Trang Chủ      Hình ảnh      Kinh điển      Thần Chú      Liên lạc

TRUNG LUẬN (MADHYAMAKAKÀRIKÀ )

Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) 
Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập 
Việt dịch: Thích Viên Lư

 

TRUNG LUẬN QUYỂN THỨ NHẤT

PHẨM THỨ NHẤT:
QUÁN NHÂN DUYÊN

Chẳng sanh cũng chẳng diệt. Chẳng thường cũng chẳng đoạn. Chẳng đồng nhất cũng chẳng sai biệt. Chẳng đến cũng chẳng đi. Có thể đề ra, nêu lên (Đức Phật giảng dạy) nhân duyên này để diệt trừ những hư luận một cách thiện thuật. Con cúi đầu đảnh lễ Đức Phật; trong tất cả các học thuyết, thánh giáo, những lời dạy của Ngài là những giáo lư tối tôn, vô thượng.

Các pháp (muôn sự muôn vật) đă chẳng phải tự sanh (sanh ra từ tự thể) cũng chẳng phải được sanh ra từ một vật thể khác (tha sanh) mà cũng chẳng phải từ Tự và Tha cọng lại mà sanh (cọng sanh) lại càng chẳng phải vô nhân (không có nguyên nhân) v́ thế biết rằng: các pháp vốn vô sanh.

Giống như tự tánh của các pháp, không nằm ở (hiện hữu) trong duyên (những yếu tố, điều kiện), và, v́ do không có tự tánh nên, cũng không có tha tánh.

Lưu ư: Bắt đầu từ trang kế tiếp, tất cả những gịng chữ nằm trong ngoặc đơn ( ) có dấu hoa thị  (*) ở trước, là lời chú thích giản lược của dịch giả.

Các pháp được sanh ra từ bốn duyên đó là: Nhân duyên (* pháp hữu vi, sanh diệt); thứ đệ duyên (* đẳng vô gián duyên: tâm, tâm sở sanh diệt nối tiếp nhau không gián đoạn); duyên duyên (*sở duyên duyên: tâm sở pháp cùng với tâm tương ưng) và tăng thượng duyên (*nguyên tố quyết định; sắc đối đăi với tâm và ngược lại; do năng lực ứng dụng thù thắng của tâm đă tạo cho sắc tức ngoại cảnh sắc trần có được những ư nghĩa, tác dụng...), ngoài bốn duyên trên, không có duyên thứ năm.

Quả (* chỉ các Pháp, muôn sự muôn vật) được sanh ra từ các duyên hay là từ nơi phi duyên (phi điều kiện và yếu tố)? Trong các duyên đó là đă có sẵn Quả (*các pháp) hay là trong các duyên đó không có quả?

Nhân chính là Pháp (vật thể) sanh ra Quả, Pháp đó gọi là Duyên như thế th́, nếu Quả đó chưa sanh th́ tại sao, v́ lư do ǵ không gọi (nó) là Phi duyên (chẳng phải duyên, các yếu tố điều kiện)?

Quả đă có sẵn trước trong duyên (hay không có sẵn trong duyên), có trước hay không cả hai đều không thể truy nhận (v́ nếu) trước đó đă không có th́ lấy ǵ (ai) làm duyên (và nếu) trước đó đă có th́ cần ǵ phải mượn nhờ đến duyên?

Nếu Quả đă chẳng phải là hữu sanh (có sự sanh ra) (Phi hữu sanh) mà cũng lại chẳng phải là vô sanh (phi vô sanh), đồng thời cũng chẳng phải là có sanh hay không có sanh (phi hữu vô sanh), thế th́, làm thế nào có thể bảo rằng: có các duyên?

Nếu lúc quả chưa sanh th́ lẽ ra không có sự hoại diệt, (v́ nếu) hoại diệt th́ pháp làm thế nào có thể gá nương vào, v́ thế nên: không có Thứ Đệ Duyên.

Như chư Phật đă dạy: Pháp vi diệu chơn thật (pháp thật tướng) trong đó (trong tất cánh không) không có bất cứ vật thể nào để nương gá (vô duyên pháp), thế th́ làm ǵ có (cái gọi là) Duyên Duyên?

Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, v́ vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lư.

Khái lược hay quảng diễn (dù tóm lược hay giảng rộng) th́ vẫn không thể t́m thấy Quả trong Nhân duyên được; nhưng nếu, (quả) không có trong Nhân Duyên th́ làm thế nào có thể bảo rằng Quả được sanh ra từ các Duyên?

Và nếu cho rằng trong Duyên không có Quả mà (quả đó lại) được sanh ra từ Duyên vậy th́ cái Quả đó tại sao lại (không thể) không từ trong Phi Duyên (chẳng phải các Duyên) sanh ra?

Và nếu, Quả được sanh ra từ Duyên, nhưng, (cái được gọi là) Duyên ấy vốn không có tự tánh, như thế th́, được sanh ra từ cái không có tự tánh vậy th́ làm thế nào có thể (bảo được rằng) được sanh ra từ Duyên?

Quả đă không được sanh ra từ Duyên mà cũng chẳng phải được sanh ra từ Phi Duyên, v́ thế, Quả không có, nên, Duyên và Phi Duyên cũng không.

 

PHẨM THỨ HAI:

QUÁN SÁT SỰ CHUYỂN ĐỘNG
VÀ SỰ KHÔNG CHUYỂN ĐỘNG
(Quán Sát Sự Đến Đi)

Nếu đă chuyển động th́ không c̣n đang là chuyển động, nếu chưa chuyển động th́ cũng không đang là chuyển động. Tách ĺa cái được gọi là đă chuyển động và chưa chuyển động th́ lúc đang chuyển động cũng không có nốt cái đang chuyển động.

Nơi nào có sự di động th́ chính nơi đó có động tác chuyển động. Chẳng phải cái đă chuyển động hay cái chưa được chuyển động mà chính là sự chuyển động đang chuyển động.

Làm thế nào mà ngay đang khi chuyển động lại có sự (pháp biệt lập) đồng lúc chuyển động? Và, nếu tách rời sự (pháp) chuyển động th́ không thể có được cái gọi là đang chuyển động.

Nếu ai chủ trương rằng sự đang chuyển động có cái di động (biệt lập) th́ kẻ đó sai lầm, v́, đă tách rời sự chuyển động mà vẫn c̣n có cái đang chuyển động; nhưng, thực tế th́, chính sự đang chuyển động tự nó đơn độc chuyển động.

Nếu đang khi chuyển động mà có (vật thể) di động th́ là đă có hai thứ chuyển động: Một gọi là đang chuyển động và hai gọi là sự đang chuyển động có cái chuyển động (biệt lập).

Nếu có hai sự (pháp) chuyển động th́ đương nhiên có hai khứ giả (*khứ giả là một tên gọi khác của ngă, chỉ kẻ đang di động) th́ đương nhiên: có hai thực thể (ngă) di động, do vậy mà tách rời người chuyển động (*nguyên động lực, thực thể ngă) th́ sự chuyển động không thể có được.

Nếu tách rời người chuyển động th́ không thể có được sự chuyển động, v́ đă không có sự chuyển động th́ làm thế nào có cái gọi là người chuyển động?

Người chuyển động th́ không chuyển động và không có người chuyển động th́ cũng không có nốt sự chuyển động; tách rời sự chuyển động và nơi không có người chuyển động th́ không có sự hiện hữu của vật thứ ba là người chuyển động.

Nếu quan niệm rằng người chuyển động (có cái biệt lập là sự) chuyển động th́ làm thế nào nghĩa lư đó có thể tồn tại? v́ nếu tách rời khỏi sự chuyển động th́ người chuyển động không thể có được (không thể hiện hữu).

Nếu chủ trương rằng (tự thân) người chuyển động có sự chuyển động, như thế th́, có đến hai loại chuyển động khác nhau: một là người chuyển động chuyển động và, hai là sự chuyển động di động.

Nếu ai bảo rằng người chuyển động (đang) chuyển động th́ kẻ đó lầm lẫn, v́ đă tách rời sự chuyển động mà vẫn c̣n có người chuyển động nên họ mới bảo rằng kẻ chuyển động (bên cạnh c̣n) có (một vật thể biệt lập) di động.

Cái đă chuyển động tự nó (trong đó) không có điểm (động cơ) xuất phát, cái chưa chuyển động trong tự thân cũng không có bất cứ động cơ phát động nào, và, cái đang chuyển động trong đó cũng không thể t́m thấy bất cứ động cơ phát xuất nào, thế th́, nơi đâu đích thị là nơi có động cơ xuất phát?

Chưa phát động th́ không thể có sự đang chuyển động, lại càng cũng không có cái gọi là đă chuyển động, hai sự việc này lẽ ra phải có động cơ xuất phát, nhưng, khi chưa chuyển động th́ làm sao có sự phát động?

Không có sự chuyển động, không có cái chưa chuyển động cũng không luôn cái đang chuyển động. Tất cả đều không có điểm xuất phát, thế th́, làm thế nào để có thể phân biệt rơ ràng?

Kẻ chuyển động th́ không thể đứng yên (đ́nh trụ), không có kẻ chuyển động th́ cũng không có cái gọi là (kẻ) đứng yên, tách rời khỏi kẻ chuyển động và kẻ không chuyển động th́ làm ǵ có cái thứ ba nào là cái đứng yên?

(Đă bảo rằng) kẻ chuyển động th́ không thể đang đứng yên (* v́ nếu đang đứng yên th́ không thể bảo kẻ đó đang di chuyển), làm sao có ư nghĩa nếu bảo rằng kẻ chuyển động đang đứng yên, điều đó không hợp lư: nếu đang khi tách rời khỏi sự chuyển động th́ ngay lúc đó không thể có được kẻ đang chuyển động.

Đă chuyển động, chưa chuyển động và đang chuyển động cả ba đều không thể đứng yên, những sự vật có sự đi đứng (* pháp hành chỉ: sự vận hành di động và sự đ́nh chỉ bất động) đều đồng nghĩa với sự chuyển động. (tam thời di chuyển).

Cho rằng sự chuyển động chính là kẻ chuyển động th́ việc này không đúng mà bảo rằng sự chuyển động khác biệt với kẻ chuyển động th́ cũng không hợp lẽ.

Nếu quan niệm rằng ngay nơi chính sự chuyển động tức là kẻ chuyển động (như thế th́) tác giả và tác nghiệp (*người tạo tác ra nghiệp và nghiệp được tạo tác) lại là một.

Nếu chủ trương rằng sự chuyển động có sự khác biệt với kẻ chuyển động như thế th́: tách rời kẻ chuyển động vẫn có sự chuyển động và tách rời sự chuyển động vẫn có kẻ chuyển động.

Nếu sự chuyển động và kẻ chuyển động là hai và nếu sự đồng nhất và sai biệt được thành lập th́ cả hai đều bất thành, như thế th́, làm thế nào (có thể cho rằng có cái gọi là sự chuyển động) có thể thành lập.

V́ có sự chuyển động mà biết có kẻ chuyển động, không thể cho rằng kẻ chuyển động chính là sự chuyển động, v́ trước đó không có sự di động cho nên cũng không có kẻ chuyển động di động.

Nhân v́ sự chuyển động mà biết kẻ chuyển động, không thể sử dụng sự chuyển động nào khác v́ chính ngay trong một kẻ chuyển động không thể có được hai sự chuyển động.

Đă quyết định dứt khoát là có kẻ chuyển động th́ không thể dùng ba sự chuyển động (đă, chưa và đang) và nếu không quyết định là có kẻ chuyển động th́ cũng không thể sử dụng ba sự chuyển động được.

Sự chuyển động dù quyết định là có hay không (quyết định hay không quyết định) th́ kẻ chuyển động cũng không thể sử dụng ba sự chuyển động trên. V́ thế mà sự chuyển động, kẻ chuyển động và nơi chốn chuyển động (sở xứ khứ) cả ba đều không. (* nhân, pháp và thời-không: Thời gian và nơi chốn đều không có tự tánh).

 

PHẨM THỨ BA:

QUÁN LỤC T̀NH

Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ư vân vân... sáu t́nh thức (tính năng), mắt vân vân... sáu t́nh thức này (nếu không nhờ có tác dụng của) sáu trần (tức ngoại cảnh như) hành (* hành uẩn: có thể hiểu là nghiệp lực, chỉ cho một nhóm ư chí trong đó gồm cả những sinh hoạt thuộc về tính chất ư chí và bản năng. Hành uẩn giữ một vai tṛ vô cùng quan trọng và đầy tính quyết định), sắc (* Sắc uẩn chỉ cho nhóm vật chất bao gồm bốn đại: đất, nước, gió, lửa) vân vân... th́ mắt (chắc chắn) không có khả năng tự thấy tự thể của chính nó, mà nếu không có khả năng tự thấy th́ làm thế nào có thể thấy được vật khác.

Ví dụ về lửa th́ không thể (thích hợp) để có thể tạo thành (luận lư cho rằng) mắt thấy được muôn sự muôn vật (pháp). Vấn đề này đă được giải đáp một cách tổng quát trong phẩm nói về đă chuyển động, chưa chuyển động và đang chuyển động (* phẩm thứ hai).

Cái thấy nếu chưa đang thấy (lúc chưa thấy) th́ không thể gọi là thấy, nhưng, bảo rằng cái thấy có khả năng (để) thấy, việc đó không đúng.

Cái thấy đă không thể có (sự) thấy, (cái) chẳng phải thấy (phi kiến) cũng chẳng thấy, nếu phá trừ xong cái thấy tức là phá trừ kẻ thấy (* cái thấy đă bị phá th́ đương nhiên người thấy cũng bị phá bỏ).

Tách ĺa cái thấy hay chẳng tách rời cái thấy th́ cũng không thể có được người thấy. V́ không có người thấy cho nên không thể nào có thể có sự thấy (*kiến: nhăn căn) và cái có thể thấy (*khả kiến: sắc trần).

Và, v́ cái thấy và đối tượng có thể thấy cả hai đều không, thế nên, thức vân vân... bốn pháp (* thức, xúc, thọ và ái) cũng không, (và như thế th́), bốn thủ (*dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ và ngă ngữ thủ) vân vân... các duyên làm sao có thể hiện hữu được?

Tai, mũi, lưỡi, thân, ư, âm thinh (thinh trần) và người nghe vân vân... cũng phải được hiểu biết như thế trong ư nghĩa như đă đề cập.

 

PHẨM THỨ TƯ:

QUÁN NĂM ẤM

Nếu tách ĺa sắc nhân (* nguồn cội, nguyên nhân của sắc, chỉ về các trần cảnh) th́ không thể có được sắc (pháp) mà nếu ĺa sắc (pháp) th́ không thể có được sắc nhân.

Ĺa sắc nhân mà sắc pháp vẫn hiện hữu, như vậy th́, sắc đó là vô nhân (không có nhân), không có nhân nhưng pháp vẫn hiện hữu, việc đó không đúng.

Nếu ĺa sắc (pháp quả) nhưng vẫn có (sắc) nhân, thế th́ có nhân nhưng không có quả (* v́ không có quả th́ không thể gọi là nhân) và, nếu bảo rằng có nhân nhưng không có quả th́ đó là điều phi lư không thể chấp nhận được.

Nếu đă có sắc th́ không cần đến nhân của sắc, và nếu không có sắc th́ cũng không cần đến nhân của sắc.

Nhưng nếu không có nhân mà sắc vẫn hiện hữu th́ việc đó hoàn toàn phi lư. V́ thế nên, bậc thức giả không nên (khởi tâm) phân biệt về sắc.

Nếu quan niệm rằng Quả tương tợ với Nhân (nếu nhân và quả giống nhau) th́ không đúng, mà cho rằng quả chẳng giống nhân th́ cũng sai lầm.

Thọ ấm và tươ?ng ấm, hành ấm và thức ấm vân vân... tất cả bao nhiêu pháp khác cũng đều đồng (giống với) như sắc ấm.

Nếu có người cật vấn (về hiện tượng hoặc thật thể của các pháp) ai muốn giải đáp mà ĺa bỏ, không dựa vào Nghĩa Không (không tánh) để giải đáp th́ sự giải đáp đó bất thành, không khác ǵ người nghi vấn kia.

Và nếu có người vấn nạn mà không y cứ vào Nghĩa Không (ĺa Không nghĩa) để chỉ bày sự sai lầm của đối phương th́ cuộc vấn nạn đó bất thành, (v́ lẽ người giải đáp cũng mê độn) chẳng khác ǵ kẻ nghi vấn kia.

 

PHẨM THỨ NĂM:

QUÁN LỤC CHỦNG
(Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không, Thức)

Lúc chưa có h́nh tướng của hư không th́ không có vật thể (được gọi là) hư không, nếu hư không có trước (những tướng trạng) th́ chính nó (hư không) không có h́nh tướng (vô tướng).

Pháp (vật thể) vô tướng này (không có h́nh tướng này) không thể t́m thấy (không hề có) trong bất cứ nơi nào. Trong Pháp Vô tướng (vật thể không có tướng trạng) (*đă là một vật thể không có tướng trạng) th́ tướng trạng đó là vô h́nh tướng (* v́ chính nó đă vô tướng - vô sở tướng: không có bất cứ một tướng trạng nào).

Trong vấn đề Hữu tướng (có tướng trạng) và Vô tướng (không có tướng trạng), (nếu y vào) tướng th́ không có điểm tựa (vô sở trụ) (* v́ đă là vô tướng ), c̣n nếu ĺa bỏ hữu tướng và vô tướng (có h́nh trạng và không có h́nh trạng) th́ cũng không có bất cứ điểm tựa nào (*không trụ ở những nơi khác: không hiện hữu).

V́ Pháp tướng (năng tướng) không có nên Pháp khả tướng (* sở tướng: tướng trạng của những h́nh tướng hay tướng trạng của các pháp) cũng không, và, v́ Pháp khả tướng (sở tướng) không có nên Pháp tướng (năng tướng) cũng không có (dịch cách khác: v́ không có tướng trạng của vật thể (pháp), nên không có tướng trạng của vật thể có tướng trạng và v́ không có tướng trạng của vật thể có tướng trạng nên cũng không thể có cái gọi là tướng trạng của vật thể).

V́ thế nên, hiện tại chẳng những đă không có Tướng (năng) (bất cứ tướng trạng nào) mà c̣n không luôn cả Khả tướng (sở) (vật thể có tướng trạng) và, khi đă ĺa bỏ cả Tướng lẫn Khả tướng (tướng trạng và vật thể có tướng trạng) th́ cũng không thể t́m thấy có (cái gọi là tự thể của) sự vật.

Nếu giả thiết rằng không có cái gọi là Hữu (* hữu: thật tại của tự tánh) th́ làm sao có cái gọi là vô. Đă không có Hữu và Vô (* có và không ) thế th́ đủ biết kẻ tri nhận về Hữu và Vô đó là ai rồi (* ư nói kẻ đó không có trí tuệ để đủ sức quán chiếu và thấy được thật tướng của muôn sự muôn vật-các pháp).

Thế nên biết rằng hư không là phi hữu nhưng đồng thời cũng là phi vô (chẳng phải có nhưng cũng chẳng không có); nó vừa là phi tướng (năng), phi khả tướng (sở) (* chẳng phải tướng trạng, chẳng phải vật thể có tướng trạng hoặc chẳng phải tướng năng mà cũng chẳng phải tướng sở). Ngoài ra, năm thứ khác (địa, thủy, hỏa, phong và thức) cũng giống như hư không (* tức là: phi hữu diệc phi vô, phi tướng phi khả tướng).

Những kẻ thiển trí (có một tŕnh độ nhận thức nông cạn, trí huệ cạn cợt không sáng suốt) chỉ nh́n thấy các pháp (muôn sự muôn vật) qua tướng Hữu hoặc tướng Vô (có và không của tướng) nên không đủ khả năng để tri nhận được pháp an lạc, tịch lặng niết bàn.

(*Kẻ trí tuệ nông cạn ngu độn chỉ thấy các pháp hoặc có h́nh tướng hay không có h́nh tướng. Họ không thể thấy và hiểu rơ thật tướng của các pháp, không hiểu rơ lư duyên khởi tánh không tức không thấy được Pháp Diệt Kiến An ổn tức là các pháp tịch diệt tánh, tức là niết bàn giải thoát an lạc).

 

PHẨM THỨ SÁU:

QUÁN ÁI DỤC VÀ
KẺ THAM NHIỄM ÁI DỤC

Nếu tách ĺa những ái dục nhưng trước đó (trước khi có ái dục) kẻ đắm nhiễm ái dục vẫn hiện hữu, vẫn tự có (th́ không đúng). Bởi v́ nhân có kẻ tham nhiễm ái dục nên mới sanh ra những ái dục.

Nếu không có kẻ tham nhiễm ái dục th́ làm sao ḷng ái dục có thể hiện hữu. Nếu (suy luận như thế th́) có hay không có ái dục, người tham nhiễm ái dục vẫn như thế (như cách lập luận trên).

Quan niệm rằng Ái dục và kẻ tham nhiễm ái dục đồng lúc hiện hữu lập thành là một điều không hợp lư. V́ nếu ái dục và kẻ tham nhiễm ái dục đồng thời hiện hữu th́ cả hai đă không có sự hỗ tương tùy thuộc (tương đăi).

Kẻ tham nhiễm ái dục và sự ái dục nếu là đồng nhất, là một, như vậy th́, đă là một vật thể (pháp) th́ làm thế nào có thể ḥa hợp và, nếu kẻ tham nhiễm ái dục và sự ái dục là khác biệt nhau, như vậy th́, hai vật thể (pháp) đă khác biệt nhau th́ làm sao có thể ḥa hợp?

Nếu là đồng nhất nhưng vẫn có sự ḥa hợp th́ lẽ ra khi ĺa bỏ sự hỗ tương tùy thuộc cũng vẫn có sự ḥa hợp và nếu là sai biệt (ái dục khác với kẻ tham nhiễm ái dục) mà sự ḥa hợp vẫn hiện hữu th́ khi tách rời sự hỗ tương tùy thuộc lẽ ra cũng vẫn có sự ḥa hợp.

Nếu là sai biệt nhau nhưng vẫn có sự ḥa hợp th́ ái dục và kẻ tham nhiễm ái dục là sự thể ǵ? Và hai tướng (thể tánh hai pháp) trước đă sai khác nhưng (tại sao) sau lại bảo là hợp tướng (thể tướng ḥa hợp)?

Nếu ái dục và kẻ tham nhiễm ái dục thể tánh (tướng) của mỗi cái đă trở thành sai khác (* nếu ái dục và kẻ tham nhiễm ái dục một bên đă có tự thể độc lập và) đă thành là tướng sai biệt, (mà đă thành tướng sai biệt (dị tướng)) rồi th́ tại sao (v́ lư do ǵ) vẫn cứ bảo là ḥa hợp?

Không có dị tướng (tướng sai biệt) được thành lập v́ thế nên ông muốn ḥa hợp nhưng chung cục (rốt ráo) hợp tướng (tướng ḥa hợp) vẫn không thành thế mà vẫn cứ bảo là dị tướng (tướng sai biệt)!

V́ dị tướng bất thành nên hợp tướng cũng bất thành thế mà tại sao đối với vấn đề dị tướng vẫn cứ muốn đề cập về hợp tướng?

Như vậy ái dục và kẻ tham nhiễm ái dục chẳng phải do ḥa hợp (phi ḥa hợp) và chẳng phải chẳng ḥa hợp (phi bất ḥa hợp) mà thành lập. Các pháp cũng như thế, chẳng phải phi ḥa hợp hay phi bất ḥa hợp mà thành. (Các pháp cũng thế, không phải được thành lập từ vấn đề chẳng phải ḥa hợp hay chẳng phải chẳng ḥa hợp).

 TRUNG LUẬN QUYỂN THỨ HAI

PHẨM THỨ BẨY:
QUÁN SÁT BA TƯỚNG
(* Pháp hữu vi có ba tướng: Sanh, Trụ và Diệt)

Nếu sự sanh khởi là pháp hữu vi th́ lẽ ra nó phải có đủ ba tướng, c̣n nếu sự sanh khởi là pháp vô vi th́ tại sao gọi nó là hữu vi tướng?

Ba tướng (sanh, trụ, diệt) nếu tụ hoặc tán (* Tụ: trong cùng một thời gian đồng lúc hiện hữu, hoặc có trước, có sau) đều cũng không thể tạo thành tướng hữu vi, (không thể có sở tướng) thế th́ làm sao trong cùng một nơi, đồng một lúc mà đồng thời hiện hữu đủ cả ba tướng?

Nếu bảo rằng sanh, trụ, diệt (ba tướng này là hữu vi pháp, nhưng đồng thời cũng thừa nhận rằng ba tướng hữu vi này) lại cũng riêng có (sanh, trụ, diệt) tướng hữu vi nữa, và nếu cứ như thế tức là vô cùng, mà đă vô cùng th́ tức thị là chẳng phải hữu vi.

Sự sanh khởi sản sanh ra sự sanh khởi (* có hạt nhân đầu tiên sanh khởi ra quả, quả đó lại làm nhân và cũng lại sanh ra quả: sanh sanh), sự sanh khởiđược sản sanh từ nơi nguồn gốc của sự sanh khởi và cái sanh sản ra nguồn gốc sanh sản trở lại được sanh ra từ nơi cái vừa được sanh ra (cái sinh của cái sinh chỉ là cái sinh ra cái sinh căn bản; rồi cái sinh của cái sinh căn bản lại tạo ra cái sinh của sinh).

Nếu chủ trương rằng cái có khả năng sanh khởi ở (đó) và cái được sanh khởi có thể được sanh ra từ cội nguồn của sự sanh khởi, vậy th́, sự sanh khởi được khởi sanh từ cội nguồn của sự sanh khởi làm thế nào có thể sanh ra nguồn gốc của sự sanh khởi (bản sanh)?

Nếu chủ trương rằng cái nguồn gốc (nguyên nhân đầu tiên) của sự sanh khởi này có thể được sanh ra từ cái được chính cái do nguồn gốc sanh khởi sanh ra và nguồn gốc của sự sanh đă được sanh ra từ chính cái do nguồn gốc sanh khởi sanh ra như thế th́ làm thế nào sự sanh đó lại có thể sanh ra cái do nguồn gốc sanh? (*nếu bảo rằng "bản sanh" được sanh ra từ "sanh sanh" mà "bản sanh" đă được sanh ra từ "sanh sanh" thế th́ làm sao nó có thể sanh ra cái "sanh sanh"?)

Nếu khi cái được sanh đang sanh (mà bảo rằng) được sanh từ cội nguồn của sự sanh th́ thử hỏi lúc ấy cái được sanh (c̣n) chưa hiện hữu vậy th́ làm thế nào nó (cái được sanh) có thể sanh ra cái gọi là cội nguồn của sự sanh?

Nếu nguồn gốc của sự sanh đang sanh mà đă có khả năng sanh ra vật khác (sanh sanh) như thế th́ lúc ấy nguồn gốc của sự sanh khởi (c̣n) chưa có thế th́ làm sao có thể có khả năng sinh ra vật khác (sanh sanh)?

Chẳng khác nào ngọn đèn, tự nó có khả năng soi chiếu chính ḿnh (soi chiếu tự thân) nhưng đồng thời cũng có thể soi chiếu những vật khác. (Pháp) sự sanh khởi cũng thế, nó không chỉ có khả năng tự sanh ra chính nó mà c̣n có khả năng sanh ra những cái khác. (* lời phản bác của đối thủ).

Trong ngọn đèn, tự nó không có bóng tối, cũng không có bóng tối trong bất cứ nơi nào mà ánh sáng của đèn chiếu đến (do tác dụng) phá tan bóng tối nên gọi là chiếu rọi, nếu không có (đối tượng là) bóng tối th́ đă không có (cái gọi là) sự chiếu phá. (* sự trả của bồ tát Long Thọ).

Làm thế nào khi ánh sáng của ngọn đèn mới vừa phát sanh mà đă có khả năng phá tan mọi bóng tối? Ánh sáng của ngọn đèn đó khi vừa mới phát sanh (chắc chắn) không thể tỏa kịp tới bóng tối được.

Nếu ánh sáng của ngọn đèn chưa tỏa kịp tới bóng tối mà đă có khả năng phá tan mọi bóng tối như thế th́ ánh sáng của ngọn đèn chỉ ở tại một chỗ (trong thời gian này) mà vẫn có thể phá tan tất cả bóng tối trên mọi chỗ.

Nếu ngọn đèn có khả năng tự soi chiếu chính nó nhưng đồng thời cũng có khả năng chiếu soi những vật khác th́ lẽ ra bóng tối cũng tự che tối chính nó nhưng đồng thời cũng có thể che tối những vật khác.

Làm thế nào sự sanh khởi này nếu khi chưa sanh mà đă có thể tự sanh (chính ḿnh)? và nếu sự sanh khởi đó là đă tự sanh, thế th́, đă sanh rồi th́ cần ǵ phải sanh nữa?

Sự sanh khởi chẳng phải được sanh ra từ cái đă sanh cũng chẳng phải từ cái chưa sanh mà sanh ra và cái đang sanh cũng chẳng sanh như đă được giải đáp trong phần chuyển động (trong phẩm thứ hai).

Nếu bảo rằng (các pháp) được sanh khởi từ cái đang sanh là một sự kiện sai lầm (bất thành) thế th́ tại sao (lại có thể khẳng quyết rằng) khi các duyên ḥa hợp th́ (các pháp) được sanh khởi?

Nếu các pháp được sanh ra từ các duyên (nhiều yếu tố, điều kiện) th́ nó-pháp đó chính là tịch diệt tánh (* đă tịch diệt th́ không thể sanh khởi, th́ tự tánh của pháp đó là tịch lặng rỗng không, không có tự tánh) như thế th́ vật được sanh khởi (sanh pháp) và (cái gọi là thời gian) đang sanh cả hai đều tịch diệt (vắng lặng rỗng không).

Giả thiết rằng (nếu) có một pháp (vật thể) nào đó sẽ được sanh khởi th́ có thể bảo rằng (chắc chắn sẽ) phải có (pháp: vật) được sanh khởi, như thế th́ cái pháp này đă có trước rồi, vậy th́ tại sao lại phải cần đến sự sanh khởi làm ǵ?

Nếu bảo rằng cái đang sanh sanh khởi như vậy th́ nó, cái đang sanh có khả năng sanh khởi thế th́ làm thế nào lại có sự sanh khởi có khả năng sanh ra sự đang sanh khởi ấy?

Giả sử lại có một cái sanh khởi nào đó sanh ra sự sanh khởi này và, sự sanh khởi sanh ra sự sanh khởi rồi sự sanh khởi lại sanh ra sự sanh khởi như thế th́ là vô cùng tận, và nếu, tách rời sự được sanh khởi (sanh sanh?) nhưng vẫn có sự sanh khởi thế th́ các pháp đều có khả năng tự sanh (sanh ra chính ḿnh).

Nếu pháp đă có rồi th́ không cần sanh khởi nữa và nếu không có th́ lẽ ra cũng chẳng cần sanh khởi làm chi. Có hoặc không có cũng chẳng sanh khởi, ư nghĩa này như trước đă đề cập.

Nếu các pháp đang trong trạng thái hủy diệt, và đang hủy diệt th́ lẽ ra không sanh khởi và nếu các pháp không là đang hủy diệt th́ hoàn toàn không có sự việc như thế.

Pháp bất trụ th́ chẳng dừng một chỗ (pháp chẳng đứng yên một chỗ th́ chẳng đứng yên), pháp đứng yên một chỗ cũng chẳng đứng yên, lúc đang đứng yên cũng chẳng đứng yên, v́ (vô sanh) đă không có sự sanh khởi th́ làm ǵ có sự đ́nh trụ (đứng yên)?

Nếu đang khi các pháp hủy diệt th́ (lúc ấy) lẽ ra không có sự đ́nh trụ (* bởi v́ pháp đă diệt th́ không có pháp, không có pháp th́ cái ǵ trụ?) và các pháp nếu không là đang diệt th́ việc đó hoàn toàn không bao giờ có (* v́ đă là pháp hữu vi tức sanh diệt vô thường).

Tất cả pháp hữu vi đều là tướng già chết (tức sanh diệt tướng), hoàn toàn không hề thấy bất cứ pháp hữu vi nào có thể tách rời tướng (sự) già chết mà có sự đ́nh trụ (đứng yên).

Sự đ́nh trụ không đ́nh trụ nơi chính tự tướng (sự đứng yên không đứng yên nơi tự tướng) và cũng chẳng đ́nh trụ nơi dị tướng (tướng khác), giống như sự sanh khởi không thể tự sanh và cũng không thể sanh từ nơi tướng khác (dị tướng).

Pháp đă diệt th́ không diệt, pháp chưa (sẽ) diệt th́ cũng chẳng diệt và pháp đang diệt th́ cũng chẳng diệt v́ đă vô sanh (không có sự sanh khởi) th́ làm ǵ có sự hủy diệt?

Nếu các Pháp mà có sự đ́nh trụ (*đứng yên, không biến dị, vô thường) như thế th́ nó không thể diệt, c̣n các pháp nếu là không đ́nh trụ th́ dĩ nhiên nó cũng chẳng thể (nên) diệt.

Pháp đó đang khi trụ, không thể đồng lúc diệt, và pháp đó trụ nơi thời điểm khác, th́ cũng không thể diệt ngay đang trong thời điểm khác đó được.

Giống như tất cả các pháp, không thể có được cái gọi là tướng sanh khởi và bởi v́ không có tướng sanh khởi nên chính nó cũng không có tướng hủy diệt.

Nếu các pháp là có (có tự tánh) th́ tức (chính nó) không có sự hủy diệt, không lẽ chỉ ở nơi một pháp mà có cả hai tướng là hữu và vô (có và không)?

Nếu pháp đích thị là không th́ tức là không có sự hủy diệt, thí như chặt cái đầu thứ hai (của một người nào đó), v́ không có cái đầu thứ hai như thế cho nên không thể chặt được. (* thí như không có cái đầu thứ hai của một người nào đó nên không thể chặt được).

Tự tướng của các pháp chẳng diệt, tha tướng của các pháp cũng chẳng diệt; giống như tự tướng (các pháp) chẳng sanh khởi mà tha tướng cũng chẳng sanh khởi.

Sanh, trụ, diệt đă bất thành cho nên không có pháp hữu vi, mà hữu vi pháp đă không có th́ lư do ǵ lại có pháp vô vi?

Giống như huyễn hóa, như mộng mị (chiêm bao), như thành của càn thát bà (* không có thật như lầu đài giữa hư không: không trung lầu các). Tướng của sanh, trụ, diệt được đề cập cũng như thế.

 

PHẨM THỨ TÁM:
QUÁN TÁC VÀ TÁC GỈA
(* Tác: tác nghiệp, nghiệp được tạo;
Tác giả: người tạo nghiệp)

Đă khẳng định là thật sự có tác giả (đă quyết định có tác giả) (* kẻ tạo nghiệp, năng tác) không tạo ra một cái nghiệp thật sự (quyết định nghiệp) (* v́ nếu tác giả tức năng tác đă thật sự (quyết định) có th́ nghiệp tức sở tác cũng thật sự đă có như thế th́ không có nguyên nhân là tác giả nhưng vẫn có tác nghiệp và nếu vậy th́ không hợp đạo lư) và nếu quả quyết rằng thật sự không có (cái gọi là) tác giả th́ cũng không thể tạo tác được cái gọi là Vô định nghiệp (* không có nghiệp chắc chắn thật sự).

Nếu quyết định rằng nghiệp là vô tác (không có cái nghiệp được tác tạo) th́ cái nghiệp ấy không có tác giả (kẻ tạo tác ra nghiệp) c̣n nếu quyết định là có tác giả (kẻ tạo nghiệp) nhưng không tạo tác (không có cái nghiệp được tạo tác) th́ chính tự thân tác giả (kẻ tạo tác) cũng không có nghiệp.

Nếu quyết định có tác giả nhưng đồng thời cũng quyết đinh có cái nghiệp được tạo tác (tác nghiệp) như thế th́ cả tác giả (kẻ tạo ra nghiệp) và tác nghiệp (cái nghiệp được tạo tác nên) đều bị rơi vào (sai lầm là) không có nguyên nhân, nguồn gốc (vô nhân).

Nếu đă rơi vào (t́nh trạng chấp cho rằng) không có nguyên nhân (vô nhân) như vậy th́ không có nhân, không có quả, không có nghiệp được tạo tác nên (tác nghiệp), không có kẻ tạo ra nghiệp (tác giả) và sự tạo tác (tác pháp) cũng không cần.

Nếu không có tác giả, tác nghiệp và tác pháp th́ không có tội lỗi và phước đức. V́ không có tội phước vân vân... (nghiệp nhân) cho nên quả báo của tội và phước cũng không có.

Và nếu không có quả báo của tội lỗi và phước đức th́ cũng không có niết bàn, như thế th́, những việc đă tạo tác được đều Không, không có không có kết quả.

Dẫu rằng tác giả (kẻ tạo tác) chắc chắn thật sự hiện hữu (định) hay không thật sự hiện hữu (bất định) th́ cũng không thể tạo tác ra cái (gọi là) thật sự có nghiệp hay không thật sự có nghiệp (*nhị nghiệp: định, bất định). V́ Có và Không trái nghịch nhau cho nên trong cùng một chỗ th́ không thể có hai thứ được (* hai tánh định và bất định).

Đă có tác giả (* có chẳng thể tạo ra không) th́ không thể tạo ra cái vô tác (*v́ có tạo tác mới gọi là tác giả). Không có tác giả th́ cũng không thể có được cái nghiệp được tạo tác (hoặc: cũng không thể tạo ra cái nghiệp đă hiện hữu: v́ không chẳng thể tạo ra có). Nếu tác giả và nghiệp được tạo tác đồng thời hiện hữu th́ lại bị kẹt vào những sai lầm như đă tŕnh bày ở trước.

Tác giả không tạo định nghiệp cũng không tạo bất định nghiệp (* tạo ra cái nghiệp thật sự hay không thật sự, có nghiệp thật sự, chắc chắn hay không có nghiệp thật sự), định và bất định nghiệp, sự sai lầm của nó như trước đă đề cập.

Tác giả là định hay bất định, vừa định vừa bất định (tác giả quyết định có hay quyết định không có, vừa thật sự có vừa thật sự không có) th́ cũng không thể tạo ra nghiệp, sự sai lầm này như đă đề cập.

Nhân v́ (có) nghiệp nên có tác giả, nhân (có) tác giả mới có nghiệp. Trong ư nghĩa như thế, nghiệp được h́nh thành (nghiệp được thành lập với một ư nghĩa như thế), ngoài ra th́ đă không có bất cứ một nguyên nhân nào khác hơn.

Tác giả và tác nghiệp (nghiệp được tạo tác) như đă được phá hủy bác khước (nên) thọ (* nghiệp quả thân ngũ uẩn- pháp) và thọ giả (*người thọ nghiệp báo thân) cũng thế, nghĩa là tất cả các pháp đều quán sát như thế để phá trừ, bác khước.

 

PHẨM THỨ CHÍN:
QUÁN SÁT BẢN TRỤ
(* Bản Trụ là một tên gọi khác của Thần Ngă)

Mắt, tai, vân vân... các căn, khổ đau và an lạc vân vân... các pháp; ai là kẻ đă có những sự việc (căn và pháp) như thế th́ gọi họ là bản trụ (thần ngă) (* bản là bản lai xưa nay vốn có, vốn đă hiện hữu, bản hữu thường trụ bất biến; trụ có nghĩa là an định mà bất động; ư nói các căn và các pháp khổ vui đều dựa vào thần ngă (bản trụ) để kiến lập).

Nếu không có bản trụ (thần ngă) th́ ai là người có mắt vân vân... các pháp? Thế nên biết rằng trước vốn đă có bản trụ (thần ngă). (* ư nói nếu không có bản trụ th́ lục căn và các pháp khổ vui vân vân... đều không có nơi sở y và v́ vô sở y nên không thể kiến lập).

Nếu tách rời mắt vân vân... các căn và khổ vui vân vân... các pháp nhưng bản trụ (thần ngă) vốn đă hiện hữu trước, đă có sẵn rồi th́ bằng cách nào để có thể tri nhận được (* ư là bằng cách nào để có thể có được kiến văn giác tri v́ có lục căn mới có kiến văn giác tri do đó mới có thể biết là đă có bản trụ-thần ngă).

Nếu tách rời mắt, tai vân vân... các căn nhưng (thần ngă) bản trụ vẫn hiện hữu th́ lẽ ra tách rời bản trụ (thần ngă) cũng vẫn có các căn như mắt, tai vân vân... (Các căn như mắt, tai vân vân... vẫn hiện hữu).

Do (v́ có) pháp nên biết có người, và v́ (có) người nên biết có pháp, tách ĺa pháp th́ làm thế nào có người, tách ĺa người th́ làm sao có pháp?

Tất cả các căn như mắt, tai vân vân... thật sự đă không có (cái gọi là) bản trụ (thần ngă). Mắt, tai vân vân... các căn mỗi căn đều có tướng sai khác để phân biệt (* dị tướng: mỗi căn đều có tác dụng phân biệt khác nhau như nhăn căn th́ có tác dụng phân biệt về sắc trần, nhĩ căn có tác dụng phân biệt về hương trần...)

Nếu các căn như mắt vân vân... đă không có (cái gọi là) bản trụ (thần ngă) thế th́ mắt tai vân vân... mỗi một căn làm thế nào có thể nhận biết được sắc trần? (ngoại cảnh).

Người thấy tức là, đích thị là người nghe mà người nghe chính là người cảm thọ (* thọ giả: có cảm giác vui buồn... Thọ gồm có ba: lạc thọ, khổ thọ và xả thọ) như thế th́ các căn vân vân... lẽ ra phải có bản trụ (thần ngă).

Nếu người thấy người nghe (mỗi căn) đều (có sự) sai khác th́ người cảm thọ (thọ giả) (mỗi căn) cũng có sự khác biệt, như vậy th́, khi có một người thấy th́ lẽ ra cũng phải có một người nghe và như thế th́ phải có rất nhiều thần ngă.

Mắt, tai vân vân... các căn, khổ vui vân vân... các pháp vốn được sinh ra từ các đại (* các chất đất, nước, gió, lửa...) và trong các đại đó cũng không có thần ngă.

Nếu mắt, tai vân vân... các căn, khổ vui vân vân... các pháp (trong chính tự bản thân của các căn và các pháp) đă không có (cái gọi là) bản trụ (thần ngă-thực thể) th́ lẽ ra mắt vân vân... các căn cũng không có.

Mắt vân vân... các căn vốn đă không có bản trụ (thần ngă) th́ hiện tại và mai hậu nhất định cũng không có. V́ ba đời (* quá khứ, hiện tại và vị lai) đều không có nên (tất cả các pháp không có, và, v́ các pháp không có, nên) không có sự phân biệt (vô phân biệt).

 

PHẨM THỨ MƯỜI:
QUÁN LỬA VÀ NHIÊN LIỆU

Nếu lửa chính là nhiên liệu th́ tác nghiệp (nghiệp được tạo tác) và tác giả là một, là đồng nhất, và nếu lửa không là nhiên liệu, là khác nhiên liệu th́ khi tách rời nhiên liệu đương nhiên lửa vẫn (có khả năng) hiện hữu.

Như thế th́ lửa tự nó phải cháy một cách hằng vĩnh và không cần phải có cái nhân là nhiên liệu mới khởi sanh. Thế th́ không cần hỏa công đốt lên, (nên) cũng gọi là lửa vô tác (có lửa không được tạo tác ra).

Lửa đă không đợi, không mượn nhờ vào nhiên liệu (mới hiện hữu) th́ rơ ràng nó cũng đă không phải được sanh ra từ nhân duyên và, lửa nếu tự nó đă cháy một cách hằng vĩnh th́ cần ǵ đến nhân công (nhân công lẽ ra cũng Không, không có).

Nếu ông bảo rằng chính lúc đang cháy đích thị là (gọi là) nhiên liệu như vậy khi ấy chỉ có nhiên liệu thôi thế th́ vật ǵ đốt nhiên liệu?

Nếu nhiên liệu là cái ǵ khác th́ không thể vói tới được, mà đă không vói tới được th́ không thể bắt lửa và đă không thể bắt lư?a th́ đó chính là không tắt-bất diệt, mà đă bất diệt th́ thường trụ bất biến.

Lư?a và nhiên liệu nếu là khác nhau th́ lửa có thể t́m đến với nhiên liệu chẳng khác nào người này (* trong bản tiếng Phạn th́ nói rơ là người đàn bà) đến với người kia (* bản tiếng Phạn: đàn ông) và người kia (đàn ông) đến với người này (đàn bà).

Nếu cho rằng lửa và nhiên liệu cả hai tách rời nhau, như thế th́, lửa có thể bắt bén đến nhiên liệu được.

Nếu nhân nhiên liệu có lửa và nhân lửa có nhiên liệu th́ nhất định phải có một pháp nào trong hai thứ ấy xuất hiện trước để nhiên liệu và lửa được hiện hữu.

Nếu nhân (nhờ) nhiên liệu có lửa th́ hóa ra lửa đă được h́nh thành rồi trở lại h́nh thành, như vậy th́, trong nhiên liệu không có lửa.

Nếu pháp (nào) được h́nh thành nhờ bằng vào sự đối đăi th́ pháp đó sẽ trở thành đối đăi mà hiện tại th́ không có nhân đối đăi nên cũng không có pháp nào được h́nh thành (bởi sự đối đăi).

Nếu pháp nhờ nương vào sự đối đăi mà h́nh thành, vậy th́, khi chưa h́nh thành làm thế nào có thể đối đăi nương tựa nhau, và nếu đă thành rồi (sau đó) mới có sự nương tựa đối đăi như thế th́, đă thành rồi th́ cần chi đến sự đối đăi nương tựa nữa?

Không phải nhân nhiên liệu mới có lửa, cũng không phải không nhân nhiên liệu mà có lửa. Không phải nhân lửa mà có nhiên liệu và cũng không phải không nhân lửa mà có nhiên liệu. (Dịch cách khác: Nhân nhiên liệu không có lửa, không nhờ nhiên liệu cũng không có lửa, Nhân lửa không có nhiên liệu, không nhân lửa cũng không có nhiên liệu).

Lửa đă không đến từ một nơi khác ngoài nó (để nhập vào nhiên liệu). Trong nhiên liệu cũng không có lửa (lửa không đến từ nơi nào khác, nơi lửa cũng không có lửa). Nhiên liệu cũng như thế, ngoài ra những khía cạnh khác đều đă được đề cập trong phẩm Đi và Đến (*Khứ Lai thứ hai: Sự chuyển động và không chuyển động).

Và, nhiên liệu chính nó không phải là lửa, nhưng tách rời nhiên liệu th́ không có lửa. Lửa không hiện hữu trong nhiên liệu, nhiên liệu cũng không hiện hữu trong lửa và, trong nhiên liệu cũng không có lửa.

Sử dụng pháp lửa và nhiên liệu để tŕnh bày pháp thọ và thọ giả (* thọ: ngũ ấm; thọ giả: người), ngoài ra cũng để tŕnh bày về cái b́nh, chiếc áo vân vân..., tất cả các pháp.

Nếu người nào bảo rằng có cái (thật) ngă và các pháp đều có tướng sai biệt th́ phải hiểu rằng những người như thế không nếm được pháp vị của Phật (không liễu giải giáo lư của Phật).

 

PHẨM THỨ MƯỜI MỘT:
QUÁN SÁT BẢN TẾ
(* Trong tiếng Phạn Pùrvàpara-koti-parĩksa
có nghĩa Biên Tế Trước Sau)
 

Đấng đại thánh (Phật) đă dạy rằng: không thể nào t́m thấy được cái biên tế căn bản tối sơ v́ sự sanh tử đă không có sự bắt đầu (thủy) và lại cũng không có sự kết thúc (chung).

Nếu không có sự bắt đầu và kết thúc (thủy chung) th́ khoảng giữa của sự bắt đầu và kết thúc làm thế nào có thể có được, v́ thế mà, trong đó không có trước, khoảng giữa và sau (tam tế).

Giả định rằng v́ trước đă có sự sanh ra nên sau đó mới có sự suy lăo và tử vong, (như thế th́), không có sự suy lăo và tử vong mà vẫn có sự sống, sự sanh trưởng (trước đó) và, không có sự sanh ra mà vẫn có sự già và chết.

Nếu trước đă có già và chết rồi (nên) sau đó mới có sự sanh trưởng (ra đời) như thế th́ là không có nguyên nhân (v́ không có nguyên nhân nên mới có sự việc là) không hề sanh trưởng ra mà vẫn có sự già chết!

Sự sanh trưởng, sự suy lăo và sự chết chóc đă chẳng phải (được) xảy ra đồng lúc v́ như thế th́ ngay đang khi sanh ra cũng là lúc đang chết, vậy th́ cả hai đều (ở trong trường hợp là) không có nguyên nhân.

Nếu giả định rằng cái trước (* trước có sanh sau mới có chết), cái sau (* trước có chết sau mới sanh) và hai cái cọng lại (* chết sống xuất hiện đồng thời) th́ đều không đúng vậy, đă không đúng th́ tại sao lại phải hư luận cho rằng có sự sanh trươ?ng, sự suy già và sự chết chóc?

Các nhân và quả sở hữu (nhân và quả đă có được), các pháp tướng và khả tướng, thọ và thọ giả vân vân... tất cả các pháp sở h ữu (hiện có) chẳng những không chỉ không t́m thấy được cái biên tế cội gốc tối sơ (bản tế) trong sanh tử luân hồi mà ngay như tất cả các pháp cũng thế, không hề có cái bản tế (biên tế tối sơ) đó.

 

PHẨM THỨ MƯỜI HAI:
QUÁN SÁT VỀ SỰ THỐNG KHỔ

Một số người quan niệm rằng sự khổ đau hoặc do chính ḿnh tự tạo, hoặc do những điều kiện, yếu tố khác tạo ra, hoặc do cả hai (kết hợp tạo ra) mà cũng có thể là không do bất cứ nguyên nhân nào. Những quan niệm về sự khổ đau như thế đă hoàn toàn không đúng với cái quả của sự khổ.

Sự khổ đau nếu là do chính ḿnh (tự) tạo ra th́ nó đă không phải được sanh ra từ các Duyên, v́ nhân nhờ có ấm này nên (mới) có ấm kia sanh ra (* ấm tức là uẩn. Ấm là ngăn che, chữ do Ngài La Thập dịch. Uẩn là chứa nhóm, do Ngài Huyền Trang dịch từ chữ kiền độ (skandha); có một số người khác dịch là chúng).

Nếu cho rằng năm ấm này là khác biệt hoàn toàn với năm ấm kia th́ lẽ ra phải nói rằng khổ đau đă được tạo nên từ những yếu tố khác.

Nếu sự khổ đau là do chính con người tạo ra như thế th́, khi tách rời khỏi sự khổ đau, làm thế nào con người có thể hiện hữu (làm sao có con người) mà bảo rằng người đó (có khả năng) tự tạo khổ đau cho chính ḿnh.

Nếu khổ đau là do tha nhân (người khác) tạo ra rồi đem gán cho người này nếu thế th́, đang khi tách rời sự đau khổ (khoảng giữa sự chuyển tiếp) làm thế nào có thể có người thọ khổ này.

Khổ đau nếu là do người khác (kia) tạo ra rồi đem gán cho người này như vậy th́, làm thế nào có thể có một con người đă thoát ly sự đau khổ nhưng vẫn có khả năng trao sự khổ đau cho người này?

Tự ḿnh tạo tác nếu đă bất thành th́ làm thế nào có thể tạo ra sự khổ đau cho kẻ khác được, và nếu người khác kia tạo ra sự khổ th́ cái khổ đó tức cũng được gọi là tự tạo tác (* v́ người khác đă tự tạo th́ sự tạo tác của chính họ đích thực là sự tự tác).

Không thể bảo (gọi) rằng sự khổ đau là tự tác (là một cái ǵ tự h́nh thành, tự tạo ra) v́ lẽ chính pháp không thể tự tạo tác ra pháp, cũng thế, sự đau khổ đó vốn đă không có tự thể th́ làm thế nào nó lại có khả năng tạo ra sự thống khổ.

Nếu sự khổ đau được tựu thành bởi cái này và cái kia (* tự tạo và do người khác tạo-tự tác và tha tác) th́ lẽ ra phải có cái khổ được thành tựu bởi sự cộng tác (* tự và tha cọng lại tạo ra khổ). Cái này và cái kia (tự ḿnh và người khác) vẫn c̣n không thể tạo nên sự thống khổ huống chi là không có nguyên nhân (mà có thể) tạo ra.

Chẳng phải chỉ đề cập đến bốn loại ư nghĩa (* tự tác, tha tác, cọng tác và vô nhân tác) của sự khổ đau đều không thể thành lập mà tất cả vạn vật ngoại thân (bên ngoài) đều cũng không thể thành lập nếu y cứ vào bốn nghĩa trên để quan sát.

 

PHẨM THỨ MƯỜI BA:
QUÁN SÁT CÁC HÀNH

Như trong các kinh, đức Phật đă dạy: hư huyễn không thật (* hư cuống-Mrsà) chính là vọng tưởng thủ chấp vào cảnh tướng (* Mosadharma) (hiện tượng hiện khởi). V́ do vọng ttưởng thủ chấp vào các hành nên gọi đó là hư cuống.

Kẻ vọng tưởng (suy tưởng mê lầm không thật) chấp thủ (bám giữ) vào những tướng hư huyễn không thật ấy thử hỏi trong (các hành) đó cái ǵ là sở thủ (cảnh tướng bị chấp giữ)? Đức Phật chỉ dạy những sự việc như thế là v́ muốn hiển thị Không Nghĩa (* ư nghĩa của Không tánh).

V́ các pháp hữu vi đều sanh diệt biến dị (biến dịch thay đổi miên tục) thế nên biết rằng (các pháp) đều không có tự tánh (vô tánh). Và ngay cả (cái gọi là) Pháp không có tự tánh (pháp vô tự tánh) đó cũng không có nốt nên, tất cả các pháp đều Không vậy. (không có thật thể).

Các pháp nếu không có tự tánh, thế th́, làm thế nào có thể bảo rằng có (rất nhiều) sự thay đổi biến dị từ khi là một trẻ con cho đến lúc tuổi già? (* từ một đứa trẻ mới sanh đến lúc tuổi già vẫn có các thứ thay đổi).

Nếu các pháp mà có tự tánh th́ làm thế nào có thể thay đổi biến dị được? và nếu các pháp không có tự tánh th́ tại sao có sự thay đổi biến dị?

Chính nó�pháp (một pháp này) th́ không có thay đổi biến dịch và Pháp biến dị thay đổi th́ cũng không có thay đổi biến dịch giống như trẻ không tạo ra già và cũng không thể trẻ tạo ra trẻ được. (*tráng niên không thể tạo ra lăo niên và lăo niên không thể tác thành tuổi tráng niên).

Nếu tự thể của pháp chính là sự thay đổi biến dị th́ lẽ ra sữa cũng phải chính là bơ nhưng khi tách rời sữa ra th́ nào có pháp ǵ khác để có thể làm thành bơ!

Nếu có một pháp nào chẳng Không th́ lẽ ra cũng phải có một pháp nào đó gọi là Không, nhưng thật tế th́ đă không có cái pháp gọi là chẳng Không thế th́ làm thế nào có thể có được cái pháp gọi là Không? (không pháp).

Đấng Đại Thánh (đức Phật) dạy rằng: Không Pháp là viễn ly các kiến chấp, nhưng nếu trở lại chấp thấy có cái Không (kiến chấp về Không), th́ chư Phật cũng không thể hóa độ.

 

PHẨM THỨ MƯỜI BỐN:
QUÁN SÁT SỰ H̉A HỢP

Cái thấy (* kiến: nhăn căn), đối tượng bị thấy (* khả kiến: sắc trần ) và người thấy (* kiến giả: nhăn thức) ba cái này mỗi một cái ở một phương vị khác biệt mà ba pháp (cái) đă sai biệt như thế th́ hoàn toàn không thể có một lúc nào đó sẽ có sự ḥa hợp được.

Sự tham đắm, đối tượng của sự tham đắm và người tham đắm cũng phải được quán sát như thế, ngoài ra, các Nhập (*năm nhập: nhập là sự liên quan ra vào như trong kinh thường gọi lục nhập...) khác và phiền năo vân vân... đều cũng nên quán sát như thế.

Nếu là pháp (vật ǵ) sai khác th́ đương nhiên (phải) có sự ḥa hợp, nhưng, cái thấy vân vân... không có tướng sai khác, và v́ tướng sai khác đă bất thành (không thể thành lập) nên cái thấy vân vân... làm thế nào có thể ḥa hợp được?

Chẳng những không chỉ có đối tượng của cái thấy vân vân... (* đối tượng bị thấy và người thấy) không thể t́m thấy được tướng sai biệt của nó không thôi mà ngay cả tất cả pháp hiện hữu đều cũng không thể t́m thấy tướng sai biệt (dị tướng).

Sở dĩ sai biệt (* các duyên ḥa hợp thành một pháp) là v́ cái nhân sai biệt (nhân ḥa hợp những sai biệt) nên có sự sai biệt. Sai biệt mà tách rời sự sai biệt th́ không c̣n là sai biệt. Nếu pháp đă từ nhân xuất sanh (nguyên nhân) th́ pháp ấy không khác nhân.

Nếu tách rời nơi cái sai khác ấy mà vẫn có pháp sai khác th́ lẽ ra ngoài sự sai biệt vẫn có sự sai biệt (sự sai biệt vẫn hiện hữu). Nhưng, khi tách rời khỏi nơi sai biệt th́ không c̣n là sai biệt, v́ thế nên, không có sai biệt.

Trong sự sai biệt không có tướng sai biệt, không phải ở trong sự sai biệt cũng không có tướng sai biệt, v́ không có tướng sai biệt nên không có sự sai biệt giữa cái này và cái kia.

Tự thể của (một) pháp không thể tự ḥa hợp, pháp sai biệt khác cũng không thể ḥa hợp. Pháp được ḥa hợp, thời điểm để ḥa hợp và chủ thể đứng ra ḥa hợp đều không thể có được. (hợp giả, hợp thời, hợp pháp).

TRUNG LUẬN QUYỂN THỨ BA

PHẨM THỨ MƯỜI LĂM:
QUÁN HỮU VÔ

(Nếu cho rằng) Tự tánh hiện hữu trong các duyên là một sự kiện sai lầm. (v́) Tự tánh mà từ các duyên phát sanh th́ tự tánh ấy chính là pháp hữu vi sanh diệt (* tác pháp: pháp được tạo tác thành, tức chỉ cho hữu vi sinh diệt).

Làm thế nào có thể có ư nghĩa nếu tự tánh là một cái ǵ được tạo thành (nếu tự tánh là pháp hữu vi sanh diệt)? Tự tánh chính là cái không phải do được (nhân duyên) tạo ra, không phải nhờ vào một pháp khác mà được h́nh thành.

Pháp nếu đă không có tự tánh th́ làm thế nào có tha tánh? V́ tự tánh đối tha tánh cũng c̣n được gọi là tha tánh.

Tách ĺa tự tánh và tha tánh th́ làm sao lại có Pháp. Các pháp chỉ được h́nh thành nếu có tự và tha tánh.

Hữu (thật có tự tánh) nếu đă không thành lập được th́ làm thế nào mà Vô (vô tự tánh) có thể thành lập được? Nhân v́ Hữu (có tự tánh) cho nên có Pháp, nếu Hữu (có tự tánh) bị hoại diệt th́ gọi đó là Vô (vô tự tánh).

Nếu người nào thấy (chấp trước) có Hữu (có tự tánh) và Vô (không có tự tánh), và thấy có tự tánh và tha tánh (như thế) th́ họ (đă) không thấy được nghĩa chân thật của Phật pháp.

Đức Phật có khả năng diệt trừ cả hữu lẫn vô như trong kinh đă tŕnh bày về việc (Thế tôn) giáo hóa tôn giả Ca Chiên Diên nên xa ĺa cả vô và hữu.

Nếu pháp thật có tự tánh th́ sau đó lẽ ra không có sự biến dị (thay đổi). Tự tánh nếu c̣n có tướng biến dị th́ sự kiện này hoàn toàn không hợp lư.

Nếu pháp thật sự có tự tánh th́ làm thế nào mà nó có thể thay đổi biến dị được? Và nếu pháp thật sự không có tự tánh th́ cũng làm thế nào mà nó có thể thay đổi biến dị được?

Quyết định rằng là Hữu th́ bị rơi vào sự chấp thường mà quyết định rằng là Vô th́ rơi ngay vào chấp đoạn, thế nên người có trí (bậc hữu trí) không nên chấp hữu vô.

Nếu các pháp có tự tánh nhất định (chắc chắn có tự tánh) th́ nó chẳng phải là vô mà chính là thường hằng và nếu trước Hữu nay Vô, như thế là đoạn diệt.

 

PHẨM THỨ MƯỜI SÁU:
QUÁN SÁT VỀ SỰ TRÓI BUỘC VÀ GIẢI THOÁT

Nếu cho rằng các hành là sự qua lại đến đi (luân hồi sanh tử) th́ trong cái thường tại không có vấn đề đi đến. Trong sự vô thường cũng không nốt luôn sự đi đến, chúng sanh cũng y hệt như thế (*nghĩa là không c̣n hiện tượng lại qua trong luân hồi sanh tử nữa).

Nếu quan niệm rằng chúng sanh luân hồi qua lại th́ trong ngũ Ấm, các Giới và các Nhập dù có tận triển năm thứ phương pháp (* Sắc không phải là ngă, tách rời sắc cũng không có ngă, không ĺa sắc cũng không có ngă, trong ngă không có sắc, trong sắc không có ngă) để truy tầm cũng không thể t́m thấy có ai là kẻ luân hồi qua lại (trong sanh tử).

Nếu từ thân này chuyển đến thân khác th́ khi luân hồi qua lại tức là không có thân h́nh và nếu kẻ ấy không có thân h́nh th́ đương nhiên họ không có sự luân hồi qua lại.

Các hành nếu hoại diệt th́ sự kiện này hoàn toàn không đúng, và nếu chúng sanh hoại diệt th́ việc đó cũng không hợp lư.

Tướng sanh diệt của các hành (tự nó) không trói buộc mà cũng chẳng giải trừ và chúng sanh như đă tŕnh bày là (tự chúng) chẳng trói buộc cũng chẳng giải thoát.

Nếu thân thể được gọi là sự trói buộc th́ khi có thân thể đương nhiên không bị trói buộc (* v́ thân ngũ ấm có trước, sự triền phược có sau). Không có thân cũng không bị trói buộc, thế th́ nơi nào là nơi có sự trói buộc?

Nếu cho rằng sự trói buộc hiện hữu trước đối tượng của sự trói buộc th́ lẽ ra đối tượng bị trói buộc ấy đă bị trói buộc. Nhưng thật tế trước đó đă không có sự trói buộc, ngoài ra những khía cạnh khác có liên hệ đều đă được giải đáp trong phần đă di chuyển, đang di chuyển và chưa di chuyển (phẩm thứ hai).

Kẻ bị trói buộc th́ không có sự giải thoát và kẻ không bị trói buộc th́ cũng không cần giải thoát. Khi có kẻ bị trói buộc th́ mới có kẻ được giải thoát, thế th́, sự trói buộc và giải thoát đương nhiên phải xảy ra cùng lúc.

Nếu không thọ nhận các pháp, đương nhiên tôi phải chứng niết bàn, người nào chấp trước như thế, sẽ bị nhận chịu sự trói buộc, (* v́ c̣n chấp có chứng đắc niết bàn nên bị cái chấp ràng buộc).

Không phải tách rời, ĺa bỏ sự sanh tư? mà có cảnh giới niết bàn riêng biệt (biệt lập). Nghĩa thật tướng như thế th́ làm ǵ có sự phân biệt?

 

PHẨM THỨ MƯỜI BẨY:
QUÁN SÁT VỀ NGHIỆP

Người nào có khả năng hàng phục, chế ngự tâm ḿnh và làm những điều từ thiện lợi ích đối với chúng sanh th́ đó chính là gieo trồng hạt giống quả báo cho hai đời (đời này và đời sau). (Dịch cách khác: Người nào có khả năng hàng phục tâm ḿnh, đối với chúng sanh làm những điều lợi ích th́ người đó gọi là người làm những việc từ thiện gieo trồng quả báo cho hai đời).

Đức Phật dạy có hai loại nghiệp đó chính là ư chí và những điều từ ư chí phát sanh (* Tư cập tùng Tư sanh. Tư chính là tâm sở pháp, lấy sự tạo tác làm dụng, có khả năng suy động sự tạo tác của nội tâm, phát động sự hoạt động của thân thể, sự nói năng của miệng lưỡi. Tư chính là ư chí, từ sự tư duy, suy nghĩ đưa dẫn đến quyết định hành động, v́ thế nó chính là động lực của nghiệp, nhân sự phát động của tư tâm sở mà nó có khả năng biểu hiện những động tác và nói năng của thân thể nên gọi là từ tư tâm sởhát sanh ra) những biệt tướng của nghiệp trong kinh đă phân biệt thuyết minh từng loại.

Đức Phật dạy tư nghiệp (ư chí) đó chính là (cái gọi là) ư nghiệp và những điều từ ư chí phát sanh (tư sanh) chính là thân và khẩu nghiệp.

Thân nghiệp và khẩu nghiệp, tác và vô tác nghiệp (tạo nghiệp và không tạo nghiệp) trong bốn sự việc như thế, vừa thiện vừa bất thiện.

Từ (tác thọ) dụng sanh ra phước đức, tội lỗi cũng như thế mà được sanh ra, và Tư (ư chí) là bảy pháp (* 1. thân nghiệp, 2. khẩu nghiệp, 3. tác nghiệp, 4. vô tác nghiệp, 5. thiện nghiệp, 6. bất thiện nghiệp và 7. tư nghiệp), bảy pháp này có khả năng liễu giải các nghiệp tướng (làm sáng tỏ các hành tướng của nghiệp).

Nếu nghiệp (lực) vẫn tồn tại (trụ) măi cho đến khi thọ (quả) báo th́ nghiệp đó chính là cái thường hằng và nếu nghiệp không tồn tại (diệt) th́ là không có nghiệp, không có nghiệp th́ làm thế nào có thể sanh ra quả báo?

Chẳng khác nào sự tương tục của cái mầm vân vân..., nó đều được sanh ra từ hạt giống (chủng tử), từ đó mà sanh ra quả, nếu tách rời hạt giống th́ không có sự tương tục.

Từ hạt giống mới có sự tương tục, từ sự tương tục mới có quả. Trước có hạt giống sau đó mới có quả, không đoạn cũng chẳng thường.

Như thế từ lúc sơ tâm, tâm pháp phát sanh một cách tương tục, từ đó mà có quả. Tách rời tâm th́ không có sự tương tục.

Từ nơi tâm mà có được sự tương tục, từ nơi sự tương tục mà có quả, nghiệp có trước, quả có sau (trước có nghiệp sau mới có quả), không đoạn mà cũng chẳng thường.

Có thể thành tựu những phước đức bằng con đường thập bạch nghiệp (*mười điều thiện thanh tịnh trong sạch). Năm thứ dục lạc của hai đời (đời này và đời sau) chính là quả báo bạch nghiệp (nghiệp trong sạch thanh tịnh).

Nếu như ông (chỉ ngoại đạo) nảy sanh các thứ phân biệt th́ đó chính là một lầm lỗi rất lớn (nhiều), v́ thế nên, những điều ông tŕnh bày, ư nghĩa đă không đúng như thế.

Nay, một lần nữa, sẽ phải tŕnh bày lại về ư nghĩa của thuận nghiệp quả báo (* tùy thuận theo nghiệp lực mà chiêu cảm, thọ lănh lấy quả báo) mà chư Phật, Bích Chi Phật và Thanh văn thánh hiền đă cùng nhau xưng tán (tán dương, xưng tụng).

Cái pháp không mất (* chỉ cho sự tương tục không gián đoạn của nghiệp lực) th́ giống như cái giấy chứng khoán hợp đồng về nợ nần, và nghiệp th́ giống như của cải tiền bạc (tài vật) bị mắc nợ, (người bị mắc nợ của cải tiền bạc) tánh của nó th́ vô kư, nếu phân biệt th́ có bốn loại (* 1. Dục giới nghiệp hệ, 2. sắc giới hệ, 3. vô sắc giới hệ và 4. vô lậu hệ).

Không thể đoạn trừ nghiệp lực bằng cách kiến đạo (kiến đế) được. Chỉ có thể đoạn trừ chấm dứt nghiệp lực bằng con đường tu tập đạo lư (tu đạo = tư duy) mà thôi, do đó nhờ cái pháp (sự) không mất ấy mà các nghiệp đưa dẫn đến việc có quả báo.

Nếu kiến đế (kiến đạo = thấy đạo) mà có thể đoạn trừ (chấm dứt) được (sự tương tục không mất) th́ nghiệp vẫn xảy đến tương tợ, như thế th́ vướng mắc vào nhiều lầm lỗi là đă phá hủy các nghiệp.

Tất cả các hành nghiệp dù giống nhau hay không giống nhau đều thuộc về một cảnh giới vừa mới thọ thân, lúc ấy (duy nhất) chỉ có quả báo đơn độc sanh khởi.

Hai loại nghiệp như thế (* theo ngài Thanh Biện: tác và vô tác nghiệp; theo ngài Thanh Mục th́: khinh và trọng nghiệp, có thuyết khác th́ bảo: tương tợ và bất tương tợ) hiện thế (đời này) lănh thọ quả báo, hoặc bảo là đă thọ báo xong (* báo gồm có hoa báo, quả báo và dư báo) nhưng nghiệp vẫn c̣n tồn tại.

Nếu đắc độ (chứng được) (tứ) quả (nhập niết bàn) xong rồi (nghiệp lực) mới diệt hết và nếu chết rồi mới diệt, trong đó phải phân biệt kỹ giữa hữu lậu và vô lậu (* nếu chứng tứ quả, nhập niết bàn th́ không thọ hậu hữu, nghiệp đă dứt sạch nên gọi là vô lậu; và nếu chúng sanh quả báo chấm dứt nên chết th́ nhứt kỳ nghiệp báo cũng diệt tuy nhiên chỉ diệt nhứt kỳ nghiệp báo nhưng vẫn c̣n thọ hậu hữu nên gọi là hữu lậu).

Dẫu là Không đi nữa cũng không đoạn tuyệt và dẫu là Hữu th́ cũng vẫn chẳng thường hằng, nghiệp và quả báo không bao giờ bị mất, đó chính là lời Phật dạy.

Các nghiệp vốn chẳng sanh, v́ nó không hề có định tánh (tự tánh nhất định, cố định). Các nghiệp cũng chẳng diệt, v́ nó vốn chẳng sanh.

Nếu nghiệp mà có tự tánh th́ nó chắc chắn là thường hằng (gọi là thường). Không tạo tác cũng gọi là nghiệp, lư do là v́ đă thường hằng, thường tại nên không thể tạo tác.

Nếu có cái nghiệp mà không hề được tạo tác ra và dù không tạo tác ra nghiệp nhưng vẫn có tội th́ (chẳng khác nào dù) không chấm dứt (rời bỏ) đời sống phạm hạnh thanh tịnh những vẫn có lỗi bất tịnh.

Như thế th́ phá hủy tất cả những pháp tắc, tập quán, ngữ ngôn pháp của thế gian, như thế th́ tạo tội và tạo phước cũng không có bất cứ sự sai biệt nào.

Nếu cho rằng nghiệp là một cái ǵ nhất định (quyết định nghiệp) chính tự nó có tự tánh, như thế th́, khi đă lănh thọ quả báo xong nhưng lại trở lại phải thọ lănh nữa.

Nếu các nghiệp của thế gian, được sanh ra từ phiền năo mà phiền năo (là một cái ǵ) chẳng phải thật có, thế th́ nghiệp làm sao có thể có thật?

Các phiền năo và nghiệp báo được tŕnh bày như là những nhân duyên của thân mạng (* v́ thân mạng sở dĩ có được là do có quả báo của sự thống khổ làm nhân duyên tạo thành). Phiền năo và các nghiệp tự chính nó đều là Không (không có tự tánh) huống chi là các thân mạng?

V́ bị vô minh che lấp, ái kết buộc ràng (sự trói buộc của những ái dục cô kết chặt chẽ) nhưng chính tác giả (kẻ tạo nghiệp) tác nghiệp (nghiệp được tạo tác) và thọ giả (kẻ thọ quả báo) (* ba cái gọi chung là bổn tác giả) không đồng nhất cũng không sai biệt.

Nghiệp không từ các duyên sanh ra mà cũng không từ không phải các duyên sanh ra v́ thế nên không có kẻ có khả năng sanh khởi ra nghiệp báo.

Không có nghiệp và không có kẻ tạo ra nghiệp (tác giả) th́ làm ǵ lại có cái nghiệp sanh ra quả báo? Và nếu nó không có quả báo th́ làm ǵ lại có người thọ lănh quả báo?

Giống như đức Thế Tôn sử dụng thần thông tạo ra một người biến hóa và cũng như thế người biến hóa này lại tạo ra một người biến hóa khác. Như người biến hóa trước nhất th́ gọi là tác giả (chính là kẻ tạo tác) và người biến hóa được tạo ra th́ gọi là nghiệp (đích thị là nghiệp). Các phiền năo và nghiệp, tác giả (kẻ tạo nghiệp) và quả báo, đều như huyễn hóa và mộng mị (chiêm bao) chẳng khác nào quáng nắng (* giữa sa mạc quáng nắng tạo cho ta có cảm tưởng như là đang thấy nước ở trước mặt) và sự đồng vọng của một tiếng vang.

 

PHẨM THỨ MƯỜI TÁM:
QUÁN PHÁP
(Àtma-parĩksà)

Nếu ngă chính là năm ấm th́ ngă tức là, đích thị là (thuộc về những cái) sanh diệt; nếu ngă là sai khác với năm ấm th́ nó không phải là tướng ngũ ấm.

Nếu không có cái gọi là ngă th́ làm thế nào có được những thuộc tính của ngă (ngă sở). V́ diệt trừ cái ngă và thuộc tính của ngă (ngă sở cho nên gọi là chứng đắc Vô Ngă Trí. Người chứng được vô ngă trí th́ gọi đó là Thật quán. Người chứng được Vô Ngă Trí là bậc vô cùng hy hữu. V́ nội tâm và ngoại cảnh, ngă và thuộc tính của ngă (* ngă sở: những cái thuộc về của tôi) đều bị diệt sạch không mảy may c̣n nên các Thọ (*các thủ: ngă ngữ thủ, dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ) lập tức cũng bị diệt sạch, thọ diệt th́ thân diệt. V́ nghiệp và phiền năo diệt nên gọi đó là giải thoát. Nghiệp và phiền năo là những cái không có thật, một khi đă thâm nhập vào Không Tánh th́ tức khắc mọi hư luận đều bị tận diệt. Chư Phật hoặc dạy về ngă hoặc dạy về vô ngă đều khẳng quyết là trong thật tướng của các pháp không có cái vô ngă và không có cái chẳng phải ngă (vô ngă vô phi ngă).

Thật tướng của các pháp th́ đoạn bặt, cắt đứt cả tâm hành lẫn ngôn ngữ (* sự tư duy và nói năng), (nó-thật tướng của các pháp) không sanh cũng không diệt, tịch diệt (vắng lặng) như niết bàn, tất cả những điều thật và không phải thật, vừa thật vừa phi thật, phi thật và không phải phi thật (phi phi thật: chẳng phải chẳng phải thật) đó chính là giáo pháp của chư Phật. Tự ḿnh tri nhận, (chính ḿnh thể nghiệm) chứ không tùy thuộc vào (theo sự thuyết giải của) kẻ khác (mà tín giải). Tịch diệt không hư luận, không c̣n có sự sai khác và phân biệt (vô phân biệt) đó chính là thật tướng. Nếu các pháp được sanh ra từ các duyên, th́ nó chẳng chính là (đồng nhất với) nhân mà cũng chẳng sai khác với nhân (bất tức bất dị) v́ thế gọi là thật tướng. Không đoạn cũng không thường, không đồng nhất cũng chẳng sai biệt, không thường cũng không đoạn, đó chính là những vị cam lồ (giáo pháp bất tử) mà chư Phật đă giáo hóa (giảng dạy để hóa độ). Nếu đức Phật không xuất thế và Phật pháp đă diệt tận (* ư nói khi Phật pháp đă diệt nhưng Phật vẫn chưa thị hiện) th́ trí tuệ của những vị Bích chi Phật sẽ từ sự viễn ly (xa ĺa các pháp chấp) mà phát sanh.

 

PHẨM THỨ MƯỜI CHÍN:
QUÁN THỜI GIAN
 

Nếu nhân nhờ vào quá khứ mà hiện tại và vị lai hiện hữu th́ hiện tại và vị lai lẽ ra phải hiện hữu ngay trong thời quá khứ.

Nếu hiện tại và vị lai đă không hiện hữu trong thời gian quá khứ th́ làm thế nào (có thể bảo rằng) hiện tại và vị lai đă nhân nhờ vào quá khứ (mà hiện hữu)?

Không nhân nhờ vào thời quá khứ th́ không có thời vị lai và thời hiện tại, như thế th́ hai thời đều không có.

V́ ư nghĩa như thế nên biết là hai thời gian c̣n lại và những ư niệm về cái trên, cái giữa và cái dưới; về sự đồng nhất và sự sai biệt, vân vân..., các pháp đều không có.

Không thể có được một khoảng thời gian đứng yên không biến thiên (trụ). Cũng không thể có được khoảng thời gian luôn xê dịch di động (khứ). Nếu thời gian mà không có (bất khả đắc: không thể nắm bắt được) th́ làm thế nào có thể đề cập đến tướng trạng của thời gian?

Nhân nhờ vào vật thể (biến dị) mà (biết) có thời gian, tách rời vật th́ làm sao thời gian hiện hữu. Vật thể c̣n không có huống hồ là thời gian. (vật thể c̣n không có huống chi là có thời gian).

 

PHẨM THỨ HAI MƯƠI:
QUÁN SÁT NHÂN VÀ QUẢ

Nếu do sự ḥa hợp của các duyên mà quả được sanh khởi th́ nó (quả) đă hiện hữu sẵn trong sự ḥa hợp, thế th́ cần ǵ phải nhờ vào sự ḥa hợp mới sanh khởi?

Nếu không có quả trong sự ḥa hợp của các duyên th́ làm thế nào cái quả đó có thể sanh khởi từ trong sự ḥa hợp của các duyên?

Nếu quả hiện hữu trong sự ḥa hợp của các duyên th́ tất nhiên trong sự ḥa hợp phải có quả nhưng sự thật th́ đă không thể t́m thấy được (bất khả đắc).

Nếu quả không hiện hữu trong sự ḥa hợp của các duyên th́ các nhân duyên và chẳng phải nhân duyên là giống nhau (đồng nhất).

Nếu Nhân chuyển trao cho Quả cái năng lực mà Nhân có thể tạo tác trước khi tự diệt (đă trao xong), th́ lúc ấy Nhân có hai loại thể tướng, đó là cái được chuyển trao và cái bị hủy diệt.

Nếu Nhân không chuyển trao cho Quả xong cái năng lực mà Nhân có khả năng tạo tác (tác nhân) nhưng đă bị diệt (như thế) Nhân đă bị hủy diệt mà Quả vẫn khởi sanh, vậy th́ Quả đó là không có Nhân.

Nếu đang khi các duyên ḥa hợp mà quả được sanh khởi cùng lúc th́ kẻ sanh và cái được sanh đồng thời hiện hữu.

Nếu trước đó có quả sanh khởi nhưng sau đó các duyên mới ḥa hợp th́ điều đó cũng có nghĩa (tức: chính là) là tách ĺa khỏi nhân duyên, và như vậy đích thị là cái quả không có nhân.

Nếu nhân (bị hủy diệt để) chuyển biến làm quả th́ tức là nhân đă đến với quả, như thế th́ nhân đă được sanh trước đó nhưng đă sanh xong rồi trở lại sanh ra nữa.

Làm thế nào mà một cái nhân đă bị diệt mất nhưng vẫn có khả năng sanh khởi ra quả? vả lại nếu nhân hiện hữu (tồn tại) trong quả th́ làm thế nào nhân có thể sanh quả?

Nếu nhân đă bao trùm các quả hiện hữu thế th́ tại sao lại phải sanh khởi các quả làm ǵ? trong nhân thấy hoặc không thấy quả cả hai trường hợp đều không sanh khởi (ra quả). (* ư nói nếu trong nhân thấy có quả th́ quả đă có rồi, có rồi th́ không cần phải sanh nữa. Và nếu không thấy quả trong nhân th́ ĺa rời nhân vẫn có quả v́ quả không hiện hữu trong nhân và ngược lại. Như thế th́ quả không do nhân sanh và nhân không do quả sanh).

Nếu bảo rằng cái nhân quá khứ ḥa hợp với cái quả quá khứ, cái quả hiện tại và cái quả vị lai th́ điều đó hoàn toàn không thể có. Nếu bảo rằng cái nhân vị lai ḥa hợp với cái quả vị lai, cái quả hiện tại và cái quả quá khứ th́ hoàn toàn không hợp lư. Nếu bảo rằng cái nhân hiện tại ḥa hợp với cái quả hiện tại, cái quả vị lai và cái quả của quá khứ th́ hoàn toàn không thể được (* đoạn này nói về tam thế và cư?u trùng nhân quả).

Nếu không thể ḥa hợp th́ làm thế nào nhân có thể sanh quả? và giả định rằng có sự ḥa hợp th́ cũng làm thế nào nhân có thể sanh quả?

Nếu nhân là Không, không có quả th́ nhân làm sao có khả năng sanh ra quả? và nếu nhân là không phải Không không có quả (tức trong nhân có quả) th́ nhân làm thế nào có thể sanh quả?

Quả chẳng phải Không th́ không thể sanh (* v́ chẳng không tức là có nếu đă có th́ không sanh), quả chẳng Không chẳng diệt, v́ quả chẳng Không nên không sanh cũng không diệt. V́ Quả Không nên không sanh, v́ quả Không nên không diệt, v́ quả chính là Không, cho nên không sanh cũng chẳng diệt.

Nếu nhân và quả là một, là đồng nhất th́ hoàn toàn không hợp lư và nếu nhân và quả là khác biệt nhau th́ sự kiện này cũng không đúng. Nếu nhân và quả là đồng nhất, th́ sự sanh khởi và cái được sanh khởi cũng phải đồng nhất. Nếu nhân và quả là khác biệt th́ cái nhân đồng với cái chẳng phải nhân (phi nhân).

Nếu quả mà có tự tánh nhất định th́ nhân làm thế nào có thể sanh ra nó? Nếu quả nhất định không có tự tánh th́ nhân cũng làm thế nào có thể sanh ra nó? Nếu nhân không sanh ra quả th́ không có cái thể tướng của nhân, và nếu không có thể tướng của nhân th́ cái ǵ (ai, hoặc đâu) có thể có cái quả đó? (quả đó thuộc về cái ǵ?)

Nếu cho rằng từ các nhân duyên mà có sanh ra sự ḥa hợp, nhưng, sự ḥa hợp tự nó không sanh th́ làm thế nào nó có thể sanh ra quả? Thế nên, quả đă không từ các duyên ḥa hợp hay không ḥa hợp sanh ra. V́ nếu không có quả th́ nơi nào có pháp ḥa hợp?

 

PHẨM THỨ HAI MƯƠI MỐT:
QUÁN SÁT VỀ SỰ SINH THÀNH VÀ HOẠI DIỆT

Tách rời sự sinh thành và sự cộng thành (hoại và thành cộng lại đồng lúc hiện hữu), trong đó không có sự hoại diệt. Tách rời sự hoại diệt và cộng diệt (sự hoại diệt và sự sinh thành cộng lại: hai cái đồng thời có mặt) th́ sự sinh thành cũng không hiện hữu trong đó.

Nếu tách rời khỏi sự sinh thành th́ làm thế nào sự hoại diệt có thể hiện hữu? Điều đó không đúng v́ chẳng khác nào cho rằng ĺa bỏ sự sống th́ sự chết mới hiện hữu. Nếu sự sinh thành và sự hoại diệt đồng lúc hiện hữu th́ làm thế nào có thể có sự sinh thành và sự hoại diệt (* v́ thành và hoại hai tướng khác nhau và nếu nó là một th́ nhất định không thể là thành hay hoại). Giống như sự chết và sống của thế gian, sẽ một sai lầm lớn khi cho rằng hai vấn đề đồng lúc xảy ra. Sự sinh thành làm sao có thể hiện hữu nếu nó bị tách rời khỏi sự hoại diệt? Chưa từng bao giờ thấy có sự kiện là không có sự vô thường trong các pháp.

Cộng sự sinh thành và sự hoại diệt lại (thành và hoại đồng lúc xuất hiện) cũng không có sự sinh thành mà tách rời nó th́ cũng không có sự sinh thành. Trong hai nơi ấy đều không t́m thấy, thế th́ làm thế nào mà sự sinh thành có thể hiện hữu?

Đă tận diệt th́ không thể có sự sinh thành và không tận diệt th́ cũng chẳng có sự sinh thành. Đă tận diệt th́ tướng hư hoại không c̣n hiện hữu và không tận diệt th́ hoại tướng cũng chẳng hiện hữu.

Nếu tách khỏi sự sinh thành và hoại diệt th́ cũng không có bất cứ pháp nào hiện hữu, và nếu phải rời khỏi các pháp th́ sự sinh thành và hoại diệt cũng không thể hiện hữu.

Nếu tự tánh của các pháp là Không th́ cái ǵ sẽ là cái (ai) có sự sinh thành và hoại diệt? Và nếu tự tánh của các pháp không là Không th́ sự sinh thành và hoại diệt cũng không thể có được.

Sự sinh thành và hoại diệt nếu là một, là đồng nhất th́ sự kiện ấy không đúng, và sự sinh thành và sự hoại diệt nếu là khác biệt nhau th́ sự kiện ấy cũng chẳng đúng.

Nếu quan niệm rằng do mắt thấy nên có sự sanh diệt th́ đó chính là si mê vọng tươ?ng, v́ si vọng nên thấy có sanh diệt.

Một pháp không thể sanh khởi từ một pháp, một pháp cũng không thể sanh khởi từ một cái chẳng phải là pháp. Từ cái chẳng phải pháp không thể khởi sanh ra pháp và cái chẳng phải pháp (phi pháp).

Pháp không phải được sanh khởi từ chính nó (bất tùng tự sanh), pháp cũng không phải được sanh khởi bởi từ một cái ǵ khác (bất tùng tha sanh). Đă không được sanh khở từ chính bản thân và cái ǵ khác bên ngoài th́ làm thế nào có thể có cái gọi là sự sanh khởi?

Nếu có sự thọ chấp vào các pháp (*thọ chấp: nhăn căn đối sắc trần có sự cảm thọ và chấp trước vào cảm thọ ấy) th́ chính (tức) là đă rơi vào thường kiến và đoạn kiến. Phải biết rằng các pháp được cảm thọ th́ đều hoặc là thường hoặc vô thường.

Những ai đang bị vướng mắc bởi sự thọ chấp vào các pháp mà không rơi vào đoạn và thường kiến là bởi lư do nhân và quả luôn luôn tương tục nên không đoạn mà cũng chẳng thường.

Nếu nhân và quả, mà có sự sanh khởi và hoại diệt tương tục không dứt (đoạn) như thế th́ cái nhân chính là đoạn diệt và v́ đă là đoạn diệt cho nên không thể tái sanh.

Nếu pháp mà thường trụ nơi tự tánh th́ lẽ ra đă không có hữu và vô, và sự diệt sạch chuỗi tương tục (của sanh tử) của cảnh giới niết bàn th́ (bị) rơi vào chỗ đoạn diệt!

Nếu lúc ban đầu mà có sự hoại diệt th́ chắc chắn sau đó không có sự hiện hữu, và lúc ban đầu nếu đă hiện hữu và không bị hoại diệt th́ cũng không có sự hiện hữu sau đó.

Nếu lúc đầu đă có sự hoại diệt nhưng sau đó vẫn có sự sanh khởi th́ rơ ràng có một cái đang diệt và có một cái đang sanh (hai cái khác nhau).

Nếu bảo rằng sanh và diệt xảy ra cùng lúc th́ chẳng khác nào bảo rằng cái ấm (uẩn) này chết ngay khi ấm này đang sanh (sanh tử đồng thời).

Không thể nào t́m thấy sự hiện hữu của chuỗi tương tục trong ba đời (quá, hiện và vị lai) được. Nếu sự tương tục đă không có trong ba đời th́ làm thế nào có thể có cái gọi sự tương tục?

TRUNG LUẬN QUYỂN THỨ TƯ

PHẨM THỨ HAI MƯƠI HAI:
QUÁN SÁT ĐỨC NHƯ LAI

Đức Như Lai chẳng phải là các ấm (ngũ uẩn sanh diệt), mà cũng không tách ĺa khỏi ngũ ấm, Như Lai không hiện hữu trong ngũ ấm và ngũ ấm cũng chẳng hiện hữu trong Như Lai. (Như Lai không ở trong và ngoài ngũ ấm). Trong ngũ ấm đă không có sự hiện hữu của Như Lai vậy th́ Như Lai hiện hữu ở nơi nào?

Nếu sự hiện hữu của đức Như Lai là do ngũ ấm ḥa hợp th́ đức Như Lai không có tự tánh, và nếu không có tự tánh th́ làm thế nào có thể nhân nhờ vào tha tánh mà hiện hữu?

Pháp nếu nhân nhờ vào tha tánh mà sanh khởi th́ nó chính là phi ngă (chẳng phải ngă). Nếu pháp là chẳng phải ngă th́ làm sao là đức Như Lai được?

Nếu không có tự tánh làm sao có tha tánh? Tách rời tự tánh và tha tánh th́ cái ǵ được gọi là đức Như Lai?

Nếu bảo rằng không nhờ vào ngũ ấm nhưng trước đó đức Như Lai đă hiện hữu và v́ hiện tại Ngài thọ thân ngũ ấm nên gọi là đức Như Lai th́ không đúng, v́ sự thật th́, hiện tại Ngài đă không thọ bất cứ ấm nào và cũng không có pháp ǵ gọi là Như Lai cả. Nếu đức Như Lai đă không hiện hữu v́ đă không thọ năm ấm th́ hiện tại phải thọ cái ǵ để Ngài hiện hữu? Nếu Ngài chưa thọ th́ cái được thọ không thể gọi là thọ. Không có cái pháp không thọ (vô thọ pháp) nào được gọi là đức Như Lai. Nếu ở trong cái đồng nhất và sai biệt cũng như trong năm ấm đă không thể t́m thấy sự hiện hữu của đức Như Lai như thế th́ làm thế nào có thể cho rằng đức Như Lai hiện hữu trong khi thọ ngũ ấm? Vả lại ngũ ấm được thọ đă không từ tự tánh hiện hữu và nếu tự tánh không hiện hữu th́ làm thế nào tha tánh có thể hiện hữu? (không có tự tánh nên cũng không có tha tánh).

V́ những ư nghĩa như thế mà những ấm được thọ (thọ) và kẻ đang thọ (thọ giả: đức Như Lai) cả hai đều Không, và, (nếu đă là Không, tất cả đều không có tự tánh, thế th́), làm thế nào có thể sử dụng cái Không (không có tự tánh của ngũ ấm) để bảo rằng không có tự tánh nên đức Như Lai không thể hiện hữu?

Đă Không (không tự tánh) th́ không thể luận thuyết (bất khả thuyết) mà chẳng phải Không (phi không) th́ cũng không thể nói năng bàn căi. Vừa Không vừa phi không (chẳng phải không), chẳng phải không, chẳng phải chẳng không (cộng bất cộng: diệc không diệc bất không - cộng; phi không phi bất không - bất cộng) cũng đều không thể bàn thảo được, nên, chỉ sử dụng giả danh (danh tự không thật có tự tánh) để nói (là có đức Như Lai).

Ngay trong tướng tịch diệt (thật tướng�không tánh) vốn không có thường và vô thường, vân vân..., bốn điều (tứ cú: thường, vô thường; vừa thường vừa vô thường, chẳng phải thường, chẳng phải vô thường). Và, ngay trong tướng tịch diệt cũng không hề có biên, vô biên, vân vân, bốn điều (* hữu biên, vô biên; vừa hữu biên vừa vô biên, chẳng phải hữu biên chẳng phải vô biên).

Kẻ tà kiến thâm hậu (sâu nặng) th́ bảo là không có đức Như Lai đă đành, nhưng đối với tướng tịch diệt của Như Lai mà khởi tâm phân biệt cho là có th́ đó cũng là điều phi lư nốt.

Như thế trong tánh Không, dù tư duy cách nào, cũng không thể vói và nắm bắt được; thế mà sau khi đức Như Lai diệt độ cứ hoài măi (khởi tâm) phân biệt hữu vô!

Đức Như Lai đă siêu vượt qua mọi hư luận, thế nhưng con người (v́ vô minh) cứ sanh khởi ra không biết bao nhiêu hư luận, và v́ hư luận nên huệ nhăn bị phá hủy, v́ huệ nhăn bị phá hủy nên không thể thấy Phật.

Tự tánh mà đức Như Lai có chính là tự tánh của thế gian. Đức Như Lai không có tự tánh nên thế gian cũng không có tự tánh.

 

PHẨM THỨ HAI MƯƠI BA:
QUÁN SÁT ĐIÊN ĐẢO

Xuất phát từ những ức niệm vọng tưởng phân biệt, tham, nhuế, si (tham, sân, si) khởi sanh. Những điên đảo, tịnh và bất tịnh (* trong sạch và không trong sạch) cũng đều từ các duyên khởi sanh.

Nếu nhân v́ tịnh và bất tịnh điên đảo (mà) sanh khởi tam độc (tham, sân, si) th́ tam độc chính nó không có tự tánh (vô tánh) nên phiền năo cũng không có thật.

Ngă và pháp (* chỉ cho phiền năo) có hay không, vấn đề này hoàn toàn bất thành. Không có thật ngă th́ dù các phiền năo có hay không có, cũng không thể cấu thành.

(Nếu cho rằng vô ngă nhưng phiền năo vẫn có thể thành lập được th́ thử hỏi đă vô ngă th́) ai là người sở hữu chủ của những phiền năo này? (và nếu không có ai là sở hữu chủ của những phiền năo này) th́ tất nhiên nó chính là cái không thể cấu thành được. Nếu tách rời con người nhưng phiền năo vẫn hiện hữu một cách độc lập th́ chính những phiền năo đó đă không hệ thuộc vào bất cứ đâu (cái ǵ hoặc người nào).

Giống như v́ thân kiến (* chấp có ngă và dẫu cho rằng: 1- Ĺa uẩn có ngă, 2- Uẩn chính là ngă, 3- Trong năm uẩn có ngă, 4- Trong ngă có ngũ uẩn và 5- Ngũ uẩn thuộc về ngă) dùng năm thứ (quan sát như thế) để truy cầu th́ cũng không thể nào t́m thấy Ngă được. Sử dụng năm phương pháp trên để truy cầu phiền năo nơi tâm ô cấu (* cấu nhiễm: không trong sạch thanh tịnh) cũng không thể t́m thấy.

Hai thứ điên đảo tịnh và bất tịnh đều không có tự tánh, mà vốn đă không có tự tánh th́ làm thế nào nhân nhờ vào hai thứ này mà các phiền năo có thể sanh khởi?

Sáu trần (cảnh): sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp chính là nguồn gốc của tam độc.

Thể tánh của sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp đều là Không, không có tự tánh, nó giống như những quáng nắng (viêm), những giấc mộng, và như thành của càn thát bà.

Sáu trần chính nó đă không có tự tánh, như thế th́ làm ǵ có vấn đề tịnh và bất tịnh trong đó? Nó (tịnh và bất tịnh) chẳng khác nào như người huyễn hóa và h́nh ảnh trong gương.

Không (nhân) nhờ vào tịnh tướng (tướng trong sạch) th́ không có tướng bất tịnh. Nhân (nhờ vào) tịnh (mới) có bất tịnh, v́ thế nên không có bất tịnh. (* v́ nếu không có tịnh làm duyên th́ bất tịnh làm sao hiện hữu?)

Không nhân nhờ nơi bất tịnh th́ cũng không có thanh tịnh, v́ nhân nhờ bất tịnh mới có thanh tịnh, thế nên không có thanh tịnh.

Nếu không có sự thanh tịnh th́ do đâu lại có (ḷng) tham ái? Và nếu không có sự bất tịnh th́ tại sao lại có (tâm) sân nhuế?

Đối với các pháp vô thường nhưng chấp là thường tại th́ đó chính là sự điên đảo. Trong tánh Không, không có pháp thường tại th́ nơi nào có cái gọi là điên đảo về sự thường tại bất biến?

Nếu cho rằng đối với các pháp vô thường mà chấp nó là vô thường th́ đó chẳng phải là sự điên đảo, nhưng, trong tánh Không đă không có sự vô thường th́ làm ǵ có cái gọi là chẳng phải điên đảo?

Đối tượng (cảnh giới) của sự chấp trước, kẻ chấp trước, sự chấp trước (khởi tâm chấp) và tất cả các pháp dùng làm công cụ để chấp trước (* chỉ cho lục căn tiếp xúc với lục trần) đều là tướng tịch diệt rỗng lặng, thế th́ làm ǵ lại có sự chấp trước?

Nếu không có cái pháp (sự) chấp trước th́ khi cho rằng tà chấp là điên đảo và chánh quán (quán sát chân chánh) là không điên đảo vậy th́ thử hỏi (tất cả đều rốt ráo không tịch, không có tự tánh) như thế ai là người có những sự điên đảo ấy?

Sự điên đảo không sanh khởi khi đă có sẵn những điên đảo (những điên đảo đă hiện hữu sẵn), và đă không có điên đảo th́ cũng không thể sanh khởi những điên đảo. Người điên đảo không sanh ra sự điên đảo, người không điên đảo cũng không thể sanh ra những điên đảo. Và nếu ngay đang khi điên đảo cũng không sanh khởi những điên đảo vậy ông có thể (nên) tự quán sát thử xem ai là người khởi sanh những điên đảo?

Làm thế nào ư nghĩa nầy có thể đứng vững khi những điên đảo đă không sanh khởi? và làm ǵ có người điên đảo khi đă không có những sự điên đảo?

Nếu thường, lạc, ngă, tịnh là những cái ǵ thật có th́ những thường, lạc, ngă, tịnh đó chính là những điều không phải điên đảo.

Nếu thường, lạc, ngă, tịnh là những cái thật sự không có th́ những sự như vô thường, khổ đau và bất tịnh lẽ ra cũng phải không có.

Như vậy điên đảo diệt th́ vô minh diệt, v́ vô minh diệt nên các hành, vân vân, cũng diệt.

Nếu thể tánh của phiền năo là thật (phiền năo là một cái ǵ thật có) nhưng vẫn bị lệ thuộc vào một sở hữu chủ (người, tâm ô cấu hay tự ngă) nào đó th́ làm thế nào có thể đoạn trừ? Và ai là người có thể đoạn trừ cái thể tánh đó (của phiền năo)?

Nếu phiền năo là hư vọng, là không có tự tánh (và) là không thuộc về ai th́ làm thế nào có thể đoạn diệt và ai là người có khả năng đoạn diệt vô tánh (cái không có tự tánh)?

 

PHẨM THỨ HAI MƯƠI BỐN:
QUÁN SÁT TỨ ĐẾ
(Bốn Chân Lư, Bốn Sự Thật)

Nếu tất cả (các pháp) đều Không (không có tự tánh), không sanh cũng không diệt, như thế th́ không có giáo pháp Tứ Thánh Đế. V́ không có Tứ Đế nên những sự việc như kiến khổ (nhận chân được thực trạng khổ đau của đời sống) và đoạn tập (dứt trừ nguyên nhân của đau khổ), chứng diệt (chứng được quả vị tịch diệt niết bàn) và tu đạo (con đường tu tập) đều không có và v́ những điều trên không có nên không có bốn đạo quả, v́ không có bốn đạo quả nên người chứng đắc và người đang hướng đến sự chứng đắc cũng không có (Tứ hướng tứ quả cần chú thích kỹ). Nếu không có tám bậc thánh hiền th́ không có Tăng bảo, và v́ không có giáo pháp Tứ đế nên cũng không có Pháp bảo và v́ không có Tăng bảo nên cũng không có Phật bảo. Như thế th́, người đề cập về Không thuyết (không tánh) chính là kẻ phá hoại Tam bảo.

Không pháp (tất cả pháp đều không) không chỉ hủy hoại (luật tắc) nhân quả, tội phước mà c̣n hủy hoại tất cả các pháp của thế tục (* chỉ cho những nguyên tắc căn bản của pháp luật như đúng sai, phạm không phạm tội vân vân...)

Hiện tại quả thật ông đă không có khả năng tri nhận được Không tánh và nhân duyên của Không tánh kể cả Không nghĩa (* ư nghĩa của Không tánh) nên đă tự ḿnh sanh khởi những năo hại!

V́ chúng sanh, chư Phật đă y cứ vào Nhị Đế (hai chân lư) để thuyết giảng giáo pháp, Nhị Đế đó chính là Thế tục đế và Đệ nhất nghĩa đế. Nếu người nào đối với nhị đế mà không có khả năng tri nhận, phân biệt (để liễu giải toàn vẹn sự hỗ tương quan hệ của nó) th́ kẻ đó đă không thể tri nhận được ư nghĩa chân thật của giáo pháp sâu xa vi diệu (thậm thâm) của chư Phật (Phật Pháp).

Nếu không y cứ (nhờ) tục đế, th́ không đạt được đệ nhất nghĩa đế và nếu không đạt được đệ nhất nghĩa đế th́ không chứng được quả vị niết bàn.

V́ căn tánh ám độn, không có khả năng chánh quán Không tánh (quán sát một cách chân xác rằng các pháp vốn không có tự tánh chỉ do nhân duyên ḥa hợp mà giả hữu), nên tự hại, chẳng khác nào không giỏi về chú thuật bắt rắn nên không thể bắt những rắn độc một cách thiện xạ.

Đức Thế Tôn biết rơ pháp này là pháp sâu xa mầu nhiệm (thậm thâm vi diệu), chẳng phải là pháp mà kẻ độn căn có thể vói tới (hiểu được) v́ thế mà Ngài không muốn dạy.

Ông cho rằng tôi là người chấp trước Không tánh nên v́ tôi mà sanh ra những lỗi lầm, kỳ thật những lỗi lầm mà hiện ông đang nói, đối với Không tánh th́ nó hoàn toàn không có.

Tất cả các pháp sở dĩ được cấu thành là do nhờ có Không nghĩa (ư nghĩa các pháp đều không có tự tánh). Nếu không có ư nghĩa rằng các pháp đều Không th́ tất cả các pháp đă không thể cấu thành được.

Hiện chính ông đang có lỗi nhưng ông lại đổ ngược lỗi ấy cho tôi thế th́ chẳng khác nào người cưỡi ngựa nhưng chính ḿnh lại quên mất con ngựa đang cưỡi.

Nếu ông thấy rằng các pháp chắc chắn thật có tự tánh, tức là ông thấy (thừa nhận) các pháp không có nhân và (cũng) không có duyên.

Như thế có nghĩa là (tức là) phá hủy nhân và quả, sự tạo tác, kẻ tạo tác và pháp được tạo tác, cũng như sự sanh diệt của vạn vật, tất cả đều bị hủy hoại.

Các pháp được sanh khởi từ các nhân và duyên, tôi tuyên bố rằng chính nó là không thật có, điều đó cũng chính là giả danh và cũng c̣n được gọi là nghĩa trung đạo. Chưa từng thấy có bất cứ pháp nào đă không được khơ?i sanh từ nhân duyên, v́ thế mà tất cả các pháp, không pháp nào mà không là Không cả (* tất cả các pháp đều không có tự tánh).

Nếu tất cả là không phải Không (chẳng là Không) th́ đă không có sanh diệt và như thế th́ pháp Tứ Thánh Đế đă không có.

Sự khổ đau nếu không từ các duyên sanh khởi th́ làm thế nào có cái gọi là khổ đau? Khổ có nghĩa là vô thường (ư nghĩa của sự thống khổ chính là vô thường), định tánh (quyết định có tự tánh) th́ không là vô thường.

Nếu khổ đau mà có tự tánh nhất định (định tánh) th́ v́ lư do ǵ nó lại sanh ra từ Tập (nguyên nhân của đau khổ)? (và nếu quả đúng) như thế th́ không có Tập đế (tập đế: nguồn gốc của khổ đau), v́ lẽ (nếu khổ đế mà có định tánh th́) ư nghĩa của Không tánh tất bị phá hủy. (câu này có thể dịch: nếu khổ đế mà có định tánh, th́ tại sao nó lại được sanh ra từ tập đế; v́ do hủy phá Không nghĩa cho nên mới có (vấn đề là) không có tập đế.)

Sự đau khổ mà nếu là có định tánh (tự tánh nhất định) th́ ắt hẳn đă không có diệt đế. V́ ông chấp có định tánh tức (chính là, cũng có nghĩa là) phá hủy diệt đế.

Nếu sự đau khổ mà có định tánh th́ không đă có con đường tu tập và nếu có con đường có thể tu tập th́ điều này đích thị là đă không có định tánh.

Nếu không có Khổ đế, Tập đế, và Diệt đế th́ sự khổ đau được tận diệt bởi con đường tu tập (Đạo đế) chung cuộc (cứu cánh) sẽ đưa dẫn đến nơi nào? (con đường có khả năng diệt trừ mọi đau khổ cuối cùng (rốt ráo) sẽ đưa dẫn đến nơi nào?)

Nếu đau khổ chắc chắn có tự tánh nhất định th́ tại sao trước đó (trước khi tu quán) không thấy (tự tánh của nó) nhưng nay (do tu quán) mới thấy; lư do v́ (nếu thật có) tự tánh (của khổ đau) th́ đă không có sự biến đổi sai biệt (*trước và sau vẫn thấy hoặc không thấy).

Giống như những kiến giải về sự thống khổ, sự chấm dứt cội nguồn của mọi thống khổ (đoạn tập), sự chứng đắc quả vị niết bàn (chứng diệt), con đường tu tập chánh pháp và bốn quả vị thanh văn (tứ quả) đều hoàn toàn không hợp lư.

Tự thể tánh của bốn đạo quả đó xưa nay chưa hề có được (bất khả đắc) vả lại tự tánh của các pháp nếu là thật có (định: nhất định, cố định, không thay đổi) th́ v́ lư do ǵ mà hiện tại mới có thể có được? (* v́ nếu thật th́ đă có sẵn rồi).

Nếu không có bốn quả th́ không có người đắc quả và cũng không có người đang hướng đến bốn quả. V́ không có tám bậc thánh th́ không có Tăng bảo.

V́ lẽ không có bốn Thánh đế nên cũng không có Pháp bảo. Đă không có Pháp bảo và Tăng bảo th́ làm thế nào có Phật bảo?

Ông bảo rằng không nhân nhờ (phát tâm) Bồ đề nhưng có Phật và ngược lại không nhân nhờ Phật nhưng vẫn có (đạo quả vô thượng) Bồ đề (* trí giác ngộ siêu việt).

Nếu không sẵn có Phật tánh (chẳng phải là Phật tánh) trước đó th́ dù cần mănh (siêng năng dơng mănh) tinh tấn tu hành bồ đề đạo (con đường trí giác) đến cách mấy cũng vẫn không thể chứng thành Phật quả được.

Các pháp nếu là chẳng Không (Không tánh), th́ không có người tạo tội và phước, như thế (thư? hỏi) đă không là Không th́ cái ǵ là cái được tạo tác v́ lẽ những thứ đó (* kỳ: đại danh từ chỉ cho tác giả, tội và phước được tạo nên) đều có tự tánh nhất định?

Đối với ông, trong tội lỗi và phước đức không có vấn đề quả báo phát sanh, thế th́ (không khác nào ông khẳng định rằng) tách ĺa hẳn tội lỗi và phước đức nhưng vẫn có những quả báo.

Nếu quan niệm rằng quả báo được sanh ra từ tội lỗi và phước đức như thế rơ ràng tội lỗi và phước đức đă sanh ra quả báo th́ tại sao bảo là chẳng Không?

Ông phá đổ tất cả pháp và các nhân duyên Không nghĩa (* nhân duyên giả hợp sanh ra các pháp, tự nó không có tự tánh) cũng có nghĩa là phá hủy bao nhiêu học lư pháp tắc hiện hữu (* đă và đang có) của thế tục.

Nếu phá hủy Không nghĩa th́ đích thị là không có ǵ để và được làm. Không làm nhưng vẫn có làm (Vô tác nhi hữu tác) và chẳng làm (nhưng vẫn) gọi là tác giả (bất tác danh tác giả). (* tánh không sở dĩ có là v́ các duyên ḥa hợp tạo thành các pháp, chính các pháp đó không có tự tánh nên gọi: tánh không. Nếu phá hủy Không nghĩa [ư nghĩa Không tánh] th́ hóa ra các pháp là có tự tánh nhất định và nếu các pháp đă có tự tánh nhất định th́ không phải tạo tác để cấu thành do đó khi phá hủy Không nghĩa th́ tất cả pháp biến thành không có sự tạo tác và như th́ không có nguyên nhân. Vô tác nhi hữu tác có nghĩa là v́ cho rằng các pháp đều có tự tánh nên dù không cần tạo tác để cấu thành, tức là không cần có nguyên nhân nhưng nó đă có sẵn, đă tạo thành những pháp cố định bất biến. Bất tác danh tác giả có nghĩa là dù cho có tác giả th́ cũng không có nghiệp được tạo tác nên gọi là tác giả. V́ như đă nói vô tác nhi hữu tác nên tuy rằng không có tác giả nhưng vẫn có tác nghiệp, có quả báo).

Nếu đoan quyết rằng (các pháp) có tự tánh nhất định th́ bao nhiêu tướng trạng của thế gian đều (trở thành) không sanh không diệt, thường trụ một cách miên viễn và không bao giờ bị hoại diệt.

Nếu không có Không tánh th́ những ǵ chưa đạt được lẽ ra sẽ không đạt được. Cũng không có việc chấm dứt phiền năo và các khổ năo được diệt tận (diệt sạch).

V́ thế trong kinh dạy rằng, nếu thấy pháp nhân duyên (* nếu ai có khả năng nhận chân được rằng các pháp do nhân duyên sanh khởi đều không có tự tánh) th́ chính là có khả năng thấy Phật, nhận chân được thực trạng của sự thống khổ, nguyên nhân đưa dẫn đến sự thống khổ (tập), quả vị giải thoát an lạc (diệt) và con đường dẫn đến quả vị giải thoát an lạc (đạo).

 

PHẨM THỨ HAI MƯƠI LĂM:
QUÁN SÁT NIẾT BÀN

Nếu tất cả các pháp đều Không, không sanh cũng không diệt th́ đoạn trừ và diệt tận cái ǵ mà gọi là niết bàn?

Nếu các pháp chẳng là Không, th́ không sanh và không diệt, như thế th́, cái ǵ được đoạn trừ và tận diệt mà gọi là niết bàn?

Không có sự chứng đắc, cũng không có sự đạt đến (cảnh giới niết bàn), không đoạn tuyệt cũng chẳng thường hằng, chẳng sanh cũng không diệt, những điều được tŕnh bày như thế đích thị là niết bàn.

Niết bàn không là pháp hữu vi, v́ hữu vi chính là tướng già chết. Và v́ hoàn toàn (chung cục) không có pháp Hữu, nên, viễn ly tướng già chết.

Nếu niết bàn là thật hữu th́ niết bàn chính là hữu vi, đă hoàn toàn không có bất cứ một pháp nào là vô vi cả (* v́ có cái gọi là vô vi th́ niết bàn lập tức kẹt vào cái có).

Nếu niết bàn là thật hữu th́ tại sao gọi là vô thọ (không thọ tướng sanh tử)? (v́ lẽ đă) không có bất cứ pháp nào không xuất phát từ thọ chấp (lănh thọ và chấp thủ) mà được gọi là pháp hữu cả.

Hữu (có) c̣n không phải là niết bàn huống chi là vô (không)? Niết bàn đă không có cái gọi là Hữu th́ nơi nào có cái Vô?

Nếu Vô (không có ǵ cả) là niết bàn th́ tại sao lại gọi là không thọ chấp? đă chưa bao giờ từng có sự không thọ chấp mà gọi là pháp Vô (vật không có).

V́ thọ chấp các nhân duyên nên xoay vần (luân chuyển) trong sanh tử. Không thọ các nhân duyên, đó chính là niết bàn.

Như trong kinh đức Phật đă từng dạy là hăy đoạn tuyệt cả hữu và phi hữu (không phải là hữu) (* cũng có nghĩa là đoạn trừ thật hữu và thật vô) v́ vậy mà biết rằng niết bàn là chẳng phải hữu mà cũng chẳng phải vô (phi hữu diệc phi vô).

Nếu cho rằng niết bàn là sự cộng hợp của (giữa) hữu và vô th́ hữu và vô tức là (chính là) giải thoát, sự kiện này không thể hợp lư.

Nếu bảo rằng niết bàn là sự tập họp của hữu và vô th́ niết bàn là một cái ǵ chẳng phải là vật không có sự thọ chấp v́ cả hai (hữu và vô) đều từ thọ chấp khởi sanh.

Đă do hữu và vô cộng hợp để cấu thành th́ làm thế nào có thể gọi là niết bàn được v́ niết bàn gọi là vô vi mà hữu và vô th́ là (thuộc về) hữu vi?

Hữu và vô hai cái cộng lại th́ làm sao có thể là niết bàn? v́ hai sự kiện đă có chỗ bất đồng (đă không có đồng một xuất xứ) giống như việc không thể đồng lúc có mặt của cả sáng và tối.

Nếu cái ǵ chẳng phải hữu và chẳng phải vô th́ gọi cái đó là niết bàn thế th́ cái chẳng phải hữu và chẳng phải vô này lấy ǵ để phân biệt? (* v́ đă phi hữu và vô th́ làm sao phân biệt được)

Vả lại nếu tư duy phân biệt (cái này là) phi hữu (chẳng phải hữu) (cái kia là) phi vô (chẳng phải vô) (và dựa vào những phân biệt) như thế gọi đó là niết bàn vậy th́ nếu hữu và vô được thành lập th́ phi hữu và phi vô không thể thành lập được (* đă hữu th́ phi vô, đă vô th́ phi hữu nên hữu và vô mà thành th́ nhất định phi hữu và phi vô phải bất thành).

Sau khi đức Như Lai diệt độ không thể bảo rằng ngài hiện hữu hay không hiện hữu, cũng không thể bảo rằng ngài vừa hiện hữu vừa không hiện hữu mà cũng không thể bảo rằng ngài không phải hiện hữu và không phải không hiện hữu (phi hữu cập phi vô). Khi đức Như Lai c̣n tại thế không thể bảo rằng ngài hiện hữu và không hiện hữu, cũng không thể bảo là ngài vừa hiện hữu vừa không là hiện hữu mà cũng không thể bảo rằng ngài chẳng phải hiện hữu và chẳng phải không hiện hữu.

Giữa niết bàn và thế gian đă không có mảy may sai biệt. Giữa thế gian và niết bàn cũng không có chút ǵ sai biệt.

Thật tế th́ đă không có sự khác biệt nào giữa biên giới (ngằn mé) của niết bàn và của thế gian, hai biên tế như thế đă không có mảy may sai biệt.

Sau khi (đức Như Lai) diệt độ những kiến giải về hữu và vô vân vân..., về hữu biên vân vân..., và về thường trụ bất biến vân vân... (* tam chủng thập nhị kiến, lục thập nhị kiến...) (những kiến giải này) đă y cứ vào niết bàn mà khởi lên những hư luận về các đời vị lai và quá khứ.

V́ tất cả pháp đều Không (không có tự tánh) th́ làm ǵ có chuyện hữu biên, vô biên? Vừa hữu biên vừa vô biên và chẳng phải hữu biên chẳng phải vô biên? Làm ǵ có sự đồng nhất và sai biệt? Làm thế nào có thường và vô thường? Vừa thường vừa vô thường và chẳng phải thường cũng chẳng phải vô thường?

Các pháp (cứu cánh không tịch), không thể vói đến và nắm bắt được; (với cứu cánh không), tất cả hư luận đều bị diệt sạch, không c̣n có người mà cũng không c̣n nơi chốn và, đức Phật cũng đă không hề dạy bảo bất cứ một lời nào.

 

PHẨM THỨ HAI MƯƠI SÁU:
QUÁN MƯỜI HAI NHÂN DUYÊN

Chúng sanh v́ bị si mê (vô minh) che lấp nên đă khởi sanh ba nghiệp (ba hành: thân, khẩu và ư) và v́ bị nghiệp (hành) dẫn khởi nên theo nghiệp (hành) mà đọa lạc trong sáu thú (* sáu nẻo đường, cảnh giới: thiên, nhân, a tu la, địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh).

V́ nhân và duyên của các hành nên thức cảm thọ lấy cái thân mạng của sanh tử sáu đường và v́ có sự đeo níu thủ chấp của thức (* thức nhập vào bào thai bám giữ lấy tinh cha huyết mẹ để cấu thành sinh mạng) nên danh (tâm) và sắc (pháp, thân, vật thể) được tăng trưởng.

V́ danh sắc tăng trưởng nên nhân đó sanh ra lục nhập (sáu căn được hoàn thành) do sự ḥa hợp của lục t́nh (lục căn), lục trần và lục thức nên sanh ra lục xúc, v́ nhân lục xúc mà liền (tức khắc) khởi sanh ba cảm thọ (tam thọ) v́ nhân ba cảm thọ nên sanh ra khát ái, nhân ái mà có bốn thủ (* bốn loại thủ chấp: dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ và ngă ngữ thủ), nhân thủ nên có hữu. Nếu người chấp thủ (bám giữ chặt chẽ) mà không thủ chấp (bám giữ đeo níu chặt chẽ) th́ được giải thoát và không c̣n sanh tử luân hồi. Từ hữu mà có sanh, từ sanh nên có già chết, từ già chết cho nên có các ưu bi khổ năo (buồn sầu khổ đau dằn vặt). Như vậy vân vân..., những sự kiện trên đều xuất phát (bắt nguồn) từ quá tŕnh phát triển của một sinh mạng mà có (hiện hữu). Chỉ v́ (mười hai) nhân duyên này mà tập đại thành (nhóm họp và h́nh thành) khổ ấm (* Ấm, giới, nhập ḥa hợp - thân tâm). Cái gọi là sanh tử chính là cội nguồn của các hành (nghiệp) được tạo ra bởi kẻ vô minh. Bậc trí giả (người có trí tuệ bát nhă) không tạo nên những sự kiện ấy, v́ thế vô minh diệt nên những sự kiện ấy (hành thức vân vân...) không thể sanh khởi, chỉ v́ vô minh mà những khổ ấm tụ họp sanh khởi; thế nên vô minh diệt th́ chính là diệt trừ tận gốc mọi khổ đau sanh tử luân hồi.

 

PHẨM THỨ HAI MƯƠI BẨY:
QUÁN SÁT VỀ NHỮNG TÀ KIẾN

Những thường kiến, (đoạn kiến) vân vân... của thế gian đều y cứ vào đời quá khứ, vậy th́, đă có hay không một cái "ngă" trong đời quá khứ?

Những kiến chấp về hữu biên vân vân... đều y cứ vào đời vị lai, vậy th́, cái ngă ở đời vị lai sẽ là cái được tạo tác hay là không tạo tác?

Đời quá khứ có ngă là việc không thể có được, v́ nếu trong đời quá khứ đă có ngă th́ đời hiện tại không cần phải tạo tác ra ngă nữa.

Nếu cho rằng ngă chính là như thế (*ngă tức thị là thân ngũ uẩn được tạo tác ơ? đời này) nên thân thể có những tướng trạng khác biệt, và nếu tách ĺa khỏi thân th́ ở nơi biệt lập nào có ngă?

Tách ĺa thân th́ không có ngă (tách rời hữu, vô, thân, ngă?), việc (lư luận) này đă được thành lập, nhưng nếu cho rằng thân chính là ngă th́ (vốn thân) hoàn toàn cũng không có ngă (v́ đă tách rời ra nhưng không thể t́m thấy ngă).

Chỉ có thân không phải là ngă v́ lẽ thân tướng luôn luôn sanh diệt, thế th́ làm thế nào có thể v́ sự thọ chấp mà tạo nên người thọ chấp?

Nếu như tách rời thân thể mà có ngă th́ việc này không hợp lư, v́ không có thọ chấp nhưng ngă vẫn có th́ điều này quả thật không thể t́m thấy (không hề xảy ra, chưa từng được có: bất khả đắc).

Vả lại, nếu hiện tại ngă không tách ĺa thọ chấp (thân) mà cũng không chính là thọ chấp, chẳng phải là không có thọ chấp, chẳng phải là (thọ chấp nên) không có ngă, điều này chính là ư nghĩa mang tính quyết định.

Đă không hợp lư khi quan niệm rằng Ngă đă không được tạo nên trong quá khứ. Và, Ngă trong đời quá khứ khác biệt hẳn với Ngă của đời hiện tại cũng hoàn toàn sai.

Nếu cho rằng có sự sai khác th́ khi tách rời cái ngă thuộc đời quá khứ vẫn có cái ngă thuộc đời hiện tại, cho nên, dù Ngă trụ ơ? đời quá khứ nhưng hiện tại (đứng biệt lập hẳn ngoài cái ngă của quá khứ) Ngă tự sanh ra lấy.

Như thế th́ là đoạn diệt, mất hẳn (không c̣n) nghiệp lực và quả báo, v́ là, cái Ngă đời quá khứ tạo nhưng cái Ngă đời này phải thọ lănh, như thế là có không biết bao nhiêu lầm lỗi!

Cũng vô cùng sai lầm khi quan niệm rằng (ngă là một cái ǵ) trước không nhưng nay có, v́ lẽ, Ngă chính là một pháp được tạo tác nên (mà pháp được tạo tác nên là pháp vô thường sanh diệt, nên, trước không sau có th́ nó) cũng chính là vô nhân (* cái không được cấu thành bởi bất cứ nguyên nhân nào!).

Như chấp thấy có Ngă, không có Ngă, vừa có Ngă, vừa không có Ngă trong đời quá khứ những kiến chấp như thế đều hoàn toàn không đúng.

Cái Ngă ở đời vị lại là được tạo thành, là không được tạo thành, những kiến chấp như thế, đều giống hệt những lỗi lầm khi kiến chấp về Ngă trong đời quá khứ.

Nếu trời tức là người th́ rơi vào cái chấp của thường biên, v́ trời là kẻ vô sanh (không được sanh ra), mà đă không sanh th́ đó là pháp (vật) thường tại.

Và nếu trời là vật ǵ khác biệt với con người, th́ tức là vô thường, và nếu trời khác biệt với con người th́ là không có sự tương tục (sự nối tiếp quan hệ).

Nếu là nửa trời nửa người, th́ rơi vào nhị biên của thường và vô thường, việc đó th́ không đúng.

Nếu thường và vô thường cả hai đều được thành lập, như vậy th́ lẽ ra sự chẳng phải thường và chẳng phải vô thường cũng có thể thành lập.

Pháp nếu chắc chắn có kẻ đến, và nhất định có kẻ đi th́ sự sanh tử chính là không có nguồn cội (sự bắt đầu), nhưng, sự thật th́ đă không có việc ấy.

Hiện tại nếu không có sự thường hằng th́ làm thế nào có sự vô thường, vừa thường vừa vô thường và phi thường phi vô thường (* chẳng phải thường, chẳng phải vô thường)?

Nếu thế gian là hữu biên (có giới hạn) th́ làm thế nào có hậu thế (đời sau), và nếu thế gian là vô biên (* không giới hạn) th́ cũng làm thế nào có hậu thế?

Năm ấm luôn luôn (thường) tương tục chẳng khác nào sự tương tục của ngọn lửa của một cây đèn, v́ thế mà thế gian chẳng phải là hữu biên hay vô biên ǵ cả.

Nếu năm ấm trước bị hủy hoại, (mà, đă bị hủy hoại th́ không thể sanh ra thân năm ấm sau nhưng) không có nhân là ngũ ấm mà lại sanh năm ấm sau, như thế th́ thế gian là có giới hạn (hữu biên), (*thiếu sự tương tục chính là có và bị giới hạn).

Nếu năm ấm trước đó đă không bị hủy hoại mà cũng không có nhân là ấm nhưng vẫn sanh năm ấm sau, thế th́, thế gian sẽ là không giới hạn (vô biên).

Giáo pháp chân thật, người thuyết pháp cũng như thính giả đều rất khó được (v́ chánh pháp th́ ly ngôn tuyệt lự, viễn ly ngôn ngữ, dứt bặt tư duy, c̣n người thuyết pháp th́ vô thuyết vô thị, chẳng nói một câu, không bày một nghĩa và, thính giả th́ vô văn vô đắc, không nghe không có ǵ để chứng đắc) v́ thế nên vấn đề sanh tử đă chẳng phải là hữu biên hay vô biên.

Nếu thế gian hoặc một nửa là hữu biên, một nửa là vô biên, hoặc vừa là hữu biên vừa là vô biên th́ không đúng.

Làm thế nào người thọ năm ấm kia một phần bị phá hủy nhưng phần khác không bị phá trừ? Đó là một sự kiện hoàn toàn không hợp lư.

Cũng hệt như thế, sự thọ chấp làm thế nào một phần bị phá và phần khác th́ không? Sự kiện này hiển nhiên cũng không đúng.

Nếu trường hợp vừa hữu biên vừa vô biên cả hai đều thành lập được th́ vấn đề chẳng phải hữu biên và chẳng phải vô biên cũng phải thành lập được.

Bởi v́, tất cả pháp vốn đều là Không tánh, nên các kiến chấp cho rằng thế gian là thường vân vân... trên mặt không gian th́ không luận là ở đâu, trên phương diện thời gian th́ bất luận là vào lúc nào, thử hỏi ai là người khởi lên những kiến chấp như thế?

Nay con khể thủ đảnh lễ đấng Cồ Đàm, bậc Đại Thánh Chủ đă từ bi lân mẫn (ḷng thương xót) thuyết giảng giáo pháp thậm thâm vi diệu này để đoạn trừ tất cả mọi vô minh kiến chấp.

 

Trang Chủ      Hình ảnh      Kinh điển      Thần Chú      Liên lạc

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0