佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

[中文ENGLISH]

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH ]

 

T1302

Mật Tạng Bộ 4_ No.1302 (Tr.420 _ Tr.421)

KINH CÁC TINH MẪU ĐÀ LA NI
  Hán dịch: Sa Môn PHÁP THÀNH ở chùa Cam Châu Tu Đa dịch
Việt dịch: HUYỀN THANH

 

Như vậy tôi nghe. Một thời Đức Bạc Già Phạm trụ trong làng xóm lớn ở nơi hoang vắng. Chư Thiên (Deva) với Rồng (Nàga), Dược Xoa (Yaksa), Càn Thát Bà (Gandharva), A Tu La (Asura), Ca Lâu La (Garuda), Khẩn Na La (Kimnara), Mạc Hô Lạc Ca (Mahoraga), các Ma (Màra), Nhật (Àditya), Nguyệt (Soma), Huỳnh Hoặc (Amgaraka), Thái Bạch (‘Sukra), Trấn Tinh (‘Sanai’scara), Dư Tinh (Budha), Tuế Tinh (Vrhaspati), La Hầu (Ràhu), Trường Vĩ Tinh Thần (Ketu), 28 Tú (Asta-vim’sati-nakstra), các Đại Chúng…

thảy đều khen ngợi câu Thệ Nguyện của các Đại Kim Cương, uy nghiêm ngồi trên tòa Sư Tử trang nghiêm  cùng với các Bồ Tát đồng tụ hội một chỗ  Tên các vị ấy là: Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát (Vajra-Pàni), Kim Cương Phẫn Nộ Bồ Tát Ma Ha Tát (Vajra-canda), Kim Cương Bộ Bồ Tát Ma Ha Tát (Vajra-càpahasta), Kim Cương Cung Bồ Tát Ma Ha Tát (Vajra-vikurvita), Kim Cương Chủ Bồ Tát Ma Ha Tát (Vajra-adhipati), Kim Cương Trang Nghiêm Bồ Tát Ma Ha Tát (Vajra-alamkàra),  Kim Cương Quang Bồ Tát Ma Ha Tát (Vajra-jyoti), Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát (Avalokite’svara), Phổ Kiến Bồ Tát Ma Ha Tát (Samanta-avalokite’svara), Thế Gian Cát Tường Bồ Tát Ma Ha Tát (Loka-‘srìya), Liên Hoa Tràng Bồ Tát Ma Ha Tát (Padma-ketu), Quảng Diện Bồ Tát Ma Ha Tát (Vikasitavaktra), Hoa Nhãn Bồ Tát Ma Ha Tát (Padma-netre), Diệu Cát Tường Bồ Tát Ma Ha Tát (Mamju’srì), Từ Thị Bồ Tát Ma Ha Tát (Maitreya)…. Các vị Đại Bồ Tát Tăng trước sau vây quanh chiêm ngưỡng nói Pháp. Pháp ấy tên là Quảng Đại TrangNghiêm Như Ý Bảo Châu  (Cintamani-mahà-vyùha-alamkàra) với chặng đầu , khoảng giữa, chặng cuối đều tốt lành; câu nghĩa  tốt đẹp màu nhiệm không lẫn lộn , thanh tịnh, Phạm Hạnh trong trắng  Bấy giờ Kim Cương Thủ Bồ Tát quán sát Đại Chúng xong, từ chỗ ngồi đứng dậy, dùng Thần Lực của mình  nhiễu quanh Đức Thế Tôn trăm ngàn vòng, làm lễ rồi trụ trước mặt, giữ vật ngồi dựa của mình, dùng Thiện Già Phu ngắm nhìn Đại Chúng, đưa Kim Cương Chưởng an trên trái  tim của mình rồi bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! có Ac Tinh (sao xấu ác) kia có hiện tượng phạt  cực ác , đủ tâm mãnh lợi; hiện'tượng phạt giận dữ não loạn hữu tình, cướp đoạt tinh khí hoặc đoạt tài lợi hoặc cướp đoạt mạng sống, khiến người trường thọ bị đoản thọ. Như vậy não loạn tất cả hữu tình. Vì nhóm như vậy nên con nguyện xin Đức Thế Tôn hiển bày Pháp Môn thủ hộ tất cả loài hữu tình.

444. Đức Thế Tôn bảo rằng:”Lành thay ! Lành thay ! Ông hay hưng tâm Đại Bi, vì lợi cho tất cả các hữu tình cho nên hỏi Như Lai nghĩa bí mật thâm sâu. Nay ông hãy lắng nghe ! Hãy suy nghĩ cho khéo, Ta sẽ nói Pháp giận dữ phá hoại của Ac Tinh ấy với nói nghĩa bí mật của sự cúng dường, hành thí, niệm tụng    Nếu hành cúng dường sẽ cúng dường Nếu làm việc ác sẽ gây ác   Như vậy các Tinh (ngôi sao) hiện tượng phạt   Làm sao khiến cho sinh vui vẻ ?

Chư Thiên cùng với các Phi Thiên Nhóm Khẩn Na La với các Rồng Các hàng Dược Xoa và La Sát Người với Ca Đa, Phú Đa Na Các Đại Thần uy đức mãnh lợi Sân nộ , làm sao mà diệt hết ? Ngôn từ bí mật, Pháp cúng dường Nay sẽ thứ tự mà tuyên nói

Khi ấy từ trên trái tim của Đức Thích Ca Như Lai phóng ra ánh sáng Du Hý của Tâm Từ nhập vào trong chân tóc trên đỉnh đầu của các Tinh (ngôi sao)  Lúc đó Nhật, Nguyệt, tất cả Tinh Thần từ chỗ ngồi đứng dậy đem các cung Trời cúng dường Đức Tích Ca Như Lai, quỳ gối sát đất, chắp tay làm lễ rồi bạch

Phật rằng:”Đức Thế Tôn Như Lai Ứng Cúng Chính Chân Đẳng Giác vì lợi ích cho chúng con ! Nguyện xin Đức Thế Tôn tuyên nói Pháp Môn khiến cho chúng con tụ tập để thủ vệ, phòng hộ bậc Thầy nói Pháp, khiến được may mắn tốt lành, xa lìa dao gậy, tiêu diệt thuốc độc, tác kết Giới” Bấy giờ Đức Thích Ca Như Lai liền nói Pháp Cúng Dường Tinh với dùng

Mật Ngôn Đà La Ni là:

An, mô hô la ca gia, toa ha (OM  MEGHOLKÀYA   SVÀHÀ)

An, thi đang xa tế, toa ha (OM  ‘SITÀM’SAVE   SVÀHÀ)

An, lạc lạc đương già câu ma la dã, toa ha (OM  RAKTÀMGA-

KUMÀRÀYA   SVÀHÀ)

An, báo hiệt dã, báo hiệt dã, toa ha (OM  BUDHÀYA  BUDHÀYA 

SVÀHÀ )

An, báo già, a tất bà hiệt thế, toa ha (OM  VRHASPATAYE  SVÀHÀ)

An, ha tu la tát đa ma dã, toa ha (OM  ASURA-UTTAMÀYA   SVÀHÀ)

An, cật lý tất nang bá la na dã , toa ha (OM  KRSNA-VARNÀYA 

SVÀHÀ)

An, a mật đa tất lý gia, toa ha (OM  AMRTA-‘SRÌYA   SVÀHÀ )

An, tạ để yết đa tế, toa ha (OM  JYOTIH-KETAVE   SVÀHÀ)

          445 Kim Cương Thủ ! Đây tức là Tâm Chú bí mật của tám Tinh (ngôi sao) , đọc tụng liền thành tựu. Nên làm một cái Đàn hương dài 12 ngón tay, trong đó bày vật cúng dường. Hoặc dùng vật khí bằng  sành sứ, hoặc đồng, hoặc vàng , bạc…  phụng hiến cúng dường, mỗi một lần cúng dường nên tụng 108 biến. Kim Cương Thủ ! Sau đó tụng ngôn từ bí mật của Chư Tinh Mẫu Đà La Ni này đầy đủ bảy biến thí tất cả các Tinh (ngôi sao) sẽ làm  ủng hộ, hết thảy sự nghèo túng đều được giải thoát, mạng tướng muốn dứt sẽ được sống lâu. Kim Cương Thủ ! Nếu Bật Sô, Bật Sô Ni, Ô Ba Sách Ca, Ô Ba Tư Ca với

loài hữu tình khác… nếu lỗ tai được nghe qua sẽ chẳng bị chết yểu.  Kim Cương Thủ ! Trong Chư Tinh Đàn bày cúng dường xong, mỗi ngày

đọc tụng thì tất cả các Tinh (ngôi sao) đó vì ước nguyện của vị Thầy nói Pháp ấy sẽ khiến cho đầy đủ và các việc nghèo túng, đồng loại với điều ấy đều được tiêu diệt Bấy giờ Đức Thích Ca Như Lai liền nói Chư Tinh Mẫu Đà La Ni. Tức nói

Chú là:

Nam mô phật đà gia (NAMO  BUDDHÀYA)

Nam mô bà tạt-la đà la gia (NAMO  VAJRA-DHARÀYA)

Nam ma bát  ma đạt la gia (NAMAH   PADMA-DHARÀYA)

Nam ma tát bà già la ha (NAMAH  SARVA  GRAHÀ)

Nam ma tát bà a xa ba la bổ ca nam (NAMAH  SARVA-

A’SÀPARIPÙRAKÀNÀM)  

Nam ma nặc xa đa la nam (NAMAH  NAKSATRÀNÀM)

Nam ma  đỏa đa xa la thi nam  (NAMAH  DVÀDA’SA-RÀ’SÌNÀM)   

Đát tha : Một để, một để (TADYATHÀ: BUDDHE  BUDDHE)

Bá trất la, bá trất la (VAJRA  VAJRA)

Bát minh, bát minh  (PADME  PADME)

Sa la. sa la (SARA  SARA)

Bát sa la, bát sa la  (PRASARA  PRASARA)

Tam bà la, tam bà la (SMARA  SMARA)

Cơ đa gia, cơ đa gia  (KRÌDA  KRÌDA)

Ma la ma la (MARA  MARA)

Ma cật đà, ma cật đà (MARDA  MARDA)

Già hiệt gia (GHATAYA)

Tát bà bích kiến (SARVA  VIGHNÀM)

Câu lỗ, câu lỗ  (KURU  KURU)

Tấn na, tấn na (CHINDA  CHINDHA)

Khất xá ba gia, khất xá ba gia (KSEPAYA  KSEPAYA)

Phiến chi công đê (‘SÀNTI  KUNDE)

Hiệt ma gia, hiệt ma gia (NAMÀYA  NAMÀYA)

446 Đốt lỗ đa nễ  đạt xa gia, yết ma nam  ( TRÙ  SADHÀRI ‘SAYA  KARMÀNÀM)

Bạc già bạc đế (BHAGAVATI)

Lạc xoa gia, lạc xoa gia (RAKSÀYA  RAKSÀYA)

Ma na bà ba lý ba lam (MANA  SAPARIVÀRÀM)

Sa la ba la đô vương tất trà (SARVA  SATVÀNÀM  CA)

Tát bà cật ha (SARVA-GRAHÀ)

Na khất xa đa la (NAKSATRA)

Pha đa ma bá nễ  (PADMA-PÀNE)

Bá la nễ (PÙRANI)

Bá la bạc già bạc để (PARA-BHAGAVATI)

Ma ha ma duệ (MAHÀ-MÀYE)

Tát đà gia đốt tất trà ma xa gia (SARVA  DUSTÀM  NÀ’SAYA)

Ba ba nễ (APÀPANI)

Ma tán để tán để (MÀ  CANDE  CANDE)

Đô lỗ đô lỗ (DHURU  DHURU)

Tán để mưu du mưu du (CANDE  MUSU  MUSU)

Tư mưu tư mưu, ha bà ha tế (CUMU  CUMU  HAVÀ  HAVE)

Ốc cật lý ốc cật ha (UGRE  UGRA)

Đa mê bố la gia mê (DHAPE  PÙRAYA  ME)

Mạt nỗ đa lam (MANORTHAM)

Tát bà di tha ca đa (SARVA  TATHÀGATA)

A đê tất đê (ADHISTHITE)

Sa ma gia toa ha (SAMAYA  SVÀHÀ)

An toa ha (OM  SVÀHÀ)

Hồng toa ha (HÙM   SVÀHÀ)

Hột lý toa ha (HRÌH  SVÀHÀ)

Hồng toa ha (HÙM   SVÀHÀ)

Di hàng toa ha (DHÌH   SVÀHÀ)

Bát ma hiệt la toa ha (PADMA-DHARA   SVÀHÀ)

A trất đá gia toa ha (ÀDITYA   SVÀHÀ)

Tô ma gia toa ha (SOMÀYA   SVÀHÀ)

Hiệt la nễ tu đa gia, toa ha (DHARANÌ-SUTÀYA   SVÀHÀ)   

Một tha gia, toa ha (BUDHÀYA   SVÀHÀ)

Bột đa tất tất ba đê duệ, toa ha (VRHASPATAYE   SVÀHÀ)

Tịch già la gia, toa ha (‘SUKRÀYA   SVÀHÀ)

Cật xa na bạt na gia, toa ha (‘SANI’SCÀYA   SVÀHÀ)

La ha tế , toa ha (RÀHAVE   SVÀHÀ)

Điểu đa tế, toa ha (KETAVE   SVÀHÀ)

447 Một tha gia, toa ha (BUDDHÀYA   SVÀHÀ)

Bá tạt la đạt la gia, toa ha (VAJRA-DHARÀYA   SVÀHÀ)

Bát ma hiệt la, toa ha (PADMA-DHARA   SVÀHÀ)

Câu ma la gia, toa ha (KUMÀRÀYA   SVÀHÀ)

Nặc khất xa đa la nan, toa ha (NAKSATRÀNÀM    SVÀHÀ)

Tát bà điểu bát đa la bá nan, toa ha  (SARVA-UPADRAVÀNÀM  

SVÀHÀ)

An, tát bà bá tỳ đế bát bát, toa ha   (OM  SARVA-VIDE  PHAT  PHAT  

SVÀHÀ) 

Kim Cương Thủ ! Đây là câu Chú bí mật của  chư Tinh Mẫu Đà La Ni thành biện tất cả căn bản của các việc. Kim Cương Thủ ! Câu Chú bí mật của Đà La Ni này, từ tháng chín, ngày bảy (07) của kỳ Bạch Nguyệt thì bắt đầu làm, đầy đủ trường  tịnh (trong sạch lâu dài) đến ngày 14 cúng dường các Tinh (ngôi sao)  rồi ngày 15 của tháng thọ trì  Nếy có thể ngày đêm đọc tụng, cho đến đủ chín năm thì không sợ chết, cũng không có sao lưu chuyển (tinh lưu) rơi rụng gây  sợ hãi . Cũng không có Nguyệt Tú gây điều ác đáng sợ mà nhớ Túc Mệnh. Cũng hay cúng dường tất cả các Tinh (ngôi sao) . Tất cả các Tinh (ngôi sao) tùy theo ước nguyện mà trao cho.  Bấy giờ các Tinh (ngôi sao) lễ Đức Thế Tôn xong  liền khen rằng:”Lành thay !” rồi đột nhiên chẳng hiện


KINH  CÁC TINH MẪU ĐÀ LA NI
(Hết)

 

Hiệu chỉnh xong ngày 02/12/2008

 

back_to_top.png

[ TRANG CHỦ KINH ĐIỂN | ĐẠI TẠNG KINH | THẦN CHÚ | HÌNH ẢNH ]

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0