiêu
Lại giống bá túc thảy
Đều đói khát khổ gấp
Rất đáng phải ghê sợ
Chỗ khổ nạn như thế
Huống lại là lửa lớn.
Các con nhỏ không hiểu
Dầu có nghe cha dạy
Cứ vẫn c̣n ham ưa
Vui chơi măi không thôi
Bấy giờ trưởng-giả kia
Mới bèn nghĩ thế này
Các con như thế đó
Làm ta thêm sầu năo
Nay trong nhà lửa này
Không một việc đáng vui
Mà các con ngây dại
Vẫn ham mê vui chơi
Chẳng chịu nghe lời ta
Toan sẽ bị lửa hại.
Ông bèn lại suy nghĩ
Nên bày các phương tiện
Bảo với các con rằng:
Cha có rất nhiều thứ
Các đồ chơi trân kỳ
Những xe báu tốt đẹp
Nào xe dê, xe hươu
Cùng với xe trâu lớn
Hiện để ở ngoài cửa
Các con mau ra đây
Cha chính v́ các con
Mà sắm những xe này
Tùy ư các con thích
Có thể để dạo chơi.
Các con nghe cha nói
Các thứ xe như vậy
Tức thời cùng giành đua
Rảo chạy ra khỏi nhà
Đến nơi khoảng đất trống
Rời những sự khổ nạn
Trưởng-giả thấy các con
Được ra khỏi nhà lửa
Ở nơi ngă tư đường
Đều ngồi ṭa sư-tử
Ông bèn tự mừng rằng
Ta nay rất mừng vui
Những đứa con ta đây
Đẻ nuôi rất khó lắm
Chúng nhỏ dại không hiểu
Mới lầm vào nhà hiểm
Có nhiều loài trùng độc
Quỷ, lỵ mị đáng sợ
Lửa lớn cháy hừng hực
Bốn phía đều phựt lên
Mà các trẻ con này
Lại ham ưa vui chơi
Nay ta đă cứu chúng
Khiến đều được thoát nạn
V́ thế các người ơi!
Ta nay rất vui mừng.
Khi ấy các người con
Biết cha đă ngồi an
Đều đến bên chỗ cha
Mà thưa cùng cha rằng:
Xin cha cho chúng con
Ba thứ xe báu lạ
Như vừa rồi cha hứa
Các con mau ra đây
Sẽ cho ba thứ xe
Tùy ư các con muốn
Bây giờ chính phải lúc
Xin cha thương cấp cho.
Trưởng-giả giàu có lớn
Kho đụn rất nhiều đầy
Vàng bạc cùng lưu ly
Xa-cừ ngọc mă-năo,
Dùng những món vật báu
Tạo thành các xe lớn
Chưng dọn trang nghiêm đẹp
Khắp ṿng có bao lơn
Bốn mặt đều treo linh
Dây vàng xen thắt tụi
Lưới mành kết trân châu
Giăng bày phủ phía trên
Hoa vàng các chuỗi ngọc
Ḷng tḥng rủ khắp chỗ
Các màu trang sức đẹp
Khắp ṿng xây quanh xe
Dùng nhiễu hàng mềm mại
Để làm nệm lót ngồi
Vải quí mịn rất tốt
Giá trị đến ngh́n muôn
Bóng láng trắng sạch sẽ
Dùng trải trùm trên nệm
Có trâu trắng to lớn
Mập khỏe nhiều sức mạnh
Thân h́nh rất tươi tốt
Để kéo xe báu đó
Đông những tôi và tớ
Mà chực hầu giữ ǵn
Đem xe đẹp như thế
Đồng ban cho các con
Các con lúc bấy giờ
Rất vui mừng hớn hở
Ngồi trên xe báu đó
Dạo đi khắp bốn phương
Vui chơi nhiều khoái lạc
Tự tại không ngăn ngại.
Bảo Xá-Lợi-Phất này
Đức Phật cũng như vậy
Tôn cả trong hàng Thánh
Cha lành của trong đời
Tất cả các chúng sanh
Đều là con của ta
Say mê theo thế lạc
Không có chút huệ tâm
Ba cơi hiểm không an
Dường như nhà lửa cháy
Các nạn khổ dẫy đầy
Rất đáng nên ghê sợ
Thường có những sanh, già
Bệnh, chết và rầu lo
Các thứ lửa như thế
Cháy hừng chẳng tắt dứt
Đức Như-Lai đă ĺa
Nhà lửa ba cơi đó
Vắng lặng ở thong thả
An ổn trong rừng nội
Hiện nay ba cơi này
Đều là của ta cả
Những chúng sanh trong đó
Cũng là con của ta
Mà nay trong ba cơi
Có nhiều thứ hoạn nạn
Chỉ riêng một ḿnh ta
Có thể cứu hộ chúng
Dầu lại đă dạy bảo
Mà vẫn không tin nhận
V́ nơi các dục nhiễm
Rất sanh ḷng tham mê
Bởi thế nên phương tiện
V́ chúng nói ba thừa
Khiến cho các chúng sanh
Rơ ba cơi là khổ
Mở bày cùng diễn nói
Những đạo pháp xuất thế,
Các người con đó thảy
Nếu nơi tâm quyết định
Đầy đủ ba món minh (13)
Và sáu món thần thông (14)
Có người được Duyên-Giác
Hoặc bất thối Bồ-Tát.
Xá-Lợi-Phất phải biết
Ta v́ các chúng sanh
Dùng món thí dụ này
Để nói một Phật-thừa
Các ông nếu có thể
Tin nhận lời nói đây
Tất cả người đều sẽ
Chứng thành quả Phật đạo
Phật thừa đây vi diệu
Rất thanh tịnh thứ nhất
Ở trong các thế giới
Không c̣n pháp nào trên
Của các Phật vui ưa,
Tất cả hàng chúng sanh
Đều phải nên khen ngợi
Và cúng dường lễ bái
Đủ vô lượng ngh́n ức
Các trí lực, giải thoát
Thiền định và trí huệ
Cùng pháp khác của Phật
Chứng được thừa như thế
Khắp cho các con thảy
Ngày đêm cùng kiếp số
Thường được ngồi dạo chơi
Cho các hàng Bồ-Tát
Cùng với chúng Thanh-văn
Nương nơi thừa báu này
Mà thẳng đến đạo tràng.
V́ bởi nhân duyên đó
T́m kỹ khắp mười phương
Lại không thừa nào khác
Trừ Phật dùng phương tiện
Bảo với Xá-Lợi-Phất!
Bọn ông các người thảy
Đều là con của ta
Ta thời là cha lành.
Các ông trải nhiều kiếp
Bị các sự khổ đốt
Ta đều đă cứu vớt
Cho ra khỏi ba cơi
Ta dầu ngày trước nói
Các ông được diệt độ
Nhưng chỉ hết sanh tử
Mà thật thời chẳng diệt
Nay việc nên phải làm
Chỉ có trí huệ Phật.
Nếu có Bồ-Tát nào
Ở trong hàng chúng này
Có thể một ḷng nghe
Pháp thật của các Phật,
Các đức Phật Thế-Tôn
Dầu dùng chước phương tiện
Mà chúng sanh được độ
Đều là Bồ-Tát cả
Nếu có người trí nhỏ
Quá mê nơi ái dục
Phật bèn v́ bọn này
Mà nói lư khổ-đế,
Chúng sanh nghe ḷng mừng
Được điều chưa từng có
Đức Phật nói khổ-đế,
Chơn thật không sai khác
Nếu lại có chúng sanh
Không rơ biết gốc khổ
Quá say nơi khổ nhân
Chẳng tạm rời bỏ được
Phật v́ hạng người này
Dùng phương tiện nói dạy
Nguyên nhân có các khổ
Tham dục là cội gốc
Nếu dứt được tham dục
Khổ không chỗ nương đỗ
Dứt hết hẳn các khổ
Gọi là đế thứ ba
V́ chứng diệt-đế vậy
Mà tu hành đạo-đế
Ĺa hết các khổ phược
Gọi đó là giải thoát
Người đó nơi pháp ǵ
Mà nói được giải thoát?
Chỉ xa rời hy vọng
Gọi đó là giải thoát
Kỳ thực chưa phải được
Giải thoát hẳn tất cả
Đức Phật nói người đó
Chưa phải thật diệt độ
V́ người đó chưa được
Đạo quả vô thượng vậy.
Ư của ta không muốn
Cho đó đến diệt độ,
Ta là đấng Pháp-vương
Tự tại nơi các Pháp
V́ an ổn chúng sanh
Nên hiện ra nơi đời.
Xá-Lợi-Phất phải biết
Pháp ấn của ta đây
V́ muốn làm lợi ích
Cho thế gian nên nói
Tại chỗ ông đi qua
Chớ có vọng tuyên truyền.
Nếu có người nghe đến
Tùy hỷ kính nhận lấy
Phải biết rằng người ấy
Là bậc bất-thối-chuyển
Nếu có người tin nhận
Kinh pháp vô thượng này.
Thời người đó đă từng
Thấy các Phật quá khứ
Cung kính và cúng dường
Cũng được nghe pháp này.
Nếu người nào có thể
Tin chịu lời ông nói
Thời chính là thấy Ta
Cũng là thấy nơi ông
Cùng các chúng Tỳ-kheo
Và các hàng Bồ-Tát.
Phật v́ người trí sâu
Nói kinh Pháp-Hoa này
Kẻ thức cạn nghe đến
Mê lầm không hiểu được.
Tất cả hàng Thanh-văn
Cùng với Bích-chi-Phật
Ở trong kinh pháp này
Sức kia không hiểu được.
Chính ông Xá-Lợi-Phất
Hăy c̣n nơi kinh này
Dùng ḷng tin được vào
Huống là Thanh-văn khác.
Bao nhiêu Thanh-văn khác
Do tin theo lời Phật
Mà tùy thuận kinh này
Chẳng phải trí của ḿnh.
Lại này Xá-Lợi-Phất!
Kẻ kiêu mạn biếng lười
Vọng so chấp lấy ngă
Chớ v́ nói kinh này,
Hạng phàm phu biết cạn
Quá mê năm món dục
Nghe pháp không hiểu được
Cũng chẳng nên v́ nói.
Nếu có người không tin
Khinh hủy chê kinh này
Thời là dứt tất cả
Giống Phật ở thế gian.
Nếu có người sịu mặt
Mà ôm ḷng nghi hoặc
Ông nên lóng nghe nói
Tội báo của người đó
Hoặc Phật c̣n tại thế
Hoặc sau khi diệt độ
Nếu có người chê bai
Kinh điển như thế này
Thấy có người đọc tụng
Biên chép thọ tŕ kinh
Rồi khinh tiện ghét ghen
Mà ôm ḷng kết hờn
Tội báo của người đó
Ông nay lại lóng nghe.
Người đó khi mạng chung
Sa vào ngục A-tỳ
Đầy đủ một kiếp chẵn
Kiếp măn hết lại sanh
Cứ xoay vần như thế
Nhẫn đến vô số kiếp.
Từ trong địa ngục ra
Sẽ đọa vào súc sanh,
Hoặc làm chó, dă-can
Thân thể nó ốm gầy
Đen điu thêm ghẻ lác
Bị người thường chọc ghẹo
Lại c̣n phải bị người
Gớm nhờm và ghét rẻ
Thường ngày đói khát khổ
Xương thịt đều khô khan,
Lúc sống chịu khổ sở
Chết bị ném ngói đá
V́ đoạn mất giống Phật
Nên thọ tội báo đó
Hoặc sanh làm lạc đà
Hoặc sanh vào loài lừa
Thân thường mang kéo nặng
Lại thêm bị đánh đập
Chỉ nhớ tưởng: nước, cỏ
Ngoài ra không biết ǵ
V́ khinh chê kinh này
Mà mắc tội như vậy
Có khi làm dă-can
Đi vào trong xóm làng
Thân thể đầy ghẻ lác
Lại chột hết một mắt
Bị bọn trẻ nhỏ vây
Theo đánh đập liệng ném
Chịu nhiều các đau khổ
Hoặc có lúc phải chết
Ở đây vừa chết rồi
Liền lại thọ thân rắn
Thân thể nó dài lớn
Đến năm trăm do tuần
Điếc ngây và không chân
Lăn lóc đi bằng bụng
Bị các loài trùng nhỏ
Cắn rúc ăn thịt máu
Bị khổ cả ngày đêm
Không tạm có ngừng nghỉ
V́ khinh chê kinh này
Mà mắc tội như vậy.
Nếu được sanh làm người
Các căn đều ám độn
Lùn xấu lại lệch què
Đui điếc thêm lưng gù
Có nói ra lời ǵ
Mọi người không tin nhận
Hơi miệng thường hôi thối
Bị quỷ mị dựa nhập
Nghèo cùng rất hèn hạ
Bị người sai khiến luôn,
Nhiều bệnh thân ốm gầy
Không có chỗ cậy nhờ
Dù nương gần với người
Mà người chẳng để ư
Nếu có được điều chi
Thời liền lại quên mất,
Nếu học qua nghề thuốc
Theo đúng phép trị bịnh
Mà bệnh người nặng thêm
Hoặc có khi đến chết,
Nếu tự ḿnh có bệnh
Không người chữa lành được
Dù có uống thuốc hay
Mà bệnh càng thêm nặng,
Hoặc người khác phản nghịch
Cướp giật trộm lấy của
Các tội dường thế đó
Lại tự mang vạ lây.
Những người tội như đây
Trọn không thấy được Phật
Là vua trong hàng Thánh
Thường nói pháp giáo hóa
Những người tội như đây
Thường sanh chỗ hoạn nạn
Tâm cuồng loạn, tai điếc
Trọn không nghe pháp được,
Trải qua vô số kiếp
Như số cát sông Hằng
Sanh ra liền điếc câm
Các căn chẳng đầy đủ
Thường ở trong địa ngục
Như dạo chơi vườn nhà,
Ở tại các đạo khác
Như ở nhà cửa ḿnh
Lạc đà, lừa, lợn, chó
Là chỗ kia thường đi
V́ khinh chê kinh này
Mắc tội dường thế đó.
Nếu được sanh làm người
Điếc, đui lại câm, ngọng
Nghèo cùng các tướng suy
Dùng đó tự trang nghiêm.
Sưng bủng bệnh khô khát
Ghẻ, lác, cùng ung thư
Các bệnh như trên đó
Dùng làm y phục mặc,
Thân thể thường hôi hám
Nhơ nhớp không hề sạch
Ḷng chấp ngă sâu chặt
Thêm nhiều tánh giận hờn
T́nh dâm dục hẫy hừng
Đến chẳng chừa cầm thú,
V́ khinh chê kinh này
Mắc tội dường thế đó.
Bảo cho Xá-Lợi-Phất!
Người khinh chê kinh này
Nếu kể nói tội kia
Cùng kiếp cũng chẳng hết
V́ bởi nhân duyên đó
Ta vẫn bảo các ông
Trong nhóm người vô trí
Chớ nên nói kinh này
Nếu có người lợi căn
Sức trí huệ sáng láng
Học rộng và nhớ dai
Ḷng mong cầu Phật đạo
Những hạng người như thế
Mới nên v́ đó nói
Nếu có người đă từng
Thấy trăm ngh́n ức Phật
Trồng các cội đức lành
Thâm tâm rất bền vững
Hạng người được như thế
Mới nên v́ đó nói.
Nếu có người tinh tấn
Thường tu tập ḷng từ
Chẳng hề tiếc thân mạng
Mới nên v́ đó nói
Nếu có người cung kính
Không có sanh ḷng khác
Ĺa xa các phàm phu
Ở riêng trong núi thẩm
Những hạng người như thế
Mới nên v́ đó nói
Lại Xá-Lợi-Phất này!
Nếu thấy có người nào
Rời bỏ ác tri-thức
Gần gũi bạn hiền lành
Người được như thế ấy
Mới nên v́ đó nói.
Nếu thấy hàng Phật tử
Giữ giới hạnh trong sạch
Như minh châu sáng sạch
Ham cầu kinh Đại thừa
Những người được như thế
Mới nên v́ đó nói.
Nếu người không ḷng giận
Chắc thật ư dịu ḥa
Thường thương xót mọi loài
Cung kính các đức Phật
Hạng người tốt như thế
Mới nên v́ đó nói.
Lại có hàng Phật tử
Ở tại trong đại chúng
Thuần dùng ḷng thanh tịnh
Các món nhân cùng duyên
Thí dụ và lời lẽ
Nói pháp không chướng ngại
Những người như thế ấy
Mới nên v́ đó nói
Nếu có vị Tỳ-kheo
V́ cầu nhứt-thiết-trí
Khắp bốn phương cầu pháp
Chắp tay cung kính thọ
Chỉ ưa muốn thọ tŕ
Kinh điển về Đại-thừa
Nhẫn đến không hề thọ
Một bài kệ kinh khác
Hạng người được như thế
Mới nên v́ đó nói.
Như có người chí tâm
Cầu xá-lợi của Phật
Cầu kinh cũng như thế
Được rồi đỉnh lễ thọï
Người đó chẳng c̣n lại
Có ḷng cầu kinh khác
Cũng chưa từng nghĩ tưởng
Đến sách vở ngoại đạo
Người được như thế ấy
Mới nên v́ đó nói.
Bảo cùng Xá-Lợi-Phất!
Ta nói các sự tướng
Của người cầu Phật đạo
Cùng kiếp cũng chẳng hết
Những người như thế đó
Thời có thể tin hiểu
Ông nên v́ họ nói
Kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa.
04 - PHẨM “TÍN GIẢI”
Lúc bấy giờ, các Ngài Tuệ-Mệnh Tu-Bồ-Đề, Đại Ca-Chiên-Diên, Đại Ca-Diếp, Đại Mục-Kiền-Liên, từ nơi Phật được nghe pháp chưa từng có. Đức Thế-Tôn dự ghi cho Ngài Xá-Lợi-Phất sẽ thành vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác, sanh ḷng hy hữu hớn hở vui mừng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy sửa y phục trịch bày vai hữu, gối hữu chấm đất, một ḷng chấp tay cúi ḿnh cung kính chiêm ngưỡng dung nhan Phật mà bạch cùng Phật rằng: "Chúng con ở đầu trong hàng Tăng, tuổi đều già lụn, tự cho đă được Niết-bàn không kham nhiệm ǵ nữa, chẳng c̣n thẳng cầu thêm đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác.
Đức Thế-Tôn thuở trước nói pháp đă lâu, lúc đó chúng con ngồi nơi ṭa thân thể mỏi mệt, chỉ nhớ nghĩ ba pháp: Không, vô tướng, vô tác, đối với các pháp du hư thần thông, tịnh cơi nước Phật, độ thoát chúng sanh của Bồ-Tát, ḷng chúng con không ưa thích.
V́ sao? Đức Thế-Tôn khiến chúng con ra khỏi ba cơi được chứng Niết-bàn, lại nay đây chúng con tuổi đă già nua ở nơi đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác của Phật dạy Bồ-Tát không hề sanh một niệm ưa thích. Chúng con hôm nay ở trước Phật nghe thọ kư cho Thanh-văn sẽ được vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác, ḷng rất vui mừng được pháp chưa từng có, chẳng ngờ hôm nay bỗng nhiên được pháp hy hữu, tự rất mừng may được lợi lành lớn, vô lượng trân báu chẳng t́m cầu mà tự được.
Thế-Tôn! chúng con hôm nay xin nói thí dụ để chỉ rơ nghĩa đó.
Thí như có người tuổi thơ bé, bỏ cha trốn đi qua ở lâu nơi nước khác, hoặc mười, hai mươi đến năm mươi năm; người đó tuổi đă lớn lại thêm nghèo cùng khốn khổ, dong ruổi bốn phương để cầu đồ mặc vật ăn, dạo đi lần lần t́nh cờ về bổn quốc.
Người cha từ trước đến nay, t́m con không được bèn ở lại tại một thành trong nước đó. Nhà ông giàu lớn của báu vô lượng, các kho đụn, vàng, bạc, lưu ly, san-hô, hổ-phách, pha lê, châu ngọc v.v... thảy đều đầy tràn; tôi tớ, thần tá, lại dân rất đông, voi, ngựa, xe cộ ḅ dê nhiều vô số. Cho vay thâu vào lời lăi khắp đến nước khác, khách thương buôn bán cũng rất đông nhiều.
Bấy giờ, gă nghèo kia dạo đến các tụ lạc, trải qua xóm làng, lần hồi đến nơi thành của người cha ở.
Người cha hằng nhớ con, cùng con biệt ly hơn năm mươi năm mà ông vẫn chưa từng đối với người nói việc như thế, chỉ tự suy nghĩ già nua và có nhiều của cải, vàng bạc, trân báu, kho đụn tràn đầy, không có con cái, một mai mà chết mất th́ của cải tản thất không người giao phó. Cho nên ân cần nhớ luôn đến con. Ông lại nghĩ: Nếu ta gặp được con ủy phó của cải, thản nhiên khoái lạc không c̣n sầu lo.
Thưa Thế-Tôn! Bấy giờ gă cùng tử làm thuê làm mướn lần hồi t́nh cờ đến nhà người cha bèn đứng lại bên cửa, xa thấy cha ngồi giường sư tử, ghế báu đỡ chân, các hàng Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, Cư-sĩ đều cung kính bao quanh. Trên thân ông đó dùng chuổi ngọc chân châu giá trị ngh́n vạn để trang nghiêm, kẻ lại dân tôi tớ tay cầm phất trần trắng đứng hầu hai bên. Màn báu che trên, những phan đẹp tḥng xuống, nước thơm rưới đất, rải các thứ danh hoa, các vật báu chưng bày, phát ra, thâu vào, lấy, cho v.v... có các sự nghiêm sức dường ấy, uy đức rất tôn trọng.
Gă cùng tử thấy cha có thế lực lớn liền sanh ḷng lo sợ, hối hận về việc đến nhà này, nó thầm nghĩ rằng: "Ông này chắc là vua, hoặc là bậc đồng vua, chẳng phải là chỗ của ta làm thuê mướn được tiền vật.
Chẳng bằng ta qua đến xóm nghèo có chỗ cho ta ra sức dễ được đồ mặc vật ăn, nếu như ta đứng lâu ở đây hoặc rồi họ sẽ bức ngặt ép sai ta làm". Gă nghĩ như thế rồi, liền chạy mau đi thẳng.
Khi đó, ông Trưởng-giả ngồi nơi ṭa sư tử thấy con bèn nhớ biết, ḷng rất vui mừng mà tự nghĩ rằng: “Của cải kho tàng của ta nay đă có người giao phó rồi, ta thường nghĩ nhớ đứa con này làm sao gặp được, nay bỗng nó tự đến rất vừa chỗ muốn của ta, ta dầu tuổi già có vẫn thương tiếc”. Ông liền sai người hầu cận đuổi gấp theo bắt lại.
Lúc ấy, kẻ sứ giả chạy mau qua bắt, gă cùng tử kinh ngạc lớn tiếng kêu oan: "Tôi không hề xúc phạm, cớ sao lại bị bắt?" Kẻ sứ giả bắt đó càng gấp cưỡng dắt đem về. Khi đó gă cùng tử tự nghĩ không tội chi mà bị bắt bớ đây chắc định phải chết, lại càng sợ sệt mê ngất ngă xuống đất.
Người cha xa thấy vậy bèn nói với kẻ sứ giả rằng: "Không cần người đó, chớ cưỡng đem đến, lấy nước lạnh rưới trên mặt cho nó tỉnh lại đừng nói chi với nó".
V́ sao? Cha biết con ḿnh chí ư hạ liệt, tự biết ḿnh giàu sang làm khiếp sợ cho con. Biết chắc là con rồi mà dùng phương tiện chẳng nói với người khác biết là con ḿnh. Kẻ sứ giả nói với cùng tử: "Nay ta thả ngươi đi đâu tùy ư".
Gă cùng tử vui mừng được điều chưa từng có, từ dưới đất đứng dậy, qua đến xóm nghèo để t́m cầu sự ăn mặc.
Bấy giờ ông Trưởng-giả toan muốn dụ dẫn người con mà bày chước phương tiện, mật sai hai người, h́nh sắc tiều tụy không có oai đức: “Hai người nên qua xóm kia từ từ nói với gă cùng tử, nơi đây có chỗ làm trả giá gấp bội. Gă cùng tử nếu chịu thời dắt về đây khiến làm. Nếu nó có hỏi muốn sai làm ǵ? Th́ nên nói với nó rằng: Thuê người hốt phân, chúng ta hai người cũng cùng ngươi chung nhau làm.” Khi đó hai người sứ liền t́m gă cùng tử, rồi thuật đủ việc như trên.
Bấy giờ gă cùng tử trước hỏi lấy giá cả liền đến hốt phân. Người cha thấy con, thương xót và quái lạ. Lại một ngày khác ông ở trong cửa sổ xa thấy con ốm o tiều tụy, phân đất bụi bặm dơ dáy không sạch. Ông liền cởi chuỗi ngọc, áo tốt mịn màng cùng đồ trang sức, lại mặc áo thô rách trỉn dơ, bụi đất lấm thân, tay mặt cầm đồ hốt phân, bộ dạng đáng nể sợ, bảo những người làm rằng: “Các ngươi phải siêng làm việc chớ nên lười nghỉ!” Dùng phương tiện đó được đến gần người con.
Lúc sau lại bảo con rằng: "Gă nam tử này! Ngươi thường làm ở đây đừng lại đi nơi khác, ta sẽ trả thêm giá cho ngươi; những đồ cần dùng như loại bồn, chậu, gạo, bột, muối, dấm, ngươi chớ tự nghi ngại. Cũng có kẻ tớ già hèn hạ, nếu cần ta cấp cho, nên phải an ḷng, ta như cha của ngươi chớ có sầu lo".
V́ sao? V́ ta tuổi tác già lớn mà ngươi th́ trẻ mạnh, ngươi thường trong lúc làm việc không ḷng dối khi trễ nải giận hờn nói lời thán oán, đều không thấy ngươi có các điều xấu đó như các người làm công khác. Từ ngày nay nhẫn sau như con đẻ của ta. Tức thời Trưởng-giả lại đặt tên cho cùng tử gọi đó là "con".
Khi đó gă cùng tử, dầu mừng việc t́nh cờ đó song vẫn c̣n tự cho ḿnh là khách, là người làm công hèn, v́ cớ đó mà trong hai mươi năm thường sai hốt phân, sau đó ḷng gă mới lần thể tin ra vào không ngại sợ, nhưng chỗ gă ở cũng vẫn nguyên chỗ cũ.
Thế-Tôn! Bấy giờ Trưởng-giả có bệnh, tự biết ḿnh không bao lâu sẽ chết mới bảo cùng tử rằng: "Ta nay rất nhiều vàng bạc, trân, báu, kho đụn tràn đầy, trong đó nhiều ít chỗ đáng xài dùng ngươi phải biết hết đó. Ḷng ta như thế, ngươi nên thể theo ư ta.
V́ sao? Nay ta cùng ngươi bèn là không khác, nên gắng dụng tâm chớ để sót mất". Khi ấy cùng tử liền nhận lời bảo lănh biết các của vật, vàng, bạc, trân, báu và các kho tàng, mà trọn không có ư mong lấy của đáng chừng bữa ăn, chỗ của gă ở vẫn tại chỗ cũ, tâm chí hạ liệt cũng chưa bỏ được.
Lại trải qua ít lâu sau, cha biết ư chí con lần đă thông thái trọn nên chí lớn, tự chê tâm ngày trước. Đến giờ sắp chết, ông gọi người con đến và hội cả thân tộc, quốc-vương, quan đại-thần, ḍng sát-lợi, hàng cư-sĩ, khi đă nhóm xong, ông liền tự tuyên rằng: "Các ngài nên rơ, người này là con ta, của ta sanh ra, ngày trước trong thành nọ, bỏ ta trốn đi, nổi trôi khổ sở, hơn năm mươi năm, nó vốn tên ấy, c̣n ta tên ấy. Xưa ta ở tại thành này ḷng lo lắng t́m kiếm, bỗng ở nơi đây gặp được nó. Nó thật là con ta, ta thật là cha nó. Nay ta có tất cả bao nhiêu của cải, đều là của con ta có, trước đây của cải cho ra thâu vào, con ta đây coi biết."
Thế-Tôn! Khi đó gả cùng tử nghe cha nói như thế, liền rất vui mừng được điều chưa từng có, mà nghĩ rằng: "Ta vốn không có ḷng mong cầu, nay kho tàng báu này tự nhiên mà đến".
Thế-Tôn ! Ông phú Trưởng-giả đó là đức Như-Lai, c̣n chúng con đều giống như con của Phật. Đức Như-Lai thường nói chúng con là con.
Thưa Thế-Tôn! Chúng con v́ ba món khổ (16) nên ở trong sanh tử chịu các sự đau đớn mê lầm không hiểu biết, ưa thích các pháp tiểu thừa. Ngày nay đức Thế-Tôn khiến chúng con suy nghĩ dọn trừ những phân dơ các pháp hư luận (17). Chúng con ở trong đó siêng gắng tinh tấn được đến Niết-bàn, cái giá một ngày. Đă được đây rồi ḷng rất vui mừng tự cho là đủ, mà tự nói rằng: Ở trong pháp của Phật; do siêng năng tinh tấn nên chỗ được rộng nhiều.
Nhưng đức Thế-Tôn trước biết chúng con ḷng ưa muốn sự hèn tệ, ham nơi pháp tiểu thừa, chúng con không bị Phật buông bỏ chẳng v́ phân biệt rằng: Các ông sẽ có phần bảo tàng tri kiến của Như-Lai.
Đức Thế-Tôn dùng sức phương tiện nói bày trí huệ của Như-Lai. Chúng con theo Phật được giá Niết-bàn một ngày, cho là nhiều rồi, đối với pháp Đại-thừa này không có chí cầu. Chúng con lại nhân trí huệ của Phật, v́ các vị Bồ-Tát mà chỉ bày diễn nói, nhưng chính tự ḿnh lại không có chí muốn nơi pháp đó.
V́ sao? Đức Phật biết chúng con ưa nơi pháp tiểu thừa, nên dùng sức phương tiện thuận theo chúng con mà nói pháp, chúng con không tự biết thật là Phật tử. Ngày nay chúng con mới biết đức Thế-Tôn ở nơi trí huệ của Phật không có lẫn tiếc.
V́ sao? Chúng con từ xưa đến nay thật là Phật tử mà chỉ ưa nơi pháp tiểu thừa, nếu chúng con có tâm ham Đại-thừa, thời Phật v́ chúng con mà nói pháp Đại-thừa. Ở trong kinh này chỉ nói pháp nhứt thừa. Lúc xưa đức Phật ở trước Bồ-Tát chê trách Thanh-văn ham pháp tiểu thừa.
Nhưng đức Phật thực dùng Đại-thừa để giáo hóa, v́ thế nên chúng con nói vốn không có ḷng mong cầu mà nay báu lớn của đấng Pháp-vương tự nhiên đến, như chỗ nên được của Phật tử đều đă được có.
Bấy giờ ngài Ma-ha Ca-Diếp muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Chúng con ngày hôm nay
Nghe âm giáo của Phật
Ḷng hớn hở mừng rỡ
Được pháp chưa từng có.
Phật nói hàng Thanh-văn
Sẽ được thành quả Phật
Đống châu báu vô thượng
Chẳng cầu tự nhiên được.
Ví như gă đồng tử
Thơ bé không hiểu biết
Bỏ cha trốn chạy đi
Đến cơi nước xa khác
Nổi trôi khắp nước ngoài
Hơn năm mươi năm dài
Cha gă ḷng buồn nhớ
Kiếm t́m khắp bốn phương
Kiếm t́m đó đă mỏi
Liền ở lại một thành
Xây dựng nên nhà cửa
Năm món dục tự vui.
Nhà ông giàu có lớn
Nhiều những kho vàng, bạc
Xa-cừ, ngọc mă-năo
Trân châu, ngọc lưu ly
Voi ngựa cùng trâu dê
Kiệu, cán đủ xe cộ
Ruộng đất và tôi tớ
Nhân dân rất đông nhiều
Xuất nhập thâu lời lăi
Bèn khắp đến nước khác
Khách thương người buôn bán
Không xứ nào không có,
Ngh́n muôn ức chúng hội
Vây quanh cung kính ông,
Thường được bậc vua chúa
Mến yêu nhớ tưởng đến,
Các quan, hạng hào tộc
Đều cũng đồng tôn trọng
V́ có các sự duyên
Người tới lui rất đông,
Giàu mạnh như thế đó
Có thế lực rất lớn
Mà tuổi đă già nua
Lại càng buồn nhớ con
Ngày đêm luống suy nghĩ
Giờ chết toan sắp đến
Con thơ dại bỏ ta
Hơn năm mươi năm tṛn,
Các của vật kho tàng
Sẽ phải làm thế nào?
Bấy giờ gă cùng tử
Đi t́m cầu ăn mặc
Ấp này đến ấp khác
Nước này sang nước nọ,
Hoặc có khi được của
Hoặc có khi không được,
Đói thiếu h́nh gầy g̣
Thân thể sanh ghẻ lác.
Lần lựa đi trải qua
Đến thành cha gă ở
Xoay vần làm thuê mướn
Bèn đến trước nhà cha.
Lúc ấy ông Trưởng-giả
Đang ở trong nhà ông
Giăng màn châu báu lớn
Ngồi ṭa sư-tử cao
Hàng quyến thuộc vây quanh
Đông người đứng hầu hạ,
Hoặc có người tính toán
Vàng, bạc, cùng vật báu
Của cải ra hoặc vào
Biên chép ghi giấy tờ.
Gă cùng tử thấy cha
Quá mạnh giàu tôn nghiêm
Cho là vị quốc-vương
Hoặc là đồng bậc vua,
Kinh sợ tự trách thầm
Tại sao lại đến đây?
Lại thầm tự nghĩ rằng:
Nếu ta đứng đây lâu
Hoặc sẽ bị bức ngặt
Ép buộc sai khiến làm.
Suy nghĩ thế đó rồi
Rảo chạy mà đi thẳng
Hỏi thăm xóm nghèo nàn
Muốn qua làm thuê mướn.
Lúc bấy giờ Trưởng-giả
Ngồi trên ṭa sư-tử
Xa trông thấy con ḿnh
Thầm lặng mà ghi nhớ,
Ông liền bảo kẻ sứ
Đuổi theo bắt đem về.
Gă cùng tử sợ kêu
Mê ngất ngă trên đất
Người này theo bắt tôi
Chắc sẽ bị giết chết
Cần ǵ đồ ăn mặc
Khiến tôi đến thế này!
Trưởng-giả biết con ḿnh
Ngu dại ḷng hẹp hèn
Chẳng chịu tin lời ta
Chẳng tin ta là cha
Ông liền dùng phương tiện
Lại sai hai người khác
Mắt chột, thân lùn xấu
Hạng không có oai đức!
Các người nên bảo nó
Rằng ta sẽ thuê nó
Hốt dọn các phân nhơ
Trả giá bội cho nó.
Gă cùng tử nghe rồi
Vui mừng theo sứ về
V́ dọn các phân nhơ
Sạch sẽ các pḥng nhà
Trưởng-giả trong cửa sổ
Thường ngó thấy con ḿnh
Nghĩ con ḿnh ngu dại
Ưa thích làm việc hèn.
Lúc đó ông Trưởng-giả
Mặc y phục cũ rách
Tay cầm đồ hốt phân
Qua đến chỗ con làm
Phương tiện lần gần gũi
Bảo rằng: rán siêng làm!
Đă thêm giá cho ngươi
Và cho dầu thoa chân
Đồ ăn uống đầy đủ
Thêm đệm chiếu đầy ấm
Cặn kẽ nói thế này:
Ngươi nên siêng làm việc!
Rồi lại dịu dàng bảo
Như con thật của ta.
Ông Trưởng-giả có trí
Lần lần cho ra vào
Trải qua hai mươi năm
Coi sóc việc trong nhà,
Chỉ cho biết vàng, bạc,
Ngọc trân châu, pha-lê
Các vật ra hoặc vào
Đều khiến gă biết rơ.
Gă vẫn ở ngoài cửa
Nương náu nơi am tranh
Tự nghĩ phận nghèo nàn
Ta không có vật đó.
Cha biết ḷng con ḿnh
Lần lần đă rộng lớn
Muốn giao tài vật cho
Liền nhóm cả thân tộc
Quốc vương các đại thần
Hàng sát-lợi, cư-sĩ
Rồi ở trong chúng này
Tuyên nói chính con ta
Bỏ ta đi nước khác
Trải hơn năm mươi năm,
Từ gặp con đến nay
Đă hai mươi năm rồi
Ngày trước ở thành kia
Mà mất đứa con này
Ta đi t́m khắp nơi
Bèn đến ngụ nơi đây
Phàm của cải ta có
Nhà cửa cùng nhân dân
Thảy đều phó cho nó
Mặc t́nh nó tiêu dùng.
Người con nhớ xưa nghèo
Chí ư rất kém hèn
Nay ở nơi cha ḿnh
Được quá nhiều châu báu
Và cùng với nhà cửa
Gồm tất cả tài vật,
Ḷng rất đỗi vui mừng
Được điều chưa từng có.
Đức Phật cũng như thế
Biết con ưa tiểu thừa
Nên chưa từng nói rằng
Các ngươi sẽ thành Phật
Mà chỉ nói chúng con
Được có đức vô lậu
Trọn nên quả tiểu thừa
Hàng Thanh-văn đệ tử
Đức Phật bảo chúng con
Nói đạo pháp tối thượng
Người tu tập pháp này
Sẽ được thành Phật quả
Chúng con vâng lời Phật
V́ các Bồ-Tát lớn
Dùng các món nhân duyên
Cùng các món thí dụ
Bao nhiêu lời lẽ hay
Để nói đạo vô thượng.
Các hàng Phật tử thảy
Từ nơi con nghe pháp
Ngày đêm thường suy gẫm
Tinh tấn siêng tu tập.
Bấy giờ các đức Phật
Liền thọ kư cho kia:
Các ông ở đời sau
Sẽ được thành Phật đạo.
Pháp mầu rất bí tàng
Của tất cả các Phật
Chỉ để v́ Bồ-Tát
Mà dạy việc thật đó,
Nhưng chẳng v́ chúng con
Nói pháp chân yếu này
Như gă cùng tử kia
Được gần bên người cha
Dầu lănh biết các vật
Nhưng ḷng chẳng mong cầu,
Chúng con dầu diễn nói
Tạng pháp báu của Phật
Tự ḿnh không chí nguyện
Cũng lại như thế đó.
Chúng con diệt bề trong (18)
Tự cho là đă đủ
Chỉ xong được việc này
Lại không biết việc khác.
Chúng con dầu có nghe
Pháp tịnh cơi nước Phật
Cùng giáo hóa chúng sanh
Đều không ḷng ưa vui.
Như thế là v́ sao?
V́ tất cả các pháp
Thảy đều là không lặng
Không sanh cũng không diệt
Không lớn cũng không nhỏ
Vô lậu và vô vi,
Suy nghĩ thế đó rồi
Chẳng sanh ḷng ưa muốn.
Chúng con đă từ lâu
Đối với trí huệ Phật
Không tham không ưa thích
Lại không có chí nguyện,
Mà đối với pháp ḿnh
Cho đó là rốt ráo.
Chúng con từ lâu nay
Chuyên tu tập pháp không
Được thoát khỏi hoạn nạn
Khổ năo của ba cơi
Trụ trong thân rốt sau
Hữu dư y Niết-bàn (19)
Đức Phật dạy bảo ra
Chứng được đạo chẳng luống
Thời là đă có thể
Báo được ơn của Phật.
Chúng con dầu lại v́
Các hàng Phật tử thảy
Tuyên nói pháp Bồ-Tát
Để cầu chứng Phật đạo
Mà ḿnh đối pháp đó
Trọn không ḷng ham muốn
Đấng Đạo-Sư buông bỏ
V́ xem biết ḷng con
Ban đầu không khuyên gắng
Nói những lợi có thực
Như ông Trưởng-giả giàu
Biết con chí kém hèn
Bèn dùng sức phương tiện
Để ḥa phục tâm con
Vậy sau mới giao phó
Tất cả tài vật báu
Đức Phật cũng thế đó
Hiện ra việc ít có
Biết con ưa tiểu thừa
Bèn dùng sức phương tiện
Điều phục tâm của con
Rồi mới dạy trí lớn.
Chúng con ngày hôm nay
Được pháp chưa từng có
Chẳng phải chỗ trước mong
Mà nay tự nhiên được
Như gă cùng tử kia
Được vô lượng của báu
Thế-Tôn! Chúng con nay
Được đạo và chứng quả
Ở nơi pháp vô lậu
Được tuệ nhăn thanh tịnh
Chúng con từ lâu nay
Ǵn tịnh giới Phật chế
Mới ở ngày hôm nay
Được hưởng quả báo đó,
Trong pháp của Pháp-vương
Lâu tu-hành phạm hạnh
Ngày nay được vô lậu
Quả báo lớn vô thượng
Chúng con ngày hôm nay
Mới thật là Thanh-văn
Đem tiếng đạo của Phật
Cho tất cả đều nghe
Chúng con ngày hôm nay
Thật là A-la-hán
Ở nơi các thế gian
Trời, người và ma, phạm,
Khắp ở trong chúng đó
Đáng lănh của cúng dường
Ơn lớn của Thế-Tôn
Đem việc ít có này
Thương xót dạy bảo cho
Làm lợi ích chúng con
Trải vô lượng ức kiếp
Ai có thể đền được.
Tay lẫn chân cung cấp
Đầu đảnh lễ cung kính
Tất cả đều cúng dường
Đều không thể đền được.
Hoặc dùng đầu đội Phật
Hai vai cùng cơng vác
Trong kiếp số hằng sa
Tận tâm mà cung kính,
Lại đem dưng đồ ngon
Y phục báu vô lượng
Và các thứ đồ nằm
Cùng các món thuốc thang
Gỗ ngưu-đầu chiên-đàn
Và các vật trân báu
Để dựng xây tháp miếu
Y báu lót trên đất
Như các việc trên đây
Đem dùng cúng dường Phật
Trải kiếp số hằng sa
Cũng không đền đáp được.
Các Phật thật ít có
Đấng vô lượng vô biên
Đến bất-khả tư-ngh́
Đủ sức thần thông lớn,
Bậc vô lậu vô vi
Là vua của các Pháp
Hay v́ kẻ hạ liệt
Nhẫn việc cao thượng đó,
Hiện lấy tướng phàm phu
Tùy cơ nghi dạy nói
Các Phật ở nơi pháp
Được sức rất tự tại
Biết các hàng chúng sanh
Có những điều ưa muốn
Và chí lực của nó
Theo sức nó kham nhiệm
Dùng vô lượng thí dụ
Mà v́ chúng nói pháp
Tùy theo các chúng sanh
Trồng căn lành đời trước
Lại biết đă thành thục
Hay là chưa thành thục
Suy lường những điều đó
Phân biệt biết rơ rồi
Ở nơi đạo nhất thừa
Tùy cơ nghi nói ba.
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
| ML | Q 01 | Q 02 | Q 03 | Q 04 | Q 05 | Q 06 | Q 07 |
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
Hán Dịch: Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
QUYỂN 3
05 - PHẨM “DƯỢC THẢO DỤ”
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ngài Ma-ha Ca-Diếp và các vị đại đệ tử: "Hay thay! Hay thay! Ca-Diếp. Khéo nói được công đức chơn thật của đức Như-Lai. Đúng như lời các ông vừa nói; đức Như-Lai lại c̣n có vô lượng vô biên a-tăng-kỳ công đức, các ông dầu trải qua vô lượng ức kiếp nói cũng không hết được.
Ca-Diếp nên biết! Đức Như-Lai là vua của các pháp nếu có nói ra lời chi đều không hư dối vậy. Phật ở nơi tất cả pháp dùng sức trí huệ phương tiện mà diễn nói, pháp của Phật nói thảy đều đến bậïc nhứt-thiết-trí (1) . Đức Như-Lai xem biết chỗ quy thú (2) của tất cả pháp; cũng rơ biết chỗ tâm sở hành (3) của tất cả chúng sanh không thấu không ngại. Phật lại ở nơi các pháp rốt ráo rơ biết hết, chỉ bày tất cả trí huệ cho các chúng sanh.
Ca-Diếp! Thí như trong cơi tam-thiên đại-thiên nơi núi, sông, khe, hang, ruộng, đất sanh ra cây cối, lùm rừng và các cỏ thuốc, bao nhiêu giống loại tên gọi màu sắc đều khác. Mây dầy bủa giăng trùm khắp cơi tam-thiên đại-thiên (4) đồng thời mưa xối xuống, khắp nơi nhuần thấm, cây cối lùm rừng và các cỏ thuốc: hoặc thứ gốc nhỏ, thân nhỏ, nhánh nhỏ, lá nhỏ, hoặc thứ gốc chỉ vừa, thân vừa, nhánh vừa, lá vừa; hoặc có thứ gốc lớn, thân lớn, nhánh lớn, lá lớn.
Các giống cây lớn nhỏ, tùy hạng thượng trung hạ mà hấp thụ khác nhau. Một cụm mây tuôn mưa xuống xứng theo mỗi giống loại mà cây cỏ được sanh trưởng, đơm bông kết trái. Dầu rằng một cơi đất sanh, một trận mưa thấm nhuần mà các cỏ cây đều có sai khác.
Ca-Diếp nên biết! Đức Như-Lai cũng lại như thế, hiện ra nơi đời như là vừng mây lớn nổi lên, dùng giọng tiếng lớn vang khắp thế giới cả trời, người, A-tu-la, như mây lớn kia trùm khắp cơi nước tam-thiên đại-thiên. Phật ở trong đại chúng mà xướng lời nầy:
"Ta là đấng Như-Lai, Ứng-cúng, Chánh-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Điều-ngự trượng-phu, Thiên-Nhân-Sư, Phật Thế-Tôn. Người chưa được độ thời làm cho được độ, người chưa tỏ ngộ thời làm cho tỏ ngộ, người chưa an thời làm cho được an, người chưa chứng Niết-bàn thời làm cho chứng Niết-bàn, đời nay và đời sau Phật đều biết đúng như thật. Ta là bậc nhứt-thiết-trí, bậc nhứt-thiết-kiến, là bậc tri đạo, bậïc khai đạo, bậïc thuyết đạo. Các ngươi, hàng trời, người, A-tu-la đều nên đến đây v́ để nghe pháp vậy."
Bấy giờ có vô số ngh́n muôn ức loài chúng sanh đi đến chỗ, đức Như-Lai xem xét các căn lợi độn, tinh tấn hay giải đăi của chúng sanh đó, thuận vừa sức nó kham được mà v́ chúng nói pháp, chủng loại nhiều vô lượng, Phật đều khiến vui mừng được nhiều lợi lành. Các chúng sanh nầy nghe pháp rồi, hiện đời an ổn, đời sau sanh về chỗ lành, do đạo được thọ hưởng vui và cũng được nghe pháp, đă nghe pháp rồi ĺa khỏi các chướng ngại ở trong các pháp theo sức ḿnh kham được lần lần đều được vào đạo. Như mây lớn kia mưa rưới khắp tất cả cỏ cây lùm rừng và các cỏ thuốc, theo giống của mỗi thứ đều được đượm nhuần đầy đủ, đều được sanh trưởng. Đức Như-Lai nói pháp một tướng một vị, nghĩa là: Tướng giải thoát, tướng xa ĺa, tướng diệt, rốt ráo đến bậc "nhứt-thiết-chủng-trí". Có chúng sanh nào nghe pháp của Như-Lai hoặc thọ tŕ đọc tụng, đúng như lời mà tu hành, được công đức tự ḿnh không hay biết.
V́ sao? V́ chỉ có Như-Lai là biết chủng tướng thể tánh của chúng sanh đó: Nhớ việc ǵ? Nghĩ việc ǵ? Tu việc ǵ? Nhớ thế nào? Nghĩ thế nào? Tu thế nào?
Dùng pháp ǵ để nhớ? Dùng pháp ǵ để nghĩ? Dùng pháp ǵ để tu? Dùng pháp ǵ đặng pháp ǵ?
Chúng sanh ở nơi các bậïc, chỉ có đức Như-Lai thấy đó đúng như thật, rơ ràng không bị ngại. Như cây cối lùm rừng các cỏ thuốc kia không tự biết tánh thượng trung hạ của nó.
Đức Như-Lai biết pháp một tướng một vị ấy, nghĩa là: Tướng giải thoát, tướng xa ĺa, tướng diệt, tướng rốt ráo Niết-bàn thường tịch diệt, trọn về nơi không, Phật biết như thế rồi xem xét tâm ưa muốn của chúng sanh mà dắt d́u nó, cho nên chẳng liền v́ chúng vội nói “nhứt-thiết-chủng-trí.”
Ca-Diếp! Các ông rất là hy hữu, có thể biết rơ đức Như-Lai tùy cơ nghi nói pháp, hay tin hay nhận. V́ sao? V́ các đức Phật Thế-Tôn tùy cơ nghi nói pháp khó hiểu khó biết.
Khi đó đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Pháp Vương phá các cơi
Hiện ra trong thế gian
Theo tánh của chúng sanh
Dùng các cách nói pháp
Đức Như-Lai tôn trọng
Trí huệ rất sâu xa
Lâu giữ pháp yếu này
Chẳng vội liền nói ra
Người trí nếu được nghe
Thời có thể tin hiểu,
Kẻ không trí nghi hối
Thời bèn là mất hẳn.
Ca-Diếp! V́ cớ đó
Theo sức chúng nói pháp
Dùng các món nhân duyên
Cho chúng được chánh kiến
Ca-Diếp! ông nên biết
Thí như vừng mây lớn
Nổi lên trong thế gian
Che trùm khắp tất cả
Mây trí huệ chứa nhuần
Chớp nhoáng sáng chói ḷa
Tiếng sấm xa vang động
Khiến mọi loài vui đẹp
Nhậït quang bị che khuất
Trên mặt đất mát mẻ
Mây mù sa bủa gần
Dường có thể nắm tới.
Trận mưa đó khắp cùng
Bốn phương đều xối xuống
Ḍng nước tuôn vô lượng
Cơi đất đều rút đầy
Nơi núi sông hang hiểm
Chỗ rậm rợp sanh ra
Những cây cối cỏ thuốc
Các thứ cây lớn nhỏ
Trăm giống lúa mộng mạ
Các thứ mía cùng nho
Nhờ nước mưa đượm nhuần
Thảy đều tươi tốt cả.
Đất khô khắp được rưới
Thuốc cây đều sum sê
Vừng mây kia mưa xuống
Nước mưa thuần một vị
Mà cỏ cây lùm rừng
Tất cả các giống cây
Hạng thượng trung cùng hạ
Xứng theo tánh lớn nhỏ
Đều được sanh trưởng cả.
Gốc thân nhánh và lá
Trổ bông trái sắc vàng
Một trận mưa rưới đến
Cây cỏ đều thấm mướt
Theo thể tướng của nó
Tánh loại chia lớn nhỏ
Nước đượm nhuần vẫn một
Mà đều được sum sê.
Đức Phật cũng như thế
Hiện ra nơi trong đời
Ví như vầng mây lớn
Che trùm khắp tất cả
Đă hiện ra trong đời
Bèn v́ các chúng sanh
Phân biệt diễn nói bày
Nghĩa thật của các pháp
Đấng Đại-Thánh Thế-Tôn
Ở trong hàng trời người
Nơi tất cả chúng hội
Mà tuyên nói lời nầy:
Ta là bậc Như-Lai
Là đấng Lưỡng-Túc-Tôn (5)
Hiện ra nơi trong đời
Dường như vầng mây lớn
Thấm nhuần khắp tất cả
Những chúng sanh khổ khó
Đều làm cho ĺa khổ
Được an ổn vui sướng
Hưởng sự vui thế gian
Cùng sự vui Niết-bàn.
Các chúng trời người nầy
Một ḷng khéo lóng nghe
Đều nên đến cả đây
Ra mắt đấng vô thượng.
Ta là đấng Thế-Tôn
Không có ai bằng được
Muốn an ổn chúng sanh
Nên hiện ra trong đời
V́ các đại chúng nói
Pháp cam lồ trong sạch
Pháp đó thuần một vị
Giải thoát Niết-bàn thôi.
Dùng một giọng tiếng mầu
Diễn xướng nghĩa nhiệm nầy
Đều thường v́ Đại-thừa
Mà kết làm nhân duyên.
Ta xem tất cả chúng
Khắp đều b́nh đẳng cả
Không có ḷng bỉ thử
Cũng không có hạn ngại
Hằng v́ tất cả chúng
Mà b́nh đẳng nói pháp
Như khi v́ một người
Lúc chúng đông cũng vậy.
Thường diễn nói pháp luôn
Từng không việc ǵ khác
Ngồi, đứng, hoặc đến, đi
Trọn không hề nhàm mỏi
Đầy đủ cho thế gian
Như mưa khắp thấm nhuần
Sang hèn cùng thượng hạ
Giữ giới hay phá giới
Oai nghi được đầy đủ
Và chẳng được đầy đủ
Người chánh-kiến tà-kiến
Kẻ độn căn lợi căn
Khắp rưới cho mưa pháp
Mà không chút nhàm mỏi.
Tất cả hàng chúng sanh
Được nghe pháp của ta
Tùy sức ḿnh lănh lấy
Trụ ở các nơi các bậïc
Hoặc là ở trời, người
Làm Chuyển-luân thánh-vương
Trời Thích, Phạm, các vua
Đó là cỏ thuốc nhỏ
Hoặc rơ pháp vô lậu
Hay chứng được Niết-bàn
Khởi sáu pháp thần thông
Và được ba món minh
Ở riêng trong núi rừng
Thường hành môn thiền định
Chứng được bậc Duyên-giác
Là cỏ thuốc bậc trung.
Hoặc cầu bực Thế-Tôn
Ta sẽ được thành Phật
Tu hành tinh tấn, định
Là cỏ thuốc bậc thượng
Lại có hàng Phật tử
Chuyên tâm nơi Phật đạo
Thường thật hành từ bi
Tự biết ḿnh làm Phật
Quyết định không c̣n nghi
Gọi đó là cây nhỏ.
Hoặc an trụ thần thông
Chuyển bất thối pháp luân
Độ vô lượng muôn ức
Trăm ngh́n loài chúng sanh
Bồ-Tát hạng như thế
Gọi đó là cây lớn.
Phật chỉ b́nh đẳng nói
Như nước mưa một vị
Theo căn tánh chúng sanh
Mà hưởng thọ không đồng
Như những cỏ cây kia
Được đượm nhuần đều khác
Phật dùng món dụ nầy
Để phương tiện chỉ bày
Các thứ lời lẽ hay
Đều diễn nói một pháp
Ở nơi trí huệ Phật
Như một giọt trong biển.
Ta rưới trận mưa pháp
Đầy đủ khắp thế gian
Pháp mầu thuần một vị
Tùy sức riêng tu hành,
Như thể lùm rừng kia
Và cỏ thuốc những cây
Tùy giống lớn hay nhỏ
Lần lần thêm sum suê
Pháp của các đức Phật
Thường dùng thuần một vị
Khiến cho các thế gian
Đều khắp được đầy đủ
Lần lựa siêng tu hành
Rồi đều được đạo quả.
Hàng Thanh-văn, Duyên-giác,
Ở nơi chốn núi rừng,
Trụ thân h́nh rốt sau
Nghe Phật Pháp được quả
Nếu các vị Bồ-Tát
Trí huệ rất vững bền
Rơ suốt cả ba cơi
Cầu được thừa tối thượng
Đó gọi là cây nhỏ
Mà được thêm lớn tốt.
Lại có vị trụ thiền
Được sức thần thông lớn
Nghe nói các pháp không
Ḷng rất sanh vui mừng
Phóng vô số hào quang
Độ các loài chúng sanh
Đó gọi là cây lớn
Mà được thêm lớn tốt
Như thế, Ca-Diếp này!
Đức Phật nói pháp ra
Thí như vầng mây lớn
Dùng nước mưa một vị
Đượm nhuần nơi hoa người
Đều được kết trái cả.
Ca-Diếp ông phải biết
Ta dùng các nhân duyên
Các món thí dụ thảy
Để chỉ bày đạo Phật
Đó là ta phương tiện
Các đức Phật cũng thế
Nay ta v́ các ông
Nói việc rất chân thật
Các chúng thuộc Thanh-văn
Đều chẳng phải diệt độ
Chỗ các ông tu hành
Là đạo của Bồ-Tát
Lần lần tu học xong
Thảy đều sẽ thành Phật.
06 - PHẨM “THỌ KƯ”
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói bài kệ đó rồi, bảo các đại chúng xướng lời thế nầy: "Ông Ma-Ha Ca-Diếp, đệ tử của Ta, ở đời vị lai sẽ phụng thờ ba trăm muôn ức các đức Thế Tôn, cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen, rộng nói vô lượng đại pháp của các đức Phật, ở nơi thân rốt sau được thành Phật hiệu là Quang-Minh Như-Lai, Ứng-cúng, Chánh-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Điều-ngự trượng-phu, Thiên-nhân-sư, Phật Thế-Tôn.
Nước tên là Quang Đức, kiếp tên là Đại-Trang-Nghiêm. Phật thọ mười hai tiểu kiếp. Chánh pháp trụ thế hai mươi tiểu kiếp. Cơi nước tốt đẹp, không có các thứ dơ xấu, ngói sỏi gai góc cùng đồ tiện lợi chẳng sạch. Cơi đó bằng thẳng không có cao thấp hầm hố g̣ nổng, đất bằng lưu ly, cây báu thẳng giăng bên đường, rải các hoa báu khắp nơi sạch sẽ.
Bồ-Tát trong nước đó đông vô lượng ngh́n ức, các chúng Thanh-văn cũng lại vô số. Không có việc ma, dầu là có ma và dân ma, nhưng đều hộ tŕ Phật Pháp".
Bấy giờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Bảo các Tỳ-kheo rằng:
Ta dùng mắt của Phật
Thấy ông Ca-Diếp nầy
Ở nơi đời vị lai
Quá vô số kiếp sau
Sẽ được thành quả Phật,
Và ở đời vị lai
Cúng dường và kính thờ
Đủ ba trăm muôn ức
Các đức Phật Thế-Tôn.
V́ cầu trí huệ Phật
Mà tịnh tu phạm hạnh
Cúng dường đấng tối thượng
Nhị Túc-Tôn xong rồi
Tu tập trọn tất cả
Trí huệ bậc vô thượng
Ở nơi thân rốt sau
Được chứng thành làm Phật
Cơi đó rất thanh tịnh
Chất lưu ly làm đất
Nhiều thứ cây bằng báu
Thẳng hàng ở bên đường
Dây vàng giăng ngăn đường
Người ngó thấy vui mừng
Thường thoảng ra hương thơm
Rải rác thứ hoa đẹp
Các món báu kỳ diệu
Dùng để làm trang nghiêm
Cơi đó đất bằng thẳng
Không có những g̣ hầm.
Các hàng chúng Bồ-Tát
Đông không thể xưng kể
Tâm các vị ḥa dịu
Đều được thần thông lớn
Phụng tŕ các kinh điển
Đại thừa của các Phật.
Các hàng chúng Thanh-văn
Vô lậu thân rốt sau
Là con của Pháp-vương
Cũng chẳng thể kể hết
Nhẫn đến dùng thiên nhăn
Cũng chẳng thể đếm biết.
Phật đó sẽ sống lâu
Tuổi mười hai tiểu kiếp
Tượng pháp trụ ở đời
Cũng hai mươi tiểu kiếp
Đức Quang-Minh Thế-Tôn
Việc của ngài như thế.
Lúc bấy giờ, ngài đại Mục-Kiền-Liên, ngài Tu-Bồ-Đề, ngài đại Ca-Chiên-Diên v.v... thảy đều run sợ một ḷng chấp tay chiêm ngưỡng dung nhan của Phật, mắt không hề tạm rời, liền đồng tiếng nhau nói kệ rằng:
Thế-Tôn rất hùng mănh
Mà ban giọng tiếng Phật.
Nói rơ thâm tâm con
Được Phật thọ kư cho
Như dùng cam lộ rưới
Từ nóng được mát mẻ.
Như từ nước đói đến
Bỗng gặp cỗ tiệc vua
C̣n ôm ḷng nghi sợ
Chưa dám tự ăn liền
Nếu lại được vua bảo
Vậy sau mới dám ăn,
Chúng con cũng như vậy
Hằng nghĩ lỗi tiểu thừa
Chẳng biết làm thế nào
Được huệ vô thượng Phật,
Dầu nghe giọng tiếng Phật
Nói chúng con thành Phật
C̣n ôm ḷng lo sợ
Như chưa dám tự ăn
Nếu được Phật thọ kư
Mới là khoái an vui
Thế Tôn rất hùng mănh
Thường muốn an thế gian
Xin thọ kư chúng con
Như đói cần bảo ăn.
Lúc bấy giờ, Thế-Tôn biết tâm niệm của các vị đệ tử lớn bảo các thầy Tỳ-kheo rằng: “Ông Tu-Bồ-Đề đây đến đời vị lai phụng thờ ba trăm năm muôn ức na-do-tha (6) đức Phật, cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen, thường tu hạnh thanh tịnh, đủ đạo Bồ-Tát, ở thân rốt sau được thành Phật hiệu: Danh-tướng Như-Lai, Ứng-cúng, Chánh-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Điều-ngự-trượng-phu, Thiên-nhân-Sư, Phật Thế-Tôn.
Kiếp đó tên Hữu-Bảo, nước đó tên là Bảo-Sanh. Cơi đó bằng thẳng, đất bằng lưu ly, cây báu trang nghiêm, không có những g̣, hầm, cát, sỏi, gai chông cùng tiện lợi dơ dáy; hoa báu trải đất khắp nơi sạch sẽ, nhân dân cơi đó đều ở đài báu và lầu gác quí đẹp. Hàng đệ tử Thanh-văn đông vô lượng vô biên, tính kể cùng thí dụ đều không thể biết. Các chúng Bồ-Tát đông vô số ngh́n muôn ức na-do-tha.
Đức Phật thọ mười hai tiểu kiếp, chánh pháp trụ ở đời hai mươi tiểu kiếp, tượng pháp cũng trụ đời hai mươi tiểu kiếp, Đức Phật đó thường ở trên hư không v́ chúng nói pháp độ thoát đặng vô lượng Bồ-Tát cùng chúng Thanh-văn”.
Khi đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Các chúng Tỳ-kheo nầy!
Nay ta bảo các ông
Đều nên phải một ḷng
Lóng nghe lời ta nói.
Đệ tử lớn của ta
Là ông Tu-Bồ-Đề
Rồi sẽ được làm Phật
Hiệu gọi là Danh-Tướng
Sẽ phải cúng vô số
Muôn ức các đức Phật
Theo hạnh của Phật làm
Lần lần đủ đạo lớn.
Thân rốt sau sẽ được
Ba mươi hai tướng tốt
Xinh lịch đẹp đẽ lắm
Dường như núi báu lớn
Trang nghiêm sạch thứ nhất
Chúng sanh nào được thấy
Không ai chẳng ưa mến
Phật ở trong cơi đó
Độ thoát vô lượng chúng.
Trong pháp hội của Phật
Các Bồ-Tát đông nhiều
Thảy đều bực lợi căn
Chuyển pháp luân bất thối.
Cơi nước đó thường dùng
Bồ-Tát để trang nghiêm
Các chúng Thanh-văn lớn
Chẳng có thể đếm kể
Đều được ba món minh
Đủ sáu thứ thần thông
Trụ tám pháp giải thoát
Có oai đức rất lớn.
Đức Phật đó nói pháp
Hiện ra vô lượng món
Pháp thần thông biến hóa
Chẳng thể nghĩ bàn được.
Các hàng trời, nhân dân
Số đông như hằng sa
Đều cùng nhau chấp tay
Lóng nghe lời Phật dạy.
Đức Phật đó sẽ thọ
Tuổi mười hai tiểu kiếp
Chánh pháp trụ lại đời
Đủ hai mươi tiểu kiếp
Tượng pháp trụ ở đời
Cũng hai mươi tiểu kiếp.
Lúc bấy giờ, đức Thế-Tôn lại bảo các chúng Tỳ-kheo: “Ta nay nói với các ông, ông đại Ca-Chiên-Diên này ở đời vị lai, dùng các đồ cúng mà cúng dường phụng thờ tám ngh́n ức Phật cung kính tôn trọng. Sau khi các đức Phật diệt độ, ông đều dựng tháp miếu cao một ngh́n do tuần, ngang rộng ngay bằng năm trăm do tuần, tháp miếu đó dùng bảy món báu vàng, bạc, lưu ly, xa-cừ, mă-năo, trân châu và mai khôi hợp lại thành, cúng dường tháp miếu bằng các thứ hoa, chuỗi ngọc, hương xoa, hương bột, hương đốt, lọng nhiễu, tràng phan....
Sau thời kỳ đó sẽ lại cúng dường hai mươi muôn ức Phật cũng như trước, cúng dường các đức Phật đó rồi, đủ đạo Bồ-Tát sẽ được làm Phật hiệu: Diêm-Phù-Na-Đề-Kim-Quang Như-Lai, Ứng-cúng, Chánh-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Điều-ngự trượng-phu, Thiên-nhân-sư, Phật Thế-Tôn.
Cơi đó bằng thẳng, đất bằng pha lê, cây báu trang nghiêm, vàng ṛng làm bằng dây để giăng bên đường, hoa đẹp trải đất khắp nơi sạch sẽ. Người được thấy đều vui mừng, không có bốn đường dữ: Địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sanh và A-tu-la. Các trời cùng người rất đông, các chúng Thanh-văn và Bồ-Tát vô lượng muôn ức trang nghiêm nước đó. Đức Phật đó thọ mười hai tiểu kiếp, chánh pháp trụ ở đời hai mươi tiểu kiếp, tượng pháp cũng trụ hai mươi tiểu kiếp”.
Lúc đó, Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Các chúng Tỳ-kheo này!
Đều nên một ḷng nghe
Như lời của ta nói
Chơn thậät không khác lạ.
Ông Ca-Chiên-Diên này
Sau sẽ dùng các món
Đồ cúng dường tốt đẹp
Mà cúng dường các Phật
Các đức Phật diệt rồi
Dựng tháp bằng bảy báu
Cũng dùng hoa và hương
Để cúng dường xá-lợi.
Thân rốt sau của ông
Đặng trí huệ của Phật
Thành bậc Đẳng-chánh-giác
Cơi nước rất thanh tịnh
Độ thoát được vô lượng
Muôn ức hàng chúng sanh
Đều được mười phương khác
Thường đến kính cúng dường,
Ánh sáng của Phật đó
Không ai có thể hơn
Đức Phật đó hiệu là:
Diêm-Phù-Kim-Quang Phật
Bồ-Tát và Thanh-văn
Dứt tất cả hữu lậu
Đông vô lượng vô số
Trang nghiêm cơi nước đó.
Lúc bấy giờ, đức Thế-Tôn lại bảo trong đại chúng: “Ta nay nói với các ông, ông đại Mục-Kiền-Liên đây sẽ dùng các món đồ cúng, cúng dường tám ngh́n các đức Phật, cung kính tôn trọng. Sau khi các đức Phật diệt độ đều dựng tháp miếu cao, một ngh́n do tuần, ngang rộng thẳng bằng năm trăm do tuần, dùng bảy món báu: vàng bạc, mai khôi hợp lại thành. Đem các thứ hoa, chuỗi ngọc, hương xoa, hương bột, hương đốt, lọng nhiễu và tràng phan để cúng dường tháp.
Sau lúc ấy lại sẽ cúng dường, hai trăm muôn ức các đức Phật cũng như trước, rồi sẽ được thành Phật hiệu: Đa-Ma La-Bạt-Chiên-Đàn-Hương Như-Lai, Ứng-cúng, Chánh-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Điều-ngự-trượng-phu, Thiên-nhân-sư, Phật Thế-Tôn.
Kiếp đó tên là Hỷ-Măn, nước tên là Ư Lạc, cơi đó bằng thẳng, chất pha lê là đất, cây báu trang nghiêm, rải hoa trân châu khắp nơi sạch sẽ, người được thấy đều vui mừng. Các hàng trời người rất đông, Bồ-Tát và Thanh-văn số nhiều vô lượng, đức Phật đó thọ hai mươi bốn tiểu kiếp, tượng pháp cũng trụ bốn mươi hai tiểu kiếp”.
Khi đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Đệ tử của ta đây
Là đại Mục-Kiền-Liên
Bỏ thân người nầy rồi
Sẽ được gặp tám ngh́n
Hai trăm muôn ức vị
Các đức Phật Thế-Tôn
Ông v́ cầu Phật đạo
Nên cúng dường cung kính
Ở nơi các đức Phật
Thường tu tŕ phạm hạnh
Ở trong vô lượng kiếp
Phụng tŕ pháp của Phật.
Các đức Phật diệt rồi
Xây tháp bằng bảy báu
Tháp vàng rất cao rộng
Dùng hoa hương kỹ nhạc
Để dùng dâng cúng dường
Tháp miếu các đức Phật.
Lần lần được đầy đủ
Đạo hạnh Bồ-Tát rồi
Ở nơi nước Ư-Lạc
Mà được thành quả Phật
Hiệu là Đa-Ma-La
Bạt-Chiên-Đàn-Hương-Phật.
Đức Phật đó thọ mạng
Hai mươi bốn tiểu kiếp
Thường v́ hàng trời người
Mà diễn nói đạo Phật
Chúng Thanh-văn vô lượng
Như số cát sông Hằng
Đủ ba minh, sáu thông
Đều có oai đức lớn.
Bồ-Tát đông vô số
Chí bền ḷng tinh tấn
Ở nơi trí huệ Phật
Đều không hề thối chuyển.
Sau khi Phật diệt độ
Chánh pháp sẽ trụ đời
Đủ bốn mươi tiểu kiếp
Tượng pháp cũng như thế.
Các đệ tử của ta
Bậc oai đức đầy đủ
Số đó năm trăm người
Ta đều sẽ thọ kư
Ở nơi đời vị lai
Đều được chứng thành Phật
Ta cùng với các ông
Đời trước kết nhân duyên
Ta nay sẽ thuật nói
Các ông khéo lóng nghe.
07 - PHẨM “HÓA THÀNH DỤ”
Đức Phật bảo các thầy Tỳ-kheo: "Thuở quá khứ vô lượng vô biên bất khả tư ngh́ a-tăng-kỳ kiếp đă qua, lúc bấy giờ có đức Phật hiệu Đại-Thông Trí-Thắng Như -Lai, Ứng-cúng, Chánh-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Điều-ngự -phu, Thiên-nhân-sư, Phật Thế-Tôn.
Nước đó tên là Hảo-Thành, kiếp tên Đại-Tướng. Các Tỳ-kheo! Từ khi đức Phật đó diệt độ nhẫn đến nay rất là lâu xa, thí như địa chủng trong cơi tam-thiên đại-thiên, giả sử có người đem mài làm mực rồi đi khỏi một ngh́n cơi nước ở phương đông bèn chấm một điểm chừng bằng bụi nhỏ, lại qua một ngh́n cơi nước nữa cũng chấm một điểm, cứ như thế lần lượt chấm hết mực mài bằng địa chủng ở trên. Ư các ông nghĩ sao? Các cơi nước đó hoặc thầy toán có thể biết được ngằn mé số đó chăng?"
- Thưa Thế-Tôn! Không thể biết !
- Các Tỳ-kheo! Những cơi nước của người đó đi qua hoặc có chấm mực hoặc không chấm mực đều nghiền nát cả ra làm bụi, một hột bụi là một kiếp, từ đức Phật đó diệt độ đến nay lại lâu hơn số đó vô lượng vô biên trăm ngh́n muôn ức a-tăng-kỳ kiếp. Ta dùng sức tri kiến của Như- Lai xem thuở lâu xa đó dường như hiện ngày nay.
Bấy giờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Ta nhớ đời quá khứ
Vô lượng vô biên kiếp
Có Phật Lưỡng-Túc-Tôn
Hiệu Đại-Thông Trí-Thắng
Như người dùng sức mài
Cơi tam-thiên đại-thiên
Hết tất cả địa chủng
Thảy đều làm thành mực
Quá hơn ngh́n cơi nước
Bèn chấm mỗi điểm trần
Như thế lần lựa chấm
Hết các mực trần nầy.
Bao nhiêu cơi nước đó
Điểm cùng chẳng điểm thảy
Lại đều nghiền làm bụi
Một bụi làm một kiếp
Kiếp số lâu xa kia
Lại nhiều hơn số bụi
Phật đó diệt đến nay
Vô lượng kiếp như thế
Trí vô ngại của Phật
Biết Phật đó diệt độ
Và Thanh-văn Bồ-Tát
Như hiện nay thẩy diệt.
Các Tỳ-kheo nên biết.
Trí Phật tịnh vi diệu
Vô lậu và vô ngại
Suốt thấu vô lượng kiếp.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: "Đức Đại-Thông Trí-Thắng Phật thọ năm trăm bốn mươi vạn ức na-do-tha kiếp, đức Phật đó khi trước lúc ngồi đạo tràng phá ma rồi, sắp được đạo vô-thượng chánh-đẳng, chánh-giác mà Phật pháp chẳng hiện ra trước, như thế một tiểu kiếp cho đến mười tiểu kiếp, ngồi xếp bằng thân và tâm đều không động mà các Phật pháp c̣n chẳng hiện ra trước.
Thuở đó, các vị trời Đao-Lợi ở dưới cội cây Bồ-đề đă trước v́ đức Phật đó mà trải toà sư-tử cao một do tuần (7), Phật ngồi nơi ṭa nầy sẽ được đạo vô-thượng, chánh-đẳng, chánh-giác. Khi Phật vừa ngồi trên ṭa đó các trời Phạm-Thiên-Vương rưới những hoa trời khắp bốn mươi do tuần, gió thơm lâu lâu thổi đến, thổi dẹp hoa héo rồi rưới hoa mới măi như thế không ngớt măn mười tiểu kiếp để cúng dường đức Phật, nhẫn đến khi Phật diệt độ thường rưới hoa nầy. Các trời Tứ-thiên-vương v́ cúng dường Phật nên thường đánh trống trời. Ngoài ra các vị trời khác trỗi kỹ nhạc trời, măn mười tiểu kiếp đến khi Phật diệt độ cũng lại như thế.
Các Tỳ-kheo! Đức Đại-Thông Trí-Thắng Phật quá mười tiểu kiếp các Phật pháp hiện ra trước thành đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác.
Lúc Phật chưa xuất gia có mười sáu người con trai, người con cả tên Trí-Tích. Các người con đó đều có các món đồ chơi tốt đẹp báu lạ, nghe cha chứng đặng quả vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác đều bỏ đồ báu của ḿnh đi đến chỗ Phật. Các người mẹ khóc lóc theo đ& |