佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[  中文|   ENGLISH   ]

VT0258-2

Kinh Thánh Mẫu Tiểu Tự Bát Nhă Ba La Mật Đa

Hán dịch: Thiên Tức Tai Đời Tống

Việt dịch: Thích Thọ Phước

Đúng thật như thế, chính tôi được nghe: Một thời, đức Thế Tôn ở trên đỉnh núi Linh Thứu. Bấy giờ, có một ngh́n hai trăm năm mươi vị t́-kheo lớn, trăm ngh́n ức na-dữu-da bồ-tát, trăm ngh́n ức na-dữu-đa[1] Phạm Vương, Đế Thích, trời Hộ Thế và các chúng trời, rồng v.v… cung kính vây quanh đức Phật.

Đức Thế Tôn đang ngồi kết già[2] trên ṭa sư tử Kiết tường bảo tạng. Lúc ấy, bồ-tát lớn Thánh Quán Tự Tại rời chỗ ngồi, để y lộ vai phải, gối phải chạm đất, ngắm nh́n Thế Tôn, không hề chớp mắt, chắp tay cung kính, vui mừng phấn khởi, đầu mặt lễ dưới chân Phật và thưa:

– Thưa Thế Tôn! Xin Ngài nói kinh Tiểu tự Bát-nhă Ba-la-mật-đa cho con nghe. Đồng thời, khiến cho chúng sinh nghe pháp ấy được phúc đức lớn; tất cả nghiệp chướng chắc chắn tiêu trừ và tương lai sẽ mau thành tựu Vô thượng bồ-đề. Nếu có chúng sinh nào phát tâm chí thành, thụ tŕ, đọc tụng tụng chân ngôn này, cầu nguyện điều ǵ nhất định thành tựu việc ấy và không gặp các nạn ma.

Bấy giờ, đức Thế Tôn nói với bồ-tát lớn Thánh Quán Tự Tại:

– Quí thay! Ông nói hay lắm! Quí thay! Quí thay! Này thiện nam tử! Ông v́ các chúng sinh mà hết ḷng như thế, ắt sẽ khiến họ được an vui, sống lâu.

Này Thiện nam tử! Ông hăy chí thành lắng nghe Ta nói kinh Tiểu tự Bát-nhă Ba-la-mật-đa. Nếu các chúng sinh nghe pháp ấy, nhất định sẽ được phúc đức lớn, tất cả nghiệp chướng đều tiêu trừ, mau chứng Vô thượng chính đẳng bồ-đề. Nếu có chúng sinh nào phát tâm thụ tŕ chân ngôn này th́ không có các việc ma và tất cả đều được thành tựu.

Bồ-tát lớn Thánh Quán Tự Tại bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Hôm nay đức Thiện Thệ nói kinh là v́ muốn làm cho chúng sinh được an lạc.

Khi ấy, đức Thế Tôn lập tức vào tam-ma-địa[3] Giải thoát nhất thiết chúng sinh, lại ra khỏi tam-ma-địa rồi từ sợi lông trắng giữa hai chặng mày phóng ra trăm ngh́n ức na-dữu-đa luồng ánh sáng. Ánh sáng lớn ấy chiếu đến khắp tất cả cơi nước của các Đức Phật, vô lượng chúng sinh nhờ ánh sáng chiếu soi nên đều mau chứng được A-nậu-đa-la tam-miệu-tam bồ-đề; tất chúng sinh trong các địa ngục đều được an vui; các cơi nước của các Đức Phật đều có sáu thứ chấn động; lại có hương chiên-đàn thượng diệu, hương trầm thủy, hương bột rải lên Đức Phật để cúng dường.

Khi đức Thế Tôn nói kinh Bát-nhă Ba-la-mật-đa này, tất cả bồ-tát lớn đều phát khởi tâm b́nh đẳng, phát khởi tâm thương xót, nhớ nghĩ làm lợi ích cho người khác, phát khởi tâm xa ĺa tất cả tội chướng, phát khởi tâm làm các điều lợi ích, phát khởi tâm Bát-nhă Ba-la-mật-đa.

Bấy giờ, đức Thế Tôn nói với bồ-tát lớn Thánh Quán Tự Tại:

– Các ông hăy lắng nghe, nay Ta sẽ nói cho các ông nghe chân ngôn Thánh Phật mẫu tiểu tự Bát-nhă Ba-la-mật-đa:

– Nẵng mồ xá kiết dă, mẫu nẵng duệ, đát tha nga đa dă, lật hát đế, tam ma dược ngật tam một đà dă, đát nễ dă tha, mẫu ninh mẫu ninh, ma ha mẫu nẵng duệ, sa phạ hạ.

Đức Phật nói với bồ-tát lớn Thánh Quán Tự Tại:

– Tất cả các đức Phật đều nhờ chân ngôn Thánh Phật mẫu Tiểu Tự Bát-nhă Ba-la-mật-đa này mà đạt được A-nậu-đa-la tam-miệu-tam bồ-đề. Ta cũng nhờ chân ngôn Thánh Phật mẫu tiểu tự Bát-nhă Ba-la-mật-đa này mà thành tựu Vô thượng chính đẳng bồ-đề. Thuở xưa, có Đức Phật hiệu Thích-ca Mâu-ni Như Lai, Ta nhờ Đức Phật ấy mà nghe được pháp này. Đức Phật ấy nói: “Tất cả các Đức Phật trong ba đời đều nhờ pháp ấy mà thành Phật”.

Đức Phật nói với bồ-tát lớn Thánh Quán Tự Tại:

– Nay Ta sẽ thụ kí cho ông! Mai sau ông sẽ sinh vào cơi người thành Phật đạo, hiệu là Phổ Phóng Quang Minh Kiết Tường Bảo Phong Vương Như Lai, Ứng Chính Đẳng Giác. Ông nghe diệu pháp như thế phải nên thụ tŕ, đọc tụng, hoặc biên chép, hoặc bảo người biên chép, suy nghĩ hiểu rơ, giảng nói nghĩa ấy cho mọi người và tất cả chúng sinh nghe và chỉ bảo họ biên chép kinh ấy. Sau đó, ở trong nhà thụ tŕ đọc tụng, th́ đời vị lai sẽ sớm thành Vô thượng chính đẳng bồ-đề. Lúc ấy, tất cả đức Như Lai đồng ấn chứng cho các ông.

Hôm nay Ta sẽ nói lại Bát-nhă Ba-la-mật-đa đà-la-ni cho ông nghe:

– Đát nễ dă tha, án, nhă dă nhă dă, bát nạp ma, tị át phạ minh, tát la tát lí chỉ, vĩ lí vĩ lí, vĩ la vĩ lí, xí lí xí lí, nễ phạ đa nỗ, bá la nan, một độ đa la nĩ, bố la nĩ, bố la dă, ba nga phạ đế, tát lật phạ thương, ma ma, bố la dă, tát lật phạ, tát đát phạ, nan tả, tát lật phạ yết lật ma, phạ la noa nan, vĩ thú đà dă, vĩ thú đà dă, một đà địa sắt xá, ninh nẵng, sa phạ ha.

Đức Phật nói với bồ-tát lớn Thánh Quán Tự Tại:

– Pháp đà-la-ni thắng diệu Bát-nhă Ba-la-mật-đa này là mẹ của tất các Đức Phật và bồ-tát. Nếu chúng sinh nào nghe được pháp này th́ tất cả tội chướng đều tiêu diệt. Công đức của pháp ấy, dù các Đức Phật, bồ-tát nói trong trăm ức kiếp cũng không hết. Nếu người nào có thể thụ tŕ, đọc tụng đà-la-ni này th́ được cùng vào mạn-na-la, được quán đỉnh[4]. Nếu có thụ tŕ tất cả chân ngôn th́ đều thành tựu.

Bồ-tát Thánh Quán Tự Tại bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! V́ sao Ngài nói lại đà-la-ni Bát-nhă Ba-la-mật-đa này?

Đức Thế Tôn nói:

– V́ Ta thương xót tất cả chúng sinh ít phương tiện khéo léo, lười biếng, nên nói đà-la-ni Bát-nhă Ba-la-mật-đa này để chúng sinh thụ tŕ, đọc tụng, hoặc tự biên chép, hoặc bảo người biên chép. Tất cả chúng sinh ấy mau chứng Vô thượng bồ-đề. Đúng thế! Đúng thế! Đức Thế Tôn v́ vậy mà khéo nói đà-la-ni Bát-nhă Ba-la-mật-đa.

Khi ấy, bồ-tát lớn Thánh Quán Tự Tại lại bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Pháp này thật chưa từng có. Bạch Thế Tôn! Pháp này thật chưa từng có. Thiện Thệ Thế Tôn đại từ v́ muốn cứu giúp tất cả chúng sinh ít phương tiện khéo léo, lười biếng và v́ muốn cho chúng được lợi ích, an vui, nên nói diệu pháp này.

Khi đức Thế Tôn nói kinh này xong, các thanh văn lớn, các bồ-tát lớn, tất cả thế gian trời, người, a-tô-la, ngạn-đạt-phạ v.v… nghe Đức Phật nói pháp rồi, tất cả đều vui mừng, tin nhận, làm theo và đỉnh lễ Phật rồi ra về.

*

Chú thích:

[1] Na-dữu-đa 那庾多 (S: Nayuta): c̣n gọi là Na-du-đa, Na-do-đa, Na-thuật, tên số đếm, tương đương với 1 ức. Một ức có ba cấp: 10 vạn, 100 vạn, 1000 vạn. V́ vậy xác định số đến của na-do-tha cũng không giống nhau.

[2] Kiết già (S: Nyaṣīdat-paryaṅkam ābhujya): Kiết già phu tọa: tư thế ngồi xếp bằng, hai chân tréo, hai bàn chân ngửa ra đặt trên hai đùi. Đây là cách ngồi an ổn nhất. Có hai loại: Hàng ma tọa và Cát tường tọa.

[3] Tam-ma-địa 三摩地 (S: Samādhi): tâm chuyên chú vào cảnh, không hôn trầm, điệu cử, một trong bảy mươi lăm pháp của Câu-xá, một trong 100 pháp của Duy thức.

[4] Quán đỉnh 灌頂 (S: Abhiṣecanī): nghi thức dùng nước rưới lên đầu ở Ấn Độ thời xưa. Khi vua lên ngôi và lập thái tử, quốc sư dùng nước bốn biển rưới lên đỉnh để chúc phúc.

Kinh Thánh Mẫu Tiểu Tự Bát Nhă Ba La Mật Đa

 

Svalpākṣarā prajñāpāramitā

***

svalpākṣarā prajñāpāramitā|

namaḥ sarvabuddhabodhisattvebhyaḥ||

evaṃ mayā śrutam| ekasmin samaye bhagavān rājagṛhe viharati sma gṛdhrakūṭe parvate mahatā bhikṣusaṃghena sārdhaṃ dvādaśasāhasrapañcaśatairbodhisattvakoṭiniyutaśatasahasraiḥ sārdhaṃ viharati sma, lokapālādidevakoṭiniyutasahasraiḥ parivṛtaḥ puraskṛtaḥ śrīsiṃhāsane viharati sma||

atha khalu bodhisattvo mahāsattvo āryāvalokiteśvaro utthāya āsanādekamaṃsamuttarāsaṅgaṃ kṛtvā dakṣiṇaṃ jānumaṇḍalaṃ pṛthivyāṃ pratiṣṭhāpya yena bhagavāṃstenāñjaliṃ praṇamya prahasitavadano bhūtvā bhagavantametadavocat-deśayatu bhagavān prajñāpāramitāṃ svalpākṣarāṃ mahāpuṇyām, yasyāḥ śravaṇamātreṇa sarvasattvāḥ sarvakarmāvaraṇāni kṣapayiṣyanti, niyataṃ ca bodhiparāyaṇā bhaviṣyanti| ye ca sattvā mantrasādhane udyuktāsteṣāṃ cāvighnena mantrāḥ sidhyanti||

atha khalu bhagavān āryāvalokiteśvarāya bodhisattvāya mahāsattvāya mahākaruṇikāya sādhukāramadāt-sādhu sādhu kulaputra, yastvaṃ sarvasattvānāmarthāya hitāya sukhāya pradhānāya ca dīrgharātraṃ niyuktaḥ| tena hi tvaṃ kulaputra śṛṇu, sādhu ca suṣṭhu ca manasi kuru| bhāṣiṣye’haṃ te prajñāpāramitāṃ svalpākṣarāṃ mahāpuṇyām, yasyāḥ śravaṇamātreṇa sarvasattvāḥ sarvakarmāvaraṇāni kṣapayiṣyanti, niyataṃ ca bodhiparāyaṇā bhaviṣyanti| ye ca sattvā mantrasādhane udyuktāsteṣāṃ cāvighnenaḥ mantrāḥ sidhyanti||

atha khalu āryāvalokiteśvaro bodhisattvo mahāsattvo bhagavantametadavocat-tena hi sugata bhāṣatu sarvasattvānāmarthāya hitāya sukhāya ca||

atha khalu bhagavāṃstasyāṃ velāyāṃ sarvaduḥkhapramocano nāma samādhiṃ samāpadyate sma, yasya ca samādhiṃ samāpannasya bhagavata ūrṇākośavivarāllavādanekāni raśmikoṭiniyutaśatasahasrāṇi niścaranti sma| taiśca raśmibhiḥ sarvabuddhakṣetrāṇi parisphuṭānyabhūvan| ye ca sattvāstayā prabhayā spṛṣṭāḥ, te sarve niyatā abhūvannanuttarāya samyaksaṃbodhau| yāvannārakāḥ sattvāḥ * * * sarve ca buddhakṣetrāṇi ṣaḍvikāraṃ praviceluḥ| divyāni ca candanacūrṇavarṣāṇi tathāgatapādamūlaṃ vavarṣuḥ||

atha khalu bhagavāṃstasyāṃ velāyāṃ prajñāpāramitāṃ bhāṣate sma| tadyathā-bodhisattvena mahāsattvena samacittena bhavitavyam| sarvasattveṣu maitracittena bhavitavyam| kṛtajñena bhavitavyam| kṛtavedinā ca bhavitavyam| sarvapāpaviratacittena bhavitavyam| idaṃ ca prajñāpāramitāhṛdayamāgrahītavyam-namo ratnatrayāya| namaḥ śākyamunaye tathāgatāya arhate samyaksaṃbuddhāya| tadyathā-oṃ mune mune mahāmunaye svāhā|| asyāḥ prajñāpāramitāyā lābhāt mayā anuttarā samyaksaṃbodhiranuprāptā| sarvabuddhāśca ato niryātāḥ|| mayā api iyameva prajñāpāramitā śrutā mahāśākyamunestathāgatasya sākṣāt| tena hi tvaṃ sarvabodhisattvānāmagrato buddhatve ca vyākṛtaḥ-bhaviṣyasi tvaṃ māṇava anāgate’dhvani sa(mantaraśmisamu)dgataḥ śrīkūṭarājā nāma tathāgato’rhan samyaksaṃbuddho vidyācaraṇasaṃpannaḥ sugato lokavid anuttaraḥ puruṣadamyasārathiḥ śāstā devānāṃ ca manuṣyāṇāṃ ca buddho bhagavān| [badiyamapi ?] ye idaṃ nāmadheyaṃ śroṣyanti dhārayiṣyanti vācayiṣyanti likhayayiṣyanti, parebhyaśca vistareṇa saṃprakāśayiṣyanti, pustakalikhitamapi kṛtvā gṛhe dhārayiṣyanti pūjayiṣyanti, te sarve alpopāyena alpaśravaṇena ca tathāgatā bhaviṣyanti| tadyathā-oṃ jeya jeya padmābhe avame avame sarasaraṇi dhiridhiri devatā anupālani yuddhottāriṇi paracakranivāriṇi pūraya pūraya bhagavati sarva āśā mama ca sarvasattvānāṃ ca| sarvakarmāvaraṇāni viśodhaya, buddhādhiṣṭhite svāhā|| iyaṃ sā kulaputra paramārthaprajñāpāramitā sarvabuddhānāṃ jananī bodhisattvamātā (bodhidātrī) pāpahārakā| sarvabuddhairapi na śaknoti asyānuśaṃsā vaktuṃ yāvatkalpakoṭiśatairapi| anayā paṭhitamātreṇa sarvaparṣanmaṇḍalābhiṣiktā bhavanti, sarve ca mantrāḥ abhimukhā bhavanti||

atha āryāvalokiteśvaro bodhisattvo mahāsattvo bhagavantametadavocat- kena kāraṇena bhagavan iyaṃ svalpākṣarā prajñāpāramitā ? bhagavānāha-alpopāyatvāt| ye’pi sattvā mandāsvādāḥ, te’pi imāṃ prajñāpāramitāṃ svalpākṣarāṃ dhārayiṣyanti vācayiṣyanti likhiṣyanti likhayiṣyanti, te sarve alpopāyena bodhiparāyaṇā bhaviṣyanti| anena kāraṇena kulaputra iyaṃ saṃkṣiptā svalpākṣarā prajñāpāramitā||

evamukte āryāvalokiteśvaro bodhisattvo mahāsattvo bhagavantametadavocat- āścaryaṃ bhagavan, paramāścaryaṃ sugata, yāvadeva bhagavān sarvasattvahitāya ayaṃ dharmaparyāyo bhāṣito mandapudgalānāmeva arthāya hitāya sukhāya ceti||

idamavocadbhagavān| āttamanā āryāvalokiteśvaro bodhisattvo mahāsattvaḥ, te ca bhikṣavaste ca bodhisattvāḥ sā ca sarvāvatī parṣat sadevamānuṣāsuragandharvaśca loko bhagavato bhāṣitamabhyanandanniti||

svalpākṣarā prajñāpāramitā samāptā||

Svalpākṣarā prajñāpāramitā

 



Uploaded on 2019-10-29

 

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0