佛山* Buddha Mountain * Phật Sơn

Calgary Alberta Canada

 TRANG CHỦ*--KINH ĐIỂN*--ĐẠI TẠNG KINH*--THẦN CHÚ*--HÌNH ẢNH*--中文*--ENGLISH


QUYỂN MỘT     QUYỂN HAI     QUYỂN BA     QUYỂN BỐN

LĂNG GIA A BẠT ĐA LA BỬU KINH

Hán Dịch: Đời Nhà Tống Pháp Sư Tam Tạng Ấn Độ Cầu Na Bạt Đà La

Việt Dịch: Ḥa Thượng Thích Duy Lực

Quyển Thứ Tư

Phẩm Nhất Thiết Phật Ngữ Tâm (Phần 4)

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

- Thế Tôn! Cúi xin v́ chúng sanh thuyết Tam Miệu Tam Phật Đà, khiến con và các Đại Bồ Tát đối với tự tánh của Như Lai, khéo tự giác và giác tha.

Phật bảo Đại Huệ :

- Cho ngươi tùy ư hỏi,Ta sẽ tùy sự hỏi của ngươi mà thuyết.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

- Thế Tôn! Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác là tác hay chẳng tác? Là sự ư? Là nhân ư? Là tướng ư? Là sở tướng ư? Là thuyết ư? Là sở thuyết ư? Là giác ư? Là sở giác ư? Những từ ngữ như thế là khác hay chẳng khác?

Phật bảo Đại Huệ :

- Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác đối với những từ ngữ này Phi sự cũng Phi nhân. Tại sao? V́ đều có lỗi. Đại Huệ! Nếu Như Lai là SỰ, hoặc tác hoặc vô thường; nếu nói vô thường th́ tất cả sự đều là Như Lai, Ta và chư Phật chẳng cho như thế. Nếu chẳng phải sở tác, là Vô Sở đắc, pháp phương tiện thành không, đồng như sừng thỏ, như con của Thạch Nữ, v́ chẳng có ǵ cả. Đại Huệ! Nếu Vô Sự Vô Nhân th́ phi hữu phi vô. Nếu phi hữu phi vô th́ lọt vào tứ cú; tứ cú là ngôn thuyết của thế gian,nếu ĺa tứ cú th́ chẳng đọa tứ cú, v́ chẳng đọa tứ cú là chứng đắc của bật trí, nghĩa cú của tất cả Như Lai cũng như thế. Đại Huệ nên biết,như Ta sở thuyết, tất cả pháp Vô Ngă. Nếu biết nghĩa Vô Ngă là tánh vô ngă. Tất cả pháp có tự tánh, chẳng tha tánh như trâu ngựa. Đại Huệ! Ví như con trâu chẳng có tánh ngựa, con ngựa chẳng có tánh trâu. Kỳ thật phi hữu phi vô, nghĩa ấy chẳng phải không có tự tánh. Như thế, Đại Huệ! Tất cả các pháp chẳng phải không có tự tướng, có tự tướng nhưng Vô Ngă, chẳng phải phàm phu dùng vọng tưởng có thể biết. Nói tất cả pháp Không, Vô Sanh, Vô Tự Tánh, nên biết nghĩa như trên.

- Như Lai nói ngũ ấm chẳng phải khác chẳng phải không khác. Nếu chẳng khác tức là vô thường, nếu khác th́ phương tiện thành không. Nếu cho là hai th́ phải có khác, như sừng trâu, mỗi mỗi tương tự nên chẳng khác; có dài ngắn sai biệt nên có khác, tất cả pháp cũng như thế. Đại Huệ! Như sừng trâu bên phải khác với sừng trâu bên trái, sừng bên trái khác với sừng bên phải, đủ thứ sắc tướng dài, ngắn mỗi mỗi khác nhau cũng như thế. Đại Huệ! Như Lai nói ấm giới nhập chẳng phải khác hay không khác. Do đó, pháp sở thuyết cuả Như Lai gọi là giải thoát. Nếu Như Lai khác với giải thoát, ắt phải do sắc tướng tạo thành. Nếu do sắc tướng tạo thành th́ vô thường, nếu chẳng khác th́ người tu hành được tướng giải thoát không thể phân biệt,mà người tu hành thấy có phân biệt,cho nên chẳng phải khác hay chẳng khác,cũng như trí và nhĩ diệm, chẳng phải khác hay chẳng khác.

- Đại Huệ! Nói "Trí và nhĩ diệm chẳng phải khác hay chẳng khác " là phi thường phi vô thường, phi tác phi sở tác, phi hữu vi phi vô vi, phi giác phi sở giác, phi tướng phi sở tướng, phi ấm phi khác với ấm, phi thuyết phi sở thuyết, phi nhất phi dị, phi đồng phi chẳng đồng. V́ phi nhất phi dị, phi đồng phi chẳng đồng, nên ĺa tất cả lượng. Ĺa tất cả lượng th́ vô ngôn thuyết, vô ngôn thuyết th́ vô sanh,vô sanh th́ vô diệt, vô diệt th́ tịch diệt, tịch diệt là tự tánh Niết Bàn, tự tánh Niết Bàn là vô sự vô nhân, vô sự vô nhân th́ chẳng có phan duyên, chẳng có phan duyên th́ siêu việt tất cả hư ngụy; siêu việt tất cả hư ngụy tức là Như Lai, Như Lai tức là Tam Miệu Tam Phật Đà. Đại Huệ! Tam Miệu Tam Phật Đà của Phật Đà ĺa tất cả căn lượng.

Khi ấy Thế Tôn muốn lập lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

Pháp ĺa chư căn lượng,

Vô sự cũng Vô Nhân.

Đă ĺa giác sở giác,

Cũng ĺa tướng sở tướng.

Ấm duyên đồng chánh giác,

Nhất dị chẳng thể thấy.

Nếu thật chẳng thể thấy,

Th́ làm sao phân biệt?

Phi tác phi bất tác,

Phi sự cũng phi nhân.

Phi ấm phi ĺa ấm,

Cũng chẳng có pháp khác.

Chẳng phải có các tánh,

Như vọng tưởng họ thấy.

Mỗi mỗi pháp cũng thế,

Phi hữu cũng phi vô.

V́ hữu nên nói vô,

V́ vô nên nói hữu.

Nếu VÔ chẳng thể lập,

Th́ HỮU làm sao có!

Hoặc nơi ngă, phi ngă,

Lưu luyến theo ngôn thuyết.

Ch́m đắm nơi nhị biên,

Tự hoại, hoại thế gian.

Tạo lỗi chướng giải thoát,

Tướng Thông ta quán sát.

Chẳng báng Đại Đạo Sư,

Ấy gọi là chánh quán.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng :

- Thế Tôn! Như Thế Tôn sở thuyết khế kinh, nói nhiếp thọ bất sanh bất diệt; Thế Tôn cũng nói bất sanh bất diệt là biệt danh của Như lai. Taị sao Thế Tôn v́ vô tánh mà nói bất sanh bất diệt cho là biệt danh của Như Lai?

Phật bảo Đại Huệ :

- Ta nói tất cả pháp Bất sanh Bất diệt là chẳng hiện pháp HỮU và VÔ.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

- Nếu tất cả pháp bất sanh th́ pháp Nhiếp Thọ bất khả đắc,v́ pháp nhiếp thọ bất sanh. Nếu tất cả pháp bất sanh th́ làm sao trong danh tự có pháp? Cúi xin Phật thuyết rơ.

Phật bảo Đại Huệ :

- Lành thay, lành thay! Hăy chú ư nghe và khéo ghi nhớ, Ta sẽ v́ ngươi phân biệt giải thuyết.

Đại Huệ BồTát bạch Phật rằng :

- Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Đại Huệ :

- Ta nói Như Lai chẳng phải vô tánh, cũng chẳng phải bất sanh bất diệt, nhiếp tất cả pháp, cũng chẳng đợi duyên mà bất sanh bất diệt, cũng chẳng phải vô nghĩa. Đại Huệ! Ta nói ư sanh pháp thân là danh hiệu của Như Lai, nói BẤT SANH kia, chẳng phải cảnh giới cuả tất cả ngoại đạo Thanh Văn, Duyên Giác, cho đến Thất Trụ Bồ Tát.

Đại Huệ! Nghĩa BẤT SANH kia tức biệt hiệu của Như Lai. Đại Huệ! Ví như lưới báu Nhân Đà La của Đế Thích và Bất Nhân Đà La, các vật ấy mỗi mỗi có nhiều tên gọi, nhưng chẳng phải có nhiều tên mà có nhiều tánh, cũng chẳng phải không có tự tánh.

- Như thế, Đại Huệ! Ta ở nơi thế giới Ta Bà này có ba A Tăng Kỳ trăm ngàn danh hiệu, phàm phu thảy đều nghe, mỗi mỗi xưng danh hiệu ta mà chẳng biết là biệt danh của Như Lai Ta. Đại Huệ! Hoặc có chúng sanh biết Ta là Như Lai, hoặc biết ta là Nhất Thiết Trí, hoặc biết là Phật, hoặc biết là Người Cứu Thế, hoặc biết là Người Tự Giác, hoặc biết là Đạo Sư, hoặc biết là Quảng Đạo, hoặc biết là tất cả đạo, hoặc biết là Thiên Nhơn, hoặc biết là Phạn ( người thanh tịnh ), hoặc biết là Trời, hoặt biết là Tự Tại, hoặc biết là thù thắng, hoặc biết là Tiên Nhơn Tóc Vàng, hoặc biết là Chơn Thật, hoặc biết là mặt trăng, hoặc biết là mặt trời, hoặc biết là Chúa Tể, hoặc biết là Vô Sanh, hoặc biết là Vô Diệt, hoặc biết là Tánh Không, hoặc biết là Như Như, hoặc biết là Chơn Đế, hoặc biết là Thật Tế, hoặc biết là Pháp Tánh, hoặc biết là Niết Bàn, hoặc biết là Thường, hoặc biết là B́nh Đẳng, hoặc biết là Bất Nhị, hoặc biết là Vô Tướng, hoặc biết là Giải Thoát, hoặc biết là Đạo, hoặc biết là Sanh v.v... Đại Huệ! Ba A Tăng Kỳ trăm ngàn danh hiệu như thế, chẳng thêm chẳng bớt, thế giới này và thế giới khác thảy đều biết Ta, như mặt trăng trong nước chẳng xuất chẳng nhập. Phàm phu chẳng thể biết Ta, v́ đọa nơi nhị biên, nhưng đều cung kính cúng dường Ta,mà chẳng khéo biết từ ngữ danh cú, chẳng có tự thông, chẳng phân biệt được tên và nghĩa, lại chấp trước mỗi mỗi văn tự ngôn thuyết, nơi bất sanh bất diệt cho là Vô Tánh, chẳng biết danh hiệu sai biệt của Như Lai dù nhiều mà nghĩa vốn chẳng sai biệt, như một Đế Thích cũng có nhiều danh hiệu vậy. V́ chẳng biết tự thông hội về căn bản, nên đối với tất cả pháp, đuổi theo ngôn thuyết mà chấp trước.

- Đại Huệ! Bọn ngu si kia nói như thế rằng : " Nghĩa như ngôn thuyết, nghĩa với ngôn thuyết chẳng khác. Tại sao? V́ nghĩa chẳng tự thân, ngoài ngôn thuyết chẳng có nghĩa khác, chỉ là ngôn thuyết thôi ". Họ bị ác kiến đốt trí, chẳng biết ngôn thuyết tự tánh, chẳng biết ngôn thuyết là sanh diệt, nghĩa th́ chẳng sanh diệt. Đại Huệ! Tất cả ngôn thuyết đọa nơi văn tự, nghĩa th́ chẳng đọa, v́ ĺa tánh phi tánh, nên chẳng thọ sanh, cũng chẳng tự thân. Đại Huệ! Như Lai chẳng thuyết pháp đọa văn tự, v́ văn tự hữu và vô đều bất khả đắc.

- Đại Huệ! Nếu có ai nói Như Lai thuyết pháp đọavăn tự, ấy là vọng ngữ, v́ pháp ĺa văn tự. Cho nên Đại Huệ! Ta cùng chư Phật và các Bồ Tát chẳng thuyết một chữ, chẳng đáp môt chữ. Tại sao? V́ pháp ĺa văn tự chứ chẳng phải Ta thuyết cái nghĩa không lợi ích cho chúng sanh. Ta chỉ nói ngôn thuyết là vọng tưởng cuả chúngsanh. Đại Huệ! Nếu ta chẳng thuyết tất cả pháp th́ giáo pháp sẽ hoại, nếu giáo pháp hoại th́ chẳng có chư Phật, Bồ Tát và ThanhVăn, Duyên Giác,vậy c̣n ai thuyết pháp cho ai?

- Cho nên, Đại Huệ! Đại Bồ Tát chớ chấp ngôn thuyết mà phương tiện tùy nghi rộng thuyết kinh pháp. Do chúng sanh phiền năo hy vọng chẳng đồng, nên Ta và chư Phật v́ mỗi mỗi hiểu biết khác nhau của chúng sanh mà thuyết các pháp, khiến họ ĺa tâm, ư, ư thức, chẳng thuyết chỗ đắc Tự Giác Thánh Trí.

- Đại Huệ! Nơi tất cả pháp vốn Vô Sở Hữu, nếu giác được tự tâm hiện lượng th́ ĺa được hai thứ vọng tưởng, chư Đại Bồ Tát dựa theo nghĩa này mà chẳng dựa theo văn tự. Nếu thiện nam, tín nữ dựa theo văn tự, là tự hoại Đệ Nhất Nghĩa, chẳng thể tự giác cũng chẳng thể giác tha, đọa nơi ác kiến tương tục mà v́ chúng thuyết pháp, chẳng khéo liễu tri tất cả pháp tất cả địa tất cả tướng, cũng chẳng biết nghĩa cú. Nếu khéo biết tất cả Pháp, tất cả Địa, tất cả Tướng, thông đạt nghĩa cú, tánh nghĩa đầy đủ th́ họ được dùng sự vui vô tướng của chánh Pháp mà tự thọ sự vui, kiến lập Đại thừa b́nh đẳng cho chúng sanh.

- Đại Huệ! Người nhiếp thọ Đại thừa th́ nhiếp thọ Chư Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác. V́ nhiếp thọ chư Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác th́ nhiếp thọ tất cả chúng sanh, nhiếp thọ tất cả chúng sanh th́ nhiếp thọ chánh pháp, nhiếp thọ chánh pháp th́ Phật chủng chẳng dứt, Phật chủng chẳng dứt th́ hay liễu tri chỗ đắc nhập thù thắng. Liễu tri chỗ đắc nhập thù thắng ấy là Đại Bồ Tát thường được ư sanh hóa thân, tùy nghi kiến lập pháp Đại thừa b́nh đẳng, dùng sức Thập Tự Tại (1) hiện nhiều sắc tướng, thông đạt h́nh loại phiền năo, các tướng hy vọng của chúng sanh mà thuyết pháp như thật. Nói NHƯ THẬT tức là chẳng có khác biệt, tướng như thật là bất khứ, bất lai, tất cả hư ngụy đều dứt, gọi là Như Thật. Đại Huệ! Thiện nam, tín nữ chẳng nên nhiếp thọ sự tùy ngôn thuyết chấp trước, v́ nghĩa chơn thật ĺa nơi văn tự.

(1) THẬP TỰTẠI LỰC : Nói tắt là Thập Lực, làmười thứ sức tự tại của Như Lai. Ấy là:

1.- Chỗ tri giác chẳng phải chỗ trí lực. Sự biết nghĩa lư của các vật là do sức tự tại của tự tâm tự biết, chẳng phải do trí lực mà biết.

2.- Sức tự tại biết nhân quả nghiệp báo của tất cả chúng sanh nơi tam thế.

3.- Sức tự tại biết các thứ thiền định giải thoát tam muội.

4.- Biết mỗi mỗi tri giải trí lực của tất cả chúng sanh.

5.- Biết mỗi mỗi cảnh giới chẳng đồng cuả chúng sanh thế gian.

6.- Biết phổ biến tất cả pháp đúng như thật tế.

7.- Biết mỗi mỗi hành và nhân của các pháp thế gian hữu lậu và các pháp Xuất thế gian Vô lậu từ Ngũ giới Thập thiện cho đến Niết bàn.

8.- Có Thiên nhăn vô ngại, thấy biết nghiệp duyên thiện ác và sanh tử của tất cả chúng sanh.

9.- Biết Túc mạng và Vô lậu Niết Bàn của tất cả chúng sanh.

10.- Biết tất cả tập khí mê vọng, dứt hẳn chẳng sanh, đúng như thật tế. Gọi là Thập Tự Tại Lực.

- Đại Huệ! Cũng như phàm phu dùng ngón tay chỉ vật, mà chỉ quán theo ngón tay th́ chẳng được nghĩa thật. Cũng thế, nếu phàm phu tùy theo ngôn thuyết của ngón tay mà nhiếp thọ chấp trước th́ rốt cuộc chẳng thể đắc Đệ Nhất Nghĩa thật ĺa ngón tay ngôn thuyết. Đại Huệ! Ví như nuôi trẻ nhỏ, nên cho ăn đồ chín, không nên cho ăn đồ sống, nếu cho ăn đồ sống th́ có thể khiến nó phát bệnh. Người đuổi theo ngôn thuyết v́ chẳng biết thứ lớp phương tiện cuả nghĩa pháp chín mùi cũng như thế. Do đó, Đại Huệ! Đối với pháp Bất sanh Bất diệt, người tu chẳng biết phương tiện là chẳng khéo tu, cho nên hành giả phải khéo tu phương tiện, chớ tùy theo ngôn thuyết như xem ngón tay mà chẳng thấy chỗ ngón tay chỉ. Cho nên, Đại Huệ! Người tu nên khéo biết phương tiện nơi nghĩa chơn thật, nghĩa chơn thật là nhân của Niết Bàn vi diệu tịch tịnh, ngôn thuyết là vọng tưởng ḥa hợp, vọng tưởng là tích tụ sanh tử.

- Đại Huệ! Nghĩa chơn thật là từ người đa văn mà đắc. Đại Hụê! Nói ĐA VĂN là thấu nơi nghĩa, chẳng phải ở nơi ngôn thuyết. Nói THẤU NGHĨA th́ chẳng theo kinh luận của tất cả ngoại đạo, tự thân chẳng theo, cũng chẳng khiến người khác theo, ấy gọi là Đại Đức Đa Văn. Cho nên người muốn cầu nghĩa nên thân cận bậc đa văn th́ thấu được nghĩa. Trái với nghĩa này tức là chấp trước ngôn thuyết, nên phải xa ĺa.

Khi ấy, Đại Hụê Bồ Tát lại thừa oai thần Phật mà bạch rằng :

- Bạch Thế Tôn! Pháp Bất sanh Bất diệt của Thế Tôn hiển thị chẳng có ǵ lạ. Tại sao? V́ lập cái nghĩa NHÂN của tất cả ngọai đạo, cũng nói bất sanh bất diệt, Thế Tôn cũng nói chẳng phải số lượng duyên diệt, là Niết Bàn Bất sanh Bất diệt. Thế Tôn! Ngoại đạo nói nhân duyên sanh thế gian, Thế Tôn cũng nói do vọng tưởng vô minh nghiệp ái làm duyên sanh khởi thế gian. Họ nói nhân, đây nói duyên, ấy chỉ là danh từ sai biệt thôi. Nhân duyên các vật cũng như thế, Thế Tôn với ngọai đạo lập luận chẳng có sai biệt. Ngoại đạo nói vi trần, thắng diệu, tự tại, chúng sanh, chúa v.v... Có chín sự vật bất sanh, bất diệt; Thế Tôn cũng nói tất cả tánh bất sanh, bất diệt, hữu và vô bất khả đắc. Ngoại đạo cũng nói tứ đại chẳng hoại, tự tánh bất sanh bất diệt, tứ đại thường là tứ đại, cho đến luân hồi lục đạo mà chẳng xa ĺa tự tánh; Thế Tôn sở thuyết cũng như thế. Cho nên con nói chẳng có ǵ lạ. Nay cúi xin Thế Tôn v́ đại chúng thuyết pháp đặc biệt, kỳ lạ hơn các pháp ngoại đạo. Nếu pháp chẳng sai biệt th́ tất cả ngoại đạo cũng đều là Phật,v́ cùng nói bất sanh, bất diệt vậy. Lại, Thế Tôn nói nơi một thế giới mà có nhiều Phật ra đời là chẳng có chỗ đúng, nếu theo lời sở thuyết trên th́ trong một thế giới phải có nhiều Phật, v́ pháp ngoại đạo với Phật chẳng sai biệt vậy.

Phật bảo Đại Huệ :

- Ta nói BẤT SANH BẤT DIỆT, chẳng đồng bất sanh bất diệt của ngoại đạo. Tại sao? V́ các ngoại đạo họ chấp có tánh của tự tánh để đắc tướng bất sanh bất biến, Ta chẳng như thế mà đọa sự hữu và vô. Đại Huệ! Pháp Ta nói ĺa hữu và vô, ĺa sanh diệt, phi tánh phi vô tánh, mỗi mỗi pháp như mộng huyễn hiện, nên phi vô tánh. Nói VÔ TÁNH là sắc tướng chẳng có tự tánh nhiếp thọ, hiện như chẳng hiện, nhiếp như chẳng nhiếp. Do đó nên nói tất cả tánh vô tánh, cũng phi vô tánh. Hễ giác được tự tâm hiện lượng th́ vọng tưởng chẳng sanh, yên ổn an lạc, dứt hẳn việc thế gian.

- Phàm phu ngu si, dùng vọng tưởng làm việc, chẳng phải Thánh Hiền, biết vọng tưởng chẳng thật như thành Càn Thát Bà và người huyễn hóa. Đại Huệ! Như trong thành Càn Thát Bà, có người huyễn hoá, người buôn bán, đủ thứ chúng sanh ra vào, phàm phu vọng tưởng cho có người chơn thật ra vào, nhưng thật th́ chẳng có kẻ ra người vào. Như thế, Đại Huệ! Phàm phu ngu si, khởi tưởng mê hoặc bất sanh bất diệt, thật cũng chẳng có hữu vi vô vi, hoặc sanh hoặc diệt của người huyễn, kỳ thật người huyễn vốn chẳng có. Tất cả pháp cũng như thế, ĺa nơi sanh diệt, tánh và vô tánh đều Vô Sở Hữu. Phàm phu ngu si, đọa kiến chấp bất như thật, khởi vọng tưởng sanh diệt, BẤT NHƯ THẬT của các bậc Thánh Hiền th́ chẳng như vậy. Nhưng tánh và phi tánh với vọng tưởng cũng chẳng có khác, nếu khác với vọng tưởng, chấp trước tất cả tánh của tự tánh th́ chẳng thấy tịch tịnh. Nếu chẳng thấy tịch tịnh th́ rốt cuộc chẳng thể ĺa vọng tưởng. Cho nên Đại Huệ! Chẳng có thấy tướng mà thấy vô tướng mới đúng. "Thấy Tướng " là cái nhân thọ sanh nên chẳng đúng, vô tướng th́ vọng tưởng chẳng sanh, chẳng khởi chẳng diệt, Ta nói là Niết Bàn. Đại Huệ! Nói Niết Bàn là thấy nghĩa chơn thật, ĺa pháp tâm, tâm số của vọng tưởng, cho đến đắc Như Lai Tự Giác Thánh Trí, Ta nói là Niết Bàn.

Khi ấy Thế Tôn muốn lập lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

Diệt trừ Nhân Sanh Luận,

Kiến lập nghĩa bất sanh.

Pháp ta thuyết như thế,

Phàm phu chẳng thể biết.

Tất cả pháp Bất sanh,

Vô Tánh Vô Sở Hữu.

Như thành Càn Thát Bà,

Và mộng huyễn vô nhân.

Bất sanh chẳng tự tánh,

Pháp KHÔNG có nhân ǵ?

V́ ĺa nơi ḥa hợp,

Tánh giác tri chẳng hiện.

Nên pháp Không bất sanh.

Ta nói chẳng tự tánh.

V́ mỗi mỗi ḥa hợp,

Dù hiện chẳng thật có.

Phân tích chẳng ḥa hợp,

Kiến chấp của ngoại đạo.

Như mộng huyển hoa đốm,

Và thành Càn Thát Bà.

Mỗi mỗi việc thế gian,

Vô nhân mà tướng hiện.

Hàng phục Hữu Nhân Luận,

Hiển bày nghĩa Vô Sanh.

Pháp Vô Sanh hiển bày,

Th́ ḍng pháp chẳng dứt.

Vô sanh tức vô nhân,

Các ngoại đạo kinh sợ.

Khi ấy Đại Huệ Bồ Tát dùng kệ hỏi rằng :

Thế nào là Sở nhân?

Do nhân nào có sanh?

Ở nơi nào ḥa hợp,

Mà lập Vô Nhân Luận?

Thế Tôn dùng kệ đáp rằng :

Quán sát pháp Hữu vi,

Chẳng nhân chẳng vô nhân.

Ngoại đạo sanh diệt luận,

Kiến chấp từ đây diệt.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát lại thuyết kệ hỏi rằng :

Thế nào là Vô Sanh?

Ấy là vô tánh ư?

Hoặc v́ quán các duyên,

Có pháp gọi VÔ SANH?

Tên chẳng lẽ không nghĩa?

Cúi xin phân biệt thuyết.

Thế Tôn lại dùng kệ đáp rằng :

Phi Vô Tánh Vô Sanh,

Cũng phi quán các duyên,

Phi hữu tánh đặt tên,

Có tên phi vô nghĩa.

Phi cảnh giới ngoại đạo,

Thanh Văn và Duyên Giác.

Cho đến hàng Thất Trụ,

Đây gọi tướng Vô Sanh.

Xa ĺa các nhân duyên,

Cũng ĺa tất cả việc.

V́ duy tâm kiến lập,

Tưởng, sở tưởng đều ĺa.

Sắc thân tùy nghiệp chuyển,

Ta nói là Vô Sanh.

Vô tánh vô ngoài tánh,

Cũng chẳng tâm nhiếp thọ.

Dứt tất cả kiến chấp,

Ta nói là Vô Sanh.

Phân biệt nhiều nghĩa KHÔNG,

Phi Không nên nói KHÔNG.

Vô sanh nên nói KHÔNG,

Vô tự tánh như thế.

Do nhân duyên ḥa hợp,

Th́ có sanh có diệt.

Ĺa các số nhân duyên,

Vốn chẳng có sanh diệt.

Ĺa bỏ số nhân duyên,

Th́ chẳng có tánh khác.

Nếu nói nhất và dị,

Là vọng tưởng ngoại đạo.

Tánh Hữu, vô bất sanh,

Phi hữu cũng phi vô.

Ngoại trừ số chuyển biến,

Thảy đều bất khả đắc.

Chỉ có số thế tục,

Duyên nhau thành xiềng xích.

Ĺa nhân duyên xiềng xích,

Phàm phu chẳng thể hiểu.

Nếu ĺa duyên xiềng xích,

Nghĩa SANH bất khả đắc.

Tánh Vô Sanh chẳng khởi,

Ĺa các lỗi ngoại đạo.

Chỉ nói duyên xiềng xích,

Phàm phu chẳng thể hiểu.

Nếu ĺa duyên xiềng xích,

Mà có tánh sanh khác.

Ấy là Vô Nhân Luận,

Phá hoại nghĩa xiềng xích.

Như đèn hiển sắc tướng,

Xiềng xích hiện cũng thế.

Nếu ĺa nghĩa xiềng xích,

Lại c̣n có các tánh.

Tánh ấy đều Vô Tánh,

Như tánh của hư không.

Ĺa xiềng xích cũng thế,

Bậc trí chẳng phân biệt.

Vô sanh chẳng pháp khác,

Là pháp của Thánh Hiền.

Người đắc pháp Vô Sanh,

Là chứng Vô Sanh Nhẫn.

Giả sử trong thế gian,

Người quán sát xiềng xích.

Ĺa tất cả xiềng xích,

Do đó đắc Chánh định.

Nghiệp ái tham, sân, si,

Là xiềng xích nội tâm.

Đất śnh, cây dùi lửa,

Là chủng tử bên ngoài.

Trong ngoài duyên nhau sanh.

Giả sử có tánh khác,

Chẳng phải nghĩa xiềng xích,

Pháp ấy chẳng thành tựu.

Nếu SANH chẳng tự tánh,

Ai làm nghĩa xiềng xích.

V́ lần lượt sanh nhau,

Nên gọi nghĩa Nhân Duyên.

Phàm phu vọng tưởng sanh,

Pháp địa, thủy, hỏa, phong.

Ĺa số chẳng pháp khác,

Là cái thuyết Vô Tánh.

Như thầy thuốc chữa bệnh,

V́ bệnh có sai biệt,

Nên lập đủ thứ luận,

Để trị mỗi mỗi bệnh.

Ta v́ các chúng sanh,

Đoạn dứt phiền năo họ.

Tùy tŕnh độ cao thấp,

Thuyết Độ Môn cho họ.

Gốc phiền năo chẳng khác,

Mà có đủ thứ pháp.

Đây thuyết pháp Nhất thừa,

Cũng gọi là Đại thừa.

Khi ấy, Đại huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng :

- Thế Tôn! Tất cả ngoại đạo đều khởi vọng tưởng vô thường, Thế Tôn cũng thuyết tất cả hành, vô thường, là pháp sanh diệt. Thế Tôn! Nghĩa này thế nào? Là tà hay chánh? Có mấy thứ vô thường?

Phật bảo Đại huệ :

- Tất cả ngoại đạo có bảy thứ vô thường, chẳng phải pháp Ta thuyết vậy. Thế nào là bảy? Họ hoặc nói "tạo rồi lui bỏ" gọi là vô thường; hoặc nói b́nh xứ hoại gọi là vô thường; hoặc nói ngay sắc thể đó là vô thường; hoặc nói giữa quá tŕnh biến chuyển gọi là vô thường, các vật tự thể tan hoại chẳng gián đoạn, như sự chuyển biến của sữa thành tô lạc, ngay giữa chuyển biến chẳng thể thấy, tất cả tánh chuyển biến vô thường hủy hoại cũng như thế. Hoặc nói tánh, vô thường, hoặc nói tánh, vô tánh, vô thường, hoặc nói tất cả pháp bất sanh, vô thường, v.v... Họ đem những kiến chấp vô thường này vào tất cả pháp.

1.- Đại Huệ! Ngoại đạo nói TẠO RỔI LIỀN BỎ Là VÔ THƯỜNG. Ta nói ĺa kẻ bắt đầu tạo ra vô thường th́ chẳng phải tứ đại. V́ tứ đại bất sanh là nghĩa THƯỜNG, nếu c̣n có pháp khác với tứ đại, mỗi mỗi tự tướng khác nhau th́ chẳng có sai biệt để đắc, v́ sai biệt ấy đều chẳng thể tạo nữa. Hai thứ phân biệt chẳng thể tạo (chẳng có kẻ bắt đầu tạo vô thường, cũng chẳng có kẻ bắt đầu tạo thường ), nên biết vô thường tức là thường.

2.- Ngoại đạo nói H̀NH XỨ HOẠI Là VÔ THƯỜNG. Ta nói tứ đại và tứ đại tạo sắc chẳng hoại, cứu cánh chẳng hoại. Đại Huệ! Nói "Cứu cánh" là phân tích cho đến vi trần, quán sát sự hoại của tứ đại và tứ đại tạo sắc, thấy h́nh xứ dài ngắn và khác biệt đều bất khả đắc th́ chẳng phải tứ đại, nên nói tứ đại chẳng hoại. Hiện "h́nh xứ hoại" là đọa nơi Số Luận.

3.- Ngoại đạo nói NGAY SẮC THỂ TỨC Là VÔ THƯỜNG, ấy cũng là h́nh xứ vô thường, chẳng phải tứ đại. Nếu tứ đại vô thường th́ chẳng phải ngôn thuyết thế tục, v́ ngôn thuyết thế tục phi tánh. Thấy tất cả tánh chỉ có ngôn thuyết, chẳng thấy tự tướng sanh, là đoạ nơi Thế Luận.

4.- Ngoại đạo nói CHUYỂN BIẾN VÔ THƯỜNG. Ta nói sắc thể hiện khác với tánh, chẳng phải tứ đại có khác. Như vàng làm ra nhiều đồ trang sức, hiện chuyển biến khác nhau nhưng chẳng phải tánh vàng có khác, chỉ là những đồ trang sức khác nhau thôi. Vậy các tánh kia chuyển biến cũng như thế.

5.- Đại Huệ! Nói TÁNH VÔ THƯỜNG là tự tâm vọng tưởng, chấp tánh phi thường là vô thường. Tại sao? Nói vô thường của tự tánh bất hoại. Đại Huệ! Đây là tất cả tánh vô tánh, là sự vô thường. Ngoài sự vô thường, chẳng có ǵ có thể khiến tất cả pháp tánh vô tánh; như gậy, ngói, đá, dù có tướng khác biệt, phá hoại rồi th́ thấy mỗi mỗi chẳng khác, ấy là sự tánh vô thường, chẳng phải năng tác sở tác có sai biệt, đây là sự vô thường. V́ năng tác sở tác chẳng khác th́ tất cả tánh vô nhân. Tánh vô nhân là thường. Đại Huệ! Tất cả tánh vô tánh hữu nhân, chẳng phải phàm phu có thể biết. Phi nhân th́ sự bất tương tự sanh khởi ( cũng như cây lư có thể sanh ra cây đào, cây đào có thể sanh ra cây xoài, v.v... ), nếu sanh khởi th́ nói tất cả tánh thảy đều vô thường là có lỗi.

- Việc bất tương tự này, năng tác sở tác chẳng có sai biệt mà lại thấy có khác. Nếu nói tánh vô thường th́ đọa tánh tướng có nhân, tác, có tác th́ tất cả tánh chẳng cứu cánh. Nếu tất cả tánh đọa tướng có năng tác, th́ năng tác vô thường, sở tác cũng vô thường; năng vô thường, sở vô thường th́ tất cả tánh chẳng vô thường, v́ vô thường thường sanh vô thường, tức là thường vậy.

- Nếu chấp vô thường vào tất cả tánh th́ hoại nghĩa tam thế. Như sắc quá khứ vô thường ắt chẳng ĺa hoại; nếu đă hoại th́ vị lai bất sanh, nếu sắc bất sanh th́ tướng sắc hiện tại cũng đồng như hoại. Nói SẮC là do tứ đại tích tụ, có tánh sai biệt, tứ đại và tứ đại tạo sắc tự tánh chẳng hoại, ĺa khác và chẳng khác. Tất cả ngoại đạo đối với nghĩa chẳng hoại, tứ đại và tứ đại tạo sắc nơi tất cả tam giới chẳng thể biết tánh vốn chẳng hoại, nên có sanh diệt. Nếu ĺa tứ đại tạo sắc, th́ tất cả ngoại đạo dựa vào đâu mà suy nghĩ tánh vô thường ư? Tướng tự tánh bất hoại th́ tướng tự tánh bất sanh.

6.- Đại Huệ! Nói TÁNH VÔ TÁNH VÔ THƯỜNG, là ĺa tứ đại và tứ đại sở tạo, khi tự tướng hoại, tứ đại tự tánh bất khả đắc, tức là bất sanh.

7.- Nói BẤT SANH VÔ THƯỜNG, là phi thường vô thường. Tất cả pháp hữu và vô bất sanh, phân tích cho đến vi trần th́ chẳng thể thấy, ấy là nghĩa bất sanh, phi sanh, gọi là tướng Vô thường Bất sanh. Nếu chẳng giác được nghĩa này th́ đọa ngoại đạo sanh nghĩa vô thường.

- Mỗi mỗi ngoại đạo vọng tưởng có kiến chấp vô thường như thế, như lúc tứ đại bị cháy mà tự tướng chẳng cháy. Nếu tướng của mỗi mỗi tự tướng thiêu hoại th́ mỗi mỗi tạo sắc phải đoạn dứt, mà thật th́ chẳng như thế.

- Đại Huệ! Pháp ta nói phi thường phi vô thường. Tại sao? V́ ngoài tánh chẳng thể quyết định, nên chỉ nói tam giới duy tâm, chẳng nói mỗi mỗi tướng có sanh có diệt. Tứ đại ḥa hợp có sai biệt là do tứ đại và tứ đại tạo sắc sanh ra vọng tưởng phân biệt. Có hai thứ năng nhiếp sở nhiếp, nếu biết hai thứ đều là vọng tưởng, ĺa hai thứ kiến chấp ngoài tánh phi tánh, giác được vọng tưởng của tự tâm hiện lượng do tự tướng tác hành sanh khởi phân biệt mới có, sở tác nghiệp tướng gọi là vọng tưởng sanh, chẳng phải không có tư tưởng tác hành mà gọi là vọng tưởng vậy. Ĺa vọng tưởng của tâm, tánh, vô tánh, tất cả pháp thế gian, xuất thế gian, cho đến siêu việt xuất thế gian, đều phi thường phi vô thường. Nếu chẳng biết tự tâm hiện lượng, th́ đọa ác kiến nhị biên tương tục. Tất cả ngoại đạo do tự vọng tưởng, chẳng biết ba thứ pháp tướng thế gian, pháp tướng xuất thế gian và thắng ( siêu việt ) pháp tướng xuất thế gian, dựa theo ngôn ngữ vọng tưởng thuyết mỗi mỗi pháp. Ta nói cảnh giới phi thường phi vô thường, chẳng phải phàm phu có thể hiểu biết, v́ họ chẳng giác được tự tâm hiện lượng vậy.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

Ĺa sự bắt đầu tạo,

Và h́nh xứ khác biệt.

Nói tánh Sắc vô thường,

Là vọng tưởng ngoại đạo.

Các tánh chẳng thể hoại,

Tự trụ tánh tứ đại.

Ngoại đạo tưởng vô thường,

Là ch́m nơi kiến chấp.

Pháp hoặc sanh hoặc diệt,

Tánh tứ đại tự thường.

Tại sao bọn ngoại đạo

Lại sanh tưởng vô thường?

Năng nhiếp và sở nhiếp,

Tất cả duy tâm tạo.

Theo hai tâm lưu chuyển,

Vô ngă và ngă sở.

Nói gốc cây Phạm Thiên ( ngă ),

Nhánh lá khắp thế gian ( ngă sở ).

Theo pháp Ta sở thuyết,

Chỉ do tâm họ tạo.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng :

- Thế Tôn! Cúi xin v́ đại chúng thuyết tướng thứ lớp tương tục Diệt Tận Định của tất cả Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác. Nếu khéo biết tướng thứ lớp tương tục Diệt Tận Định, th́ khiến con và các Bồ Tát chẳng vọng xả sự vui của pháp môn Diệt Tận Định, cuối cùng chẳng đọa sự ngu si của tất cả ngoại đạo Thanh Văn và Duyên Giác.

Phật bảo Đại Huệ :

- Hăy chú ư nghe và khéo ghi nhớ, Ta sẽ v́ ngươi mà thuyết.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

- Thế Tôn! Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Đại Huệ :

- Từ Sơ Địa đến Lục Địa Bồ Tát đắc nhơn Vô Ngă, nhập Diệt Tận Định với Thanh Văn, Duyên Giác chẳng khác; v́ nơi định có xuất có nhập, chưa thể niệm niệm nhập. Thất Địa Bồ Tát nhập Diệt Tận Định ĺa tất cả tướng hữu vô. Dù có tánh Niết Bàn mà chẳng trụ, chẳng như Nhị Thừa có nhiếp thọ sự vui của chánh định, cho chánh định là thiện, duyên theo hữu vi nhập Diệt Tận Định, đọa cảnh giới năng nhiếp sở nhiếp và có hành có giác. Cho nên Thất Địa Bồ Tát niệm niệm nhập Diệt Tận Định mà chẳng nghĩ Diệt Tận Định là thiện, đắc tất cả pháp tướng chẳng sai biệt, chẳng phân biệt pháp hữu, pháp vô, pháp thiện, pháp bất thiện.

- Đại Huệ! Bát Địa Bồ Tát xả ĺa Tạng thức chẳng những đối với tất cả pháp mỗi mỗi tướng diệt, cho đến tâm, ư, ư thức hư vọng phân biệt của Thanh Văn, Duyên Giác cũng diệt. Từ Sơ Địa cho đến Thất Địa Bồ Tát sở tu quán hạnh, thấy tất cả các pháp nơi tam giới chỉ do tâm, ư, ư thức sở hiện tâm lượng, ĺa ngă và ngă sở v.v... cũng chuyển diệt luôn, chẳng thấy ngoài pháp có mỗi mỗi các tướng. Ngoại đạo ở nơi tự tâm khởi vọng tưởng phân biệt, hư vọng tu tập, thấy ở ngoài pháp có tướng để đắc, th́ đọa mỗi mỗi tướng ngoài tánh. Ấy là hai thức chấp trước của phàm phu ngoại đạo, dùng tự tâm nhiếp tự tâm, thấy có pháp năng nhiếp sở nhiếp bèn nói tất cả đoạn diệt, chẳng biết do tập khí hư ngụy từ vô thỉ sở huân mà đoạn diệt chủng tánh Phật.

- Đại Huệ! Bát Địa Bồ Tát sở đắc Tam muội với Thanh Văn, Duyên Giác dù hơi giống nhau, nhưng Bồ Tát có chánh giác gia tŕ, nên dù có sự vui của Tam muội mà chẳng nhập Niết Bàn. Nếu chẳng có chánh giác gia tŕ th́ như Nhị Thừa tự yên ổn, chẳng thể trọn vẹn bằng Đại Như Lai, mà tự chứng Niết Bàn, xả bỏ tất cả chúng sanh, chẳng v́ chúng sanh thuyết pháp hữu vi để dần dần dẫn dắt chúng sanh vào tri kiến Như Lai th́ Phật chủng ấy phải đoạn dứt. Chư Phật Thế Tôn v́ muốn khiến Nhị Thừa nối tiếp Phật Chủng, nên hiển thị vô lượng công đức bất khả tư ngh́ của Như Lai, nhưng hàng Thanh Văn, Duyên Giác ham trụ sự vui của Tam muội chẳng chịu hồi tâm tiến lên Đại thừa, lại tự cho là đă chứng Niết Bàn.

- Đại Huệ! Ta sở dĩ nhấn mạnh bộ phận "Thất Địa" là muốn hành giả khéo tu phương tiện, xa ĺa các tướng tâm, ư, ư thức và kiến chấp ngă, ngă sở, nhiếp thọ nhơn vô ngă, pháp Vô Ngă và Biện tài Tứ vô ngại, đắc sức quyết định nơi Tam Muội Môn, từ những đạo phẩm tương tục từ trước đến đây lần lượt tiến lên Bát Địa cho đến Thập Địa. V́ e sợ các Bồ Tát chẳng khéo liễu tri tự tướng cộng tướng và sự thứ lớp tương tục của chư Địa mà đọa nơi ác kiến của ngoại đạo, nên kiến lập thứ lớp của chư Địa. Đại Huệ! Ngoại trừ tự tâm hiện lượng, thật chẳng có pháp sanh pháp diệt, chư Địa thứ lớp tương tục và đoạn đứt mỗi mỗi hạnh mê hoặc rơi vào tam giới, chỉ v́ phàm phu chẳng giác ngộ, nên Ta và chư Phật thuyết chư Địa thứ lớp tương tục và thuyết pháp đoạn dứt mỗi mỗi hạnh mê hoặc nơi tam giới.

- Lại nữa, Đại Huệ! Bồ Tát Đệ Bát Địa v́ muốn diệt ham trụ sự vui nơi Tam muội của Thanh Văn, Duyên Giác, biết họ chẳng khéo giác tự tâm hiện lượng của tự tướng cộng tướng, bị rươu tập khí say mê sở chướng, đọa kiến chấp nhiếp thọ nhơn pháp Vô Ngă, vọng tưởng cho là Niết Bàn, chẳng phải trí huệ tịch diệt của tự giác. Đại Huệ! Bồ Tát thấy sự vui của Tam Muội Môn tịch diệt, do bổn nguyện đại bi thành tựu thương xót chúng sanh, phân biệt liễu tri Thập Vô Tận Cú, chẳng trụ vọng tưởng Niết Bàn. V́ bậc họ biết vốn đă Niết Bàn, nên vọng tưởng chẳng sanh, ĺa năng nhiếp sở nhiếp của vọng tưởng, giác liễu tự tâm hiện lượng nơi tất cả các pháp, v́ vọng tưởng chẳng sanh nên chẳng đọa nơi tâm, ư, ư thức và tướng vọng tưởng chấp trước ngoài tánh của tự tánh. Đối với Phật pháp chẳng có cái nhân bất sanh, là tùy theo trí huệ mà sanh, nên chứng đắc Như Lai Tự Giác Địa.

- Như người trong mộng dùng phương tiện qua sông, nhưng chưa qua đă thức, thức rồi suy nghĩ là chánh hay tà, hoặc phi chánh phi tà. Người ấy do tưởng nhớ mỗi mỗi tập khí của kiến văn giác tri từ vô thỉ, nên ở mỗi mỗi h́nh xứ đọa tướng hữu và vô, thành có giấc mơ hiển hiện nơi tâm, ư, ư thức nên suy nghĩ như thế.

- Đại Huệ! Như thế, Đại Bồ Tát nơi Đệ Bát Địa thấy chỗ vọng tưởng sanh, từ Sơ Địa tiến đến Thất Địa, thấy tất cả pháp như huyễn, dùng phương tiện độ thoát cái tâm vọng tưởng năng nhiếp sở nhiếp xong, dùng phương tiện của Phật pháp khiến người chưa chứng đắc được chứng đắc. Đại Huệ! Đây là phương tiện chẳng đoạn đứt nơi Niết Bàn của Bồ Tát, ĺa tâm, ư, ư thức, đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Đại Huệ! Nơi Đệ Nhất Nghĩa chẳng có thứ lớp tương tục, nói "Vọng tưởng Vô Sở Hữu" là pháp tịch diệt.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

Tam thế Chư Phật thuyết,

Tâm lượng Vô Sở Hữu.

Bậc Trụ Địa Bồ Tát,

Được đến địa vị Phật.

Tâm lượng nơi Tạng Thức,

Thất Địa chưa diệt sạch.

Bát Địa mới diệt hết.

Hai Địa Thất và Bát,

Đều gọi là Trụ Địa.

Phật địa gọi Tối Thắng,

Trí tự giác trong sạch.

Chỗ tự tại Tối Thắng,

Chiếu soi như lửa hồng,

Quang minh khắp nơi nơi,

Sáng ḷa chẳng chói mắt.

Giáo hóa lúc hiện tại,

Hoặc giáo hóa lúc trước,

Đến đây diễn Nhất Thừa,

Đều vào Địa Như Lai.

Nhất thừa lập chư Địa,

Thật th́ chẳng thứ lớp.

Thập Địa như Sơ Địa,

Sơ Địa như Bát Địa,

Cửu Địa như Thất Địa,

Thất Địa như Bát Địa,

Nhị Địa như Tam Địa,

Tứ Địa như Ngũ Địa,

Tam Địa như Lục Địa,

Thông nhau chẳng thứ lớp.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng :

- Thế Tôn! Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác là thường hay vô thường?

Phật bảo Đại Huệ :

- Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác phi thường phi phi thường, v́ cả hai đều có lỗi. Nếu nói THƯỜNG th́ có cái lỗi năng tác, tất cả ngoại đạo đều nói "thường có kẻ tác", THƯỜNG do tác mà thành th́ chẳng phải chơn thường. Như Lai đối với chơn thường c̣n chẳng thấy có tướng Thường để đắc, huống là do tạo tác mà thành Thường ư? Nên nói có lỗi.

- Nếu nói Như Lai VÔ THƯỜNG th́ có cái lỗi sở tác VÔ THƯỜNG. Ngoại đạo cho ngũ ấm là sở tác, nhưng tướng năng thấy và sở thấy của ngũ ấm đều chẳng tự tánh, rốt cuộc phải đoạn diệt, mà Như Lai th́ chẳng đoạn diệt. Đại Huệ! Tất cả sở tác đều vô thường, như cái b́nh, y áo v.v... tất cả đều có cái lỗi vô thường. Thế th́ tất cả công đức phương tiện dùng để độ chúng sanh của Nhất Thiết Trí sở tác đều thành vô nghĩa, v́ có sở tác. Nếu có nghĩa th́ tất cả sở tác của thế gian đều đồng như sở tác của Như Lai, v́ chẳng có tánh sai biệt vậy. Cho nên Như Lai nói phi thường phi vô thường.

- Lại nữa, Đại Huệ! Như Lai chẳng phải như HƯ KHÔNG THƯỜNG. Nếu như hư không thường th́ thành Ngoan không Vô Tri, mà Tự Giác Thánh Trí th́ đầy đủ linh giác. Vậy nói "Như Hư Không Thường" th́ có cái lỗi vô nghĩa. Đại Huệ! Ví như hư không phi thường phi vô thường, ĺa thường, vô thường, nhất, dị đồng, chẳng đồng, nên bất khả thuyết, cho nên Như Lai phi THƯỜNG.

- Lại nữa, Đại Huệ! Nếu Như Lai là VÔ SANH THỪƠNG th́ như sừng của thỏ, ngựa cũng là Vô Sanh Thường, vậy th́ pháp phương tiện thành vô nghĩa, v́ có cái lỗi " Vô Sanh Thường ", nên Như Lai phi THỪƠNG.

- Lại nữa, Đại Huệ! C̣n có việc khác biết Như Lai là THỪƠNG. Tại sao? V́ trí sở đắc Thường nên Như Lai THỪƠNG.

- Đại Huệ! Như Lai hoặc ra đời hoặc chẳng ra đời, pháp cố định thường trụ. Thanh Văn, Duyên Giác, chư Phật Như Lai thường trụ chẳng gián đoạn, cũng chẳng phải vô tri như hư không thường trụ, cũng chẳng phải phàm phu có thể hiểu biết. Đại Huệ! Trí sở đắc của Như Lai là do Bát Nhă sở huân, chẳng như chỗ tâm ư, ư thức của ngoại đạo kia do ấm, giới, nhập sở huân. Đại Huệ! Tất cả tam giới đều do vọng tưởng chẳng thật sở sanh, Như Lai th́ chẳng từ vọng tưởng chẳng thật sanh. Đại Huệ! V́ hai pháp đối đăi nên có thường và vô thường, chẳng phải pháp bất nhị, Pháp bất nhị là tịch tịnh, v́ tất cả pháp chẳng có hai tướng sanh. Cho nên Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác phi thường phi vô thường. Đại Huệ! Nếu sanh ngôn thuyết phân biệt th́ có cái lỗi thường và vô thường. Nếu cái giác phân biệt diệt th́ xa ĺa kiến chấp Thường, Vô Thường của phàm phu. Kiến chấp phàm phu hư vọng phân biệt mỗi mỗi pháp thường, pháp vô thường, phi thường phi vô thường, huân tập theo pháp sanh diệt, dẫu có trí huệ cũng chẳng thể tịch tịnh.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:

Nói đủ thứ vô nghĩa,

Sanh lỗi thường, vô thường.

Từ đó kiến lập Tông,

Có nhiều nghĩa hỗn tạp.

Nếu chẳng sanh phân biệt,

Ĺa hẳn thường, vô thường.

Đẳng quán lượng tự tâm,

Ngôn thuyết bất khả đắc.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng :

- Thế Tôn! Cúi xin Thế Tôn v́ chúng con thuyết sự sanh diệt của ấm, giới, nhập, nếu những việc ấy chẳng có tự tánh (ngă) th́ ai sanh ai diệt? Phàm phu là y nơi sanh diệt, chẳng biết Niết Bàn, chẳng thể hết khổ.

Phật bảo Đại Huệ :

- Lành thay! Hăy chú ư nghe, Ta sẽ v́ ngươi mà thuyết.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

- Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Đại Huệ :

- Tạng của Như Lai là hiển bày cái nhân thiện và bất thiện, phổ biến tạo ra các loài chúng sanh, ví như nhà ảo thuật biến hiện các loài người huyễn hóa, ĺa ngă và ngă sở. Ngoại đạo chẳng biết do ba duyên Căn, Cảnh, Thức hoà hợp phương tiện sanh khởi, lại chấp trước có kẻ tạo tác, ấy là do ác kiến tập khí hư ngụy từ vô thỉ sở huân, gọi là Tạng Thức, do đó sanh vô minh trụ Địa, cùng với thức thứ bảy sanh pháp nhiễm tịnh, như biển nổi làn sóng, thường khởi chẳng dứt. Nếu ĺa lỗi vô thường, và ĺa nơi Thần Ngă Chấp Thường Luận của ngoại đạo th́ tự tánh vô nhiễm, bổn lai trong sạch.

- C̣n các thức kia th́ có sanh có diệt, nơi ư thức niệm niệm tạo cái nhân vọng tưởng chẳng thật, chấp lấy các cảnh giới đủ thứ h́nh xứ danh tướng, chẳng biết sắc tướng do tự tâm sở hiện, chẳng ĺa khổ vui, chẳng đến giải thoát, bị danh tướng trói buộc, tham sanh rồi sanh tham. Nếu nhân duyên các căn nhiếp thọ diệt th́ tương tục chẳng sanh, nếu ĺa tự tâm vọng tưởng, chẳng thọ khổ vui, hoặc nhập Diệt Tận Định, hoặc nhập Cơi Tứ 'Thiền, hoặc khéo tu Chơn Đế giải thoát, chỉ chứng lư Thiên Không, người tu cho là giải thoát, ham trụ Niết Bàn, chẳng ĺa chẳng chuyển, gọi là " Như Lai Tạng Thức Tạng " ( là Tạng thức trong Như Lai Tạng ).

- Ngoại đạo do thức thứ bảy chấp thức thứ tám làm Thần ngă th́ lưu chuyển chẳng diệt, do đó các thức phan duyên, chẳng phải cảnh giới tu hành của Thanh Văn, Duyên Giác, v́ chẳng giác được Vô Ngă, có tự tướng cộng tướng nhiếp thọ, sanh ấm giới nhập. Nếu thấy tánh Như Lai Tạng th́ năm pháp tự tánh và nhơn pháp Vô Ngă đều diệt.

- Từng Địa thứ lớp tương tục tiến lên, chẳng bị kiến chấp ngoại đạo lay động, ấy gọi là trụ Bồ Tát Bất Động Địa, chứng đắc mười thứ đạo môn an vui của Tam Muội, mà tự nguyện chẳng thọ môn vui của Tam Muội, do huệ giác của Tam Muội sở tŕ, quán sát Phật Pháp bất khả tư ngh́ và thật tế hướng lên Tự Giác Thánh Trí, chẳng cùng lối tu hành của tất cả Thanh Văn, Duyên Giác và ngoại đạo, đắc mười thứ chủng tánh Hiền Thánh, ĺa Tam Muội hạnh, vào nơi Như Lai ư sanh thân của Trí thân. Cho nên, Đại Huệ! Đại Bồ Tát muốn cầu thắng tiến, nên tẩy sạch danh tướng Như Lai Tạng và Thức tạng.

- Đại Huệ! Nếu chẳng có danh tướng Thức tạng và Như Lai Tạng th́ chẳng có sanh diệt, nhưng các bậc phàm phu Hiền Thánh đều có sanh diệt. Người tu hành Tự Giác Thánh Trí chẳng xả phương tiện mà hiện pháp lạc trụ. Đại Huệ! Cái Như Lai Tạng và thức tạng này là do tâm tưởng của tất cả Thanh Văn, Duyên Giác sở thấy, dù tự tánh thanh tịnh, nhưng bị khách trần che lấp, vẫn thấy bất tịnh, chẳng phải sự thấy của Như Laị. Đại Huệ! Cảnh giới hiện tiền của Như Lai, cũng như xem trái Yêm Ma La trong bàn tay vậy.

- Đại Huệ! Ta ở nơi nghĩa này dùng thần lực kiến lập, khiến Thắng Man Phu Nhân và chư Bồ Tát trí sáng đầy đủ v.v... diễn thuyết tuyên dương danh tướng Như Lai Tạng với thức tạng, và sự cùng sanh của bảy thứ thức kia. V́ hàng Thanh Văn chấp trước, c̣n thấy có nhơn, pháp Vô Ngă, nên Thắng Man Phu Nhân thừa Phật oai thần thuyết cảnh giới Như Lai chẳng phải cảnh giới của Nhị thừa và ngoại đạo. Đối với Như Lai Tạng và thức tạng, chỉ có Phật và bậc Bồ Tát y nghĩa lợi trí có cảnh giới trí huệ này. Cho nên ngươi và các Đại Bồ Tát nơi Như Lai Tạng và Thức tạng nên siêng tu học, chớ nên chỉ nghe biết được cho là đủ.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lập lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:

Như Lai Tạng thâm sâu,

Mà cùng với bảy thức,

Sanh hai thứ nhiếp thọ,

Bậc trí nên xa ĺa.

Vô thỉ huân tập khí,

Như tượng hiện tâm gương.

Người quán sát như thật,

Hữu sự như vô sự.

Kẻ ngu quán mặt trăng,

Quán chỉ (ngón tay) chẳng quán trăng.

Chấp trước theo văn tự.

Chẳng thấy nghĩa chơn thật.

Tâm làm nghề ảo thuật,

Ư là người giúp nghề.

Ngũ thức bạn diễn viên,

Vọng tưởng là khán giả.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

- Thế Tôn! Cúi xin v́ đại chúng thuyết năm pháp tự tánh thức, hai thứ Vô Ngă và Cứu Cánh phân biệt tướng, khiến con và các Đại Bồ Tát nơi tất cả Địa thứ lớp tương tục phân biệt pháp này, vào tất cả Phật Pháp. Nếu vào được tất cả Phật pháp th́ đến Tự Giác Địa của Nhu Lai.

Phật bảo Đại Huệ :

- Hăy lắng nghe và khéo ghi nhớ.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

- Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Đại Huệ :

- Nay ta thuyết năm pháp tự tánh thức, hai thứ Vô Ngă và phân biệt Trí tướng. NĂM PHÁP TỰ TÁNH là : Danh, Tướng, Vọng tưởng, Chánh trí, Như như. Nếu người tu hành tu theo pháp này th́ vào Tự Giác Thánh Trí của Như Lai, ĺa những kiến chấp đoạn thường hữu vô v.v..., hiện tiền trụ nơi chánh định, hiện thọ pháp lạc. Đại Huệ! Nếu chẳng biết năm thứ tự tánh thức, hai thứ Vô Ngă và ngoài tánh tự tâm hiện, là phàm phu vọng tưởng, chẳng phải Thánh Hiền.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

- Thế Tôn! Thế nào là sanh khởi vọng tưởng phàm phu, chẳng phải Thánh Hiền?

Phật bảo Đại Huệ :

- Phàm phu chấp trước danh tướng thế tục, tùy tâm lưu chuyển. Lúc lưu chuyển th́ hiện đủ thứ tướng mạo, đọa kiến chấp ngă và ngă sở, chấp trước hy vọng diệu sắc rồi thành vô tri, bị vô tri chướng ngại nên sanh nhiễm trước. Đă nhiễm trước th́ tham, sân, si sanh nghiệp tích tụ, đă tích tụ th́ sanh vọng tưởng tự trói, như con tằm nhả tơ làm kén tự trói vậy. Chúng sanh đọa biển sanh tử, dạo nơi đồng hoang lục đạo, như bánh xe xoay chuyển chẳng ngừng. V́ họ ngu si, chẳng biết từ tự tâm vọng tưởng sanh khởi các tướng sanh, trụ, diệt, như huyễn hóa, như bụi trần lăng xăng, như mặt trăng trong nước, chẳng do tự tại, thời tiết, vi trần, sự thắng diệu mà sanh.

- Nói DANH, là phàm phu ngu si tùy theo ḍng nước danh tướng sanh khởi tất cả vọng tưởng chẳng thật, đặt ra đủ thứ tên gọi, ấy gọi là Danh.

- Nói TƯỚNG, là do nhăn thức chiếu soi gọi là sắc; nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ư, ư thức phân biệt gọi là thanh, hương, vị, xúc, pháp. Ấy gọi là Tướng.

- Nói VỌNG TƯỞNG, là giả lập nhiều danh để hiển thị các tướng, do vọng tưởng suy nghĩ, vọng lập các tên gọi : Voi, ngựa, xe cộ, nam nữ v.v... gọi là Vọng Tưởng.

- Nói CHÁNH TRÍ, là t́m danh tướng bất khả đắc, cũng như khách đi đường chẳng có sở trụ. Các thứ phân biệt chẳng sanh, chẳng đoạn chẳng thường, chẳng đọa nơi tất cả ngoại đạo Thanh Văn Duyên Giác, ấy gọi là Chánh Trí.

- Lại nữa, Đại Huệ! Nói NHƯ NHƯ, là Đại Bồ Tát dùng chánh trí này chẳng lập danh tướng, cũng chẳng phải không lập danh tướng, ĺa bỏ kiến lập với phủ định, và nhị kiến đối đăi th́ danh tướng chẳng sanh, gọi là Như Như.

- Đại Huệ! Đại Bồ Tát trụ nơi Như Như rồi, đắc cảnh giới Vô Sở Hữu, chứng đắc Bồ Tát Hoan Hỷ Địa. Đắc Bồ Tát Hoan Hỷ Địa rồi, ĺa hẳn ác kiến cuả tất cả ngoại đạo, chánh thức trụ bậc xuất thế gian, pháp tướng thành thục, phân biệt tướng huyễn của tất cả pháp. Tự giác pháp tướng ĺa các vọng tưởng, thấy tánh của các tướng khác biệt, thứ lớp tiến lên Pháp Vân Địa. Giữa lúc đó sức Tam muội thần thông được mở mang khắp nơi, chứng đắc Như Lai Địa. Đắc Như Lai Địa rồi, viên chiếu hiển thị đủ thứ biến hóa để thành tựu cho chúng sanh mà chẳng trụ nơi chúng sanh, như bóng trăng trong nước, nên cứu cánh đầy đủ Thập Vô Tận Cú, v́ mỗi mỗi chúng sanh phân biệt thuyết pháp. Pháp thân ĺa ư sở tác này, gọi là "Bồ Tát Nhập Như Như Sở Đắc".

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng:

- Thế Tôn! Thế nào? Là ba thứ tự tánh gom vào năm pháp ư? Hay là mỗi mỗi có tự tướng ư?

Phật bảo Đại Huệ :

- Ba thứ tự tánh, tám thức và hai thứ vô ngă thảy đều gom vào năm pháp. Đại Huệ! Nói DANH và TƯỚNG là vọng tưởng tự tánh. Đại Huệ! Nếu dựa theo vọng tưởng sanh tâm, tâm pháp, gọi là đồng thời sanh, như ánh sáng mặt trời đồng thời chiếu soi mỗi mỗi tướng sai biệt. Do thức thứ sáu phân biệt, thức thứ bảy chấp tŕ duyên khởi lẫn nhau, gọi là Duyên Khởi Tự Tánh. Đại Huệ! Nói CHÁNH TRÍ NHƯ NHƯ là tánh chẳng thể hoại, gọi là THÀNH TỰ TÁNH.

- Lại nữa, Đại Huệ! Vọng tưởng tự tâm hiện tám thứ thức khác nhau, ấy là : Tạng thức (thức thứ tám), ư (thức thứ bảy), ư thức (thức thứ sáu), và Tiền Ngũ Thức (nhăn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân), nếu diệt hẳn tướng ngă, ngă sở, năng nhiếp sở nhiếp và tất cả vọng tưởng chẳng thật, th́ hai thứ Vô Ngă sanh khởi. Cho nên, Đại Huệ! Nói năm pháp này là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Như Lai, Tự Giác Thánh Trí, chư Địa thứ lớp tương tục, tất cả Phật Pháp thảy đều bao gồm trong đó.

- Lại nữa, Đại Huệ! Nay ta tóm tắt lại năm pháp Tướng, Danh, Vọng Tưởng, Như Như và Chánh trí. Nghĩa TƯỚNG là xứ sở, h́nh tướng, sắc tượng v.v... hiện ra tướng khác biệt, gọi là Tướng. Nghĩa DANH là theo tướng đặt tên, như b́nh tên là b́nh, y áo tên là y áo... chẳng phải cái khác, gọi là Danh. Nghĩa VO.NG TƯỞNG là giả lập nhiều tên để hiển thị các tướng, như phân biệt b́nh, y áo v.v... hiện trong tâm, tâm pháp, gọi là Vọng tưởng, Nghĩa NHƯ NHƯ là danh này tướng kia chẳng có tri giác, nơi các pháp cũng chẳng thể lần lượt sanh nhau, ĺa vọng tưởng chẳng thật, cuối cùng bất khả đắc, ấy gọi là Như Như. Nghĩa CHÁNH TRÍ là sự quyết định chơn thật, cứu cánh tự tánh bất khả đắc, chỉ là như như, Ta và chư Phật tùy thuận chỗ nhập của chúng sanh phổ biến thuyết pháp, giả lập phương tiện, hiển bày nghĩa như thật cho họ, khiến họ theo đó đi vào chánh giác, biết pháp phi đoạn phi thường, vọng tưởng chẳng khởi, tùy thuận Tự Giác Thánh Trí. Pháp tướng này tất cả ngoại đạo và Thanh Văn, Duyên Giác chẳng thể đắc, ấy gọi là Chánh Trí. Đại Huệ! Gọi chung là năm pháp. Thật ra, ba thứ tự tánh, tám thức và hai thứ Vô Ngă, tất cả Phật Pháp thảy đều gom vào trong năm pháp này. Cho nên Đại Huệ! Nên theo phương tiện tu học, cũng dạy người khác theo đúng chánh pháp này, chớ theo pháp khác.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:

Năm pháp ba tự tánh

Cùng với tám thứ thức

Và hai thứ Vô Ngă

Thảy nhiếp trong Đại Thừa

Tướng, Danh và Vọng tưởng

Thuộc về pháp thế gian

Như Như cùng Chánh Trí

Thuộc pháp xuất thế gian

Hai tánh chẳng thể hoại

Nên gọi THÀNH TỰ TÁNH.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng:

- Thế Tôn! Như Thế Tôn sở thuyết nghĩa cú, hằng sa chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai cũng thuyết như thế. Thế nào? Thế Tôn! Là tất cả như thuyết tín thọ ư? Hoặc c̣n có nghĩa khác ư? Cúi xin Như Lai rũ ḷng thương xót mà giải thích cho.

Phật bảo Đại Huệ:

- Chớ nói như thuyết tín thọ. Số lượng của tam thế Chư Phật chẳng phải như hằng sa. Tại sao? V́ siêu việt hy vọng của thế gian, dùng thí dụ chẳng thể thí dụ. V́ phàm phu ngoại đạo vọng tưởng chấp trước, nuôi dưỡng ác kiến, đọa nơi sanh tử vô cùng tận, v́ muốn khiến họ nhàm chán sanh tử luân hồi, siêng năng tinh tấn tu hành giải thoát, nên giả lập phương tiện nói với họ rằng "Chư Phật dễ thấy, chẳng như Ưu Đàm Bát Hoa khó gặp". Như lập ra Hóa Thành, chỉ là phương tiện để thỏa măn sự mong cầu của họ. Có khi quán theo căn cơ của người thọ giáo hóa, lại nói rằng :" Phật rất khó gặp như hoa Ưu Đàm. Thật ra hoa Ưu Đàm chẳng ai đă thấy, nay thấy và sẽ thấy, mà Như Lai th́ khắp thế gian thảy đều được thấy ". Chẳng v́ kiến lập Tự Thông mà nói Như Lai ra đời như hoa Ưu Đàm. Đại Huệ! Kiến lập tự thông, siêu việt hy vọng của thế gian, phàm phu chẳng thể tin nổi, cảnh giới Tự Giác Thánh Trí chẳng có ǵ để thí dụ, v́ Chơn Thật Như Lai siêu việt tướng sở thấy biết của tâm, ư, ư thức, nên chẳng thể thí dụ. Đại Huệ! Nhưng ta nói thí dụ "Phật như hằng sa" chẳng có lỗi lầm.

- Đại Huệ! Ví như cát sông hằng, mặc cho tất cả con cá, con ba ba, cho đến sư tử, voi, ngựa, người, thú dẫm đạp, cát ấy cũng chẳng nghĩ rằng họ nhiễu loạn Ta mà sanh vọng tưởng. Cũng thế, Tự Giác Thánh Trí dụ là sông Hằng, sức thần thông tự tại dụ là cát, tất cả ngoại đạo và người, thú v.v... dụ cho kẻ nhiễu loạn, Như Lai chẳng do đó mà khởi niệm sanh vọng tưởng. V́ Như Lai tịch diệt chẳng có niệm tưởng, do bản nguyện của Như Lai dùng Tam muội khiến chúng sanh đoạn dứt tham sân, được sự an lạc, chẳng có sự nhiễu loạn rong đó. Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác tự tánh trong sạch chẳng có cáu bẩn, cũng như cát sông Hằng, chẳng có sai biệt vậy.

- Ví như cát sông Hằng là tự tánh của địa, khi hỏa kiếp đến thiêu hết tất cả địa đại mà địa đại chẳng xả tự tánh. V́ địa đại với hỏa đại cùng sanh nơi tứ đại, nhưng phàm phu vọng tưởng cho là địa đại bị thiêu, mà thật th́ chẳng bị thiêu, v́ hỏa với địa đồng một nhân trong tứ đại vậy. Như thế, Đại Huệ! Như Hằng sa chẳng hoại, v́ cùng Như Lai ở trong một pháp thân vậy. (V́ Pháp thân Như Lai cùng khắp hư không).

- Đại Huệ! Ví như cát sông Hằng chẳng có hạn lượng, ánh sáng Như Lai cũng như thế, chẳng có hạn lượng, v́ thành tựu cho chúng sanh nên phổ chiếu tất cả đại chúng trong cơi Phật. Đại Huệ! Ví như cát sông Hằng, ngoài cát muốn cầu cát khác trọn bất khả đắc. Như thế, Đại Huệ! Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác chẳng có sanh tử sanh diệt, v́ đă đoạn dứt nhân duyên sanh diệt vậy.

- Đại Huệ! Ví như cát sông Hằng thêm bớt đều chẳng thể biết. Như thế, Đại Huệ! Trí huệ của Như Lai thành tựu cho chúng sanh chẳng thêm chẳng bớt, v́ chẳng phải sắc thân. Sắc thân th́ có hoại, mà Pháp thân của Như Lai chẳng phải sắc thân nên chẳng thể hoại. Như ép cát sông Hằng chẳng thể được dầu. Cũng thế, Như Lai độ tất cả khổ năo chúng sanh, do Tam muội bản nguyện khởi tâm đại bi, chẳng xả pháp giới, dù chúng sanh chưa chứng Niết Bàn bức bách Như Lai đến mức nào cũng chẳng nổi sân hận.

- Đại Huệ! Ví như cát sông Hằng trôi theo ḍng nước, cát chẳng thể không có nước mà tự trôi được. Các pháp của Như Lai thuyết trôi theo ḍng nước Niết Bàn cũng như thế, pháp chẳng thể ĺa Niết Bàn mà tự ra, cũng như cát chẳng thể ĺa nước mà tự trôi. Niết Bàn là bản tế của sanh tử, là tướng tịch diệt nên chẳng thể biết. Biết c̣n chẳng được, làm sao nói nghĩa đoạn dứt ư?

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

- Thế Tôn! Nếu bản tế của sanh tử chẳng thể biết th́ tại sao giải thoát của chúng sanh có thể biết?

Phật bảo Đại Huệ :

- Nếu cái nhân của vọng tưởng tập khí hư ngụy từ vô thỉ diệt th́ biết được ngoài nghĩa tự tâm hiện, thân vọng tưởng chuyển thành giải thoát, giải thoát bất diệt tức là Tịch Diệt, tịch diệt chẳng có ngằn mé cho nên vô biên, chẳng phải vô sở hữu, như vọng tưởng ngoại đạo lại cho là có nhiều tên gọi khác biệt vô lượng vô biên v.v... Theo bậc trí quán sát nội tâm ngoại cảnh, ĺa nơi vọng tưởng th́ chúng sanh chẳng có khác biệt, trí và nhĩ diệm, tất cả các pháp thảy đều tịch tịnh, v́ chẳng biết vọng tưởng do tự tâm hiện, nên có vọng tưởng sanh khởi, hể biết được th́ tất cả tịch diệt, gọi là giải thoát.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:

Quán sát chư Đạo sư,

Cũng như cát sông Hằng.

Chẳng hoại chẳng khứ lai,

Cũng chẳng có cứu cánh.

Ấy tức là b́nh đẳng,

Quán sát chư Như Lai.

Cũng như cát sông Hằng,

Thảy ĺa tất cả lỗi.

Tùy lưu mà tánh thường,

Ấy là chánh giác Phật.

Khi ấy Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng :

- Thế Tôn! Cúi xin v́ đại chúng thuyết tướng sát na hoại của tất cả các pháp. Thế Tôn! Thế nào là tướng SÁT NA của tất cả các pháp?

Phật bảo Đại Huệ :

Hăy chú ư nghe và khéo ghi nhớ, Ta sẽ v́ ngươi mà thuyết.

- Đại Huệ! Nói TẤT CẢ PHÁP là những pháp thiện, bất thiện, vô kư, hữu vi vô vi, thế gian, xuất thế gian, có tội, vô tội, hữu lậu vô lậu, thọ bất thọ v.v... Đại Huệ! Lược thuyết tâm, ư, ư thức và tập khí, là nhân của năm thứ thọ ấm, cũng là tập khí của tâm, ư, ư thức nuôi dưỡng phàm phu sanh vọng tưởng thiện và bất thiện.

- Đại Huệ! Người tu Tam muội, Tam muội chánh thọ, hiện pháp lạc trụ, gọi là Thánh Hiền, thuộc về pháp thiện vô lậu. Đại Huệ! Nói THIỆN, BẤT THIỆN có tám thứ thức. Thế nào là tám? Ấy là Như Lai Tạng, gọi là thức tạng, tâm, ư, ư thức và Tiền Ngũ Thức, chẳng phải như ngoại đạo sở thuyết.

- Đại Huệ! Tiền ngũ thức và tâm, ư, ư thức đều hay phân biệt cảnh trần, tướng thiện hay bất thiện; hễ tâm động th́ duyên khởi, duyên hội th́ tâm sanh, lần lượt chuyển biến, Tiền Ngũ Thức chuyển biến theo thức thứ sáu th́ có phân biệt thiện ác, chuyển biến theo thức thứ bảy th́ có tánh chấp trước, chuyển biến theo thức thứ tám th́ có chủng tử. Bảy thức trước tương tục th́ có hoại, thức thứ tám lưu chú th́ chẳng hoại. Nhưng thức thứ tám cùng bảy thức kia thể chẳng có khác, nên bảy thức kia sanh diệt th́ thức thứ tám cũng phải theo đó hoặc sanh hoặc diệt. V́ chẳng biết cảnh trần do tự tâm hiện, vốn chưa từng sanh diệt mà chúng sanh thấy cảnh giới hư vọng, sanh tưởng chấp lấy, nên theo thứ lớp diệt rồi sanh, sanh rồi diệt, thấy h́nh tướng sai biệt là do ư thức nhiếp thọ, cùng Tiền Ngũ Thức tương ưng, sanh thời gian sát na chẳng trụ, gọi là Sát Na.

- Đại Huệ! Nói SÁT NA là Tạng Thức trong Như Lai Tạng, đồng sanh tập khí ư thức sát na, tập khí vô lậu th́ chẳng phải sát na, sát na này chẳng phải phàm phu có thể biết. Ngoại đạo chấp trước sát na luận, chẳng biết tất cả pháp sát na là phi sát na, chấp đoạn kiến phá hoại pháp Vô Vi. Đại Huệ! Nhị Thừa đă dứt phiền năo chướng nên thức thứ bảy chẳng lưu chuyển, chẳng thọ khổ vui mà chẳng phải cái nhân của Niết Bàn. Đại Huệ! Nói Như Lai Tạng là có thọ sự khổ vui, cùng với nhân kia hoặc sanh hoặc diệt, ngoại đạo say đắm rượu của Tứ Trụ Địa Vô Minh (1), phàm phu chẳng biết là do vọng tưởng huân tập nơi tâm, nên thấy có sát na.

(1) TỨ TRỤ ĐỊA VÔ MINH : Dục ái, sắc ái, hữu ái và kiến ái vô minh.

- Lại nữa, Đại Huệ! Như vàng ṛng, kim cương, Xá lợi của Phật có tánh đặc biệt, trọn chẳng thể hoại. Đại Huệ! Người chứng Tự Giác Thánh Trí, đắc chánh pháp Vô Gián chẳng có tướng sát na sanh diệt. Nếu có sát na th́ bậc Thánh chẳng phải Thánh, mà bậc Thánh luôn luôn là Thánh, như vàng ṛng kim cương, dù trải qua vô số kiếp mà chất lượng chẳng giảm. Bởi phàm phu chẳng khéo hiểu pháp thuyết vi diệu ẩn mật của Ta, đối với tất cả pháp trong và ngoài tưởng có sát na sanh diệt.

Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng :

- Thế Tôn! Như Thế Tôn nói "Sáu Ba La Mật đầy đủ th́ được thành Chánh Giác". Thế nào là sáu?

Phật bảo Đại Huệ :

- Ba La Mật chia làm ba loại là : Thế gian, xuất thế gian và siêu việt xuất thế gian. Đại Huệ! Nói THẾ GIAN BA LA MậT là chấp trước ngă và ngă sở, nhiếp thọ nhị biên, là chỗ đủ thứ thọ sanh, ham sắc, thanh, hương, vị, xúc, đầy đủ Bố Thí Ba La Mật và tŕ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ cũng như thế. Phàm phu do đó đắc thần thông và sanh cơi Trời Phạm Thiên.

- Đại Huệ! Nói XUấT THế GIAN BA LA MậT, là v́ Thanh Văn, Duyên Giác đọa nơi nhiếp thọ Niết Bàn, dù hành sáu Ba La Mật mà ham trụ sự vui nơi Niết Bàn của chính ḿnh.

- Nói SIÊU VIệT XUấT THế GIAN BA LA MậT, là giác được vọng tưởng nhiếp thọ nơi tự tâm hiện và biết tự tâm bất nhị, nên chẳng sanh vọng tưởng, đối với sự nhiếp thọ của các loài đều chẳng có phần. Chẳng chấp trước sắc tướng của tự tâm, nhưng v́ khiến tất cả chúng sanh được an lạc mà tùy duyên giáo hóa, gọi là Bố Thí Ba La Mật. Tạo phương tiện khéo léo, tùy duyên giữ giới th́ vọng tưởng chẳng sanh, là Tŕ Giới Ba La mật. Ngay nơi bị nhục mà vọng tưởng chẳng sanh, biết năng nhiếp sở nhiếp đều chẳng thật, là Nhẫn Nhục Ba La Mật. Ngày đêm tinh tấn, siêng năng tu hành, tùy thuận phương tiện mà vọng tưởng chẳng sanh, là Tinh Tấn Ba la Mật. Vọng tưởng dứt sạch, chẳng trụ Niết Bàn của Thanh Văn, là Thiền Định Ba la Mật. Trí huệ quán sát tự tâm vọng tưởng phi tánh, chẳng đọa kiến chấp nhị biên, chuyển thân này thù thắng hơn trước mà chẳng đoạn dứt, đắc Tự Giác Thánh Trí, là Bát Nhă Ba la Mật.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

Tánh KHÔNG chẳng sát na,

Phàm phu vọng chấp có.

Như ḍng sông, tim đèn,

Và chủng tử nẩy mầm.

Dời đổi rất nhanh chóng,

Đều do hành ấm chuyển.

Nghĩa sát na Ta thuyết,

Tịch tịnh ĺa sở tác.

Sát na dứt phiền năo,

Tất cả pháp chẳng sanh.

Có sanh th́ có diệt,

Chẳng có kẻ ngu thuyết.

Tánh tương tục chẳng dừng,

Do vọng tưởng huân tập.

Bởi vô minh làm nhân,

Vọng tâm từ đó sanh.

Khi sắc tướng chưa sanh,

Có ǵ để phân biệt?

Thấy sanh diệt tương tục,

Theo đó chấp tâm khởi.

Nếu chẳng trụ nơi Sắc,

Theo duyên ǵ để sanh?

Sanh từ vật khác sanh,

Th́ nhân sanh chẳng thật.

Chẳng thật th́ chẳng thành,

Sao có sát na hoại?

Người tu hành chánh định,

Như kim cương, xá lợi.

Việc đời c̣n chẳng hoại,

Huống là đắc chánh pháp!

Như Lai cụ túc trí,

Cùng Tỳ Kheo b́nh đẳng.

Sao c̣n thấy sát na?

Tất cả cảnh huyễn hóa,

Sắc tướng chẳng sát na,

Nơi sắc tướng chẳng thật,

Xem cho là chơn thật.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng :

- Bạch Thế Tôn! Tại sao Thế Tôn thọ kư A La Hán sẽ thành Vô Thượng Cháng Đẳng Chánh Giác, bằng với các Bồ Tát chẳng có sai biệt? Nếu Phật v́ độ tất cả chúng sanh mà chẳng nhập Niết Bàn th́ ai đến Phật đạo? Tại sao nói "Từ lúc mới thành Phật cho đến nhập Niết Bàn, ở nơi khoảng giữa chẳng thuyết một chữ chẳng đáp một chữ?" Nói "Như Lai thường Định" th́ chẳng có niệm lự quán sát, tức là vô ngôn vô thuyết th́ chẳng thể giáo hóa, sao lại nói Hóa Phật để làm Phật sự? Tại sao nói các thức sát na chẳng trụ mà có tướng lần lượt biến hoại? Nói "Như Lai thường định" tại sao lại cần có Kim Cang Lực sĩ thường theo hộ vệ? Bản tế tịch diệt th́ xa ĺa phiền năo, tại sao c̣n hiện đủ thứ quả báo ma nghiệp ác nghiệp như ngoại đạo Chiên Giá Ma Nạp giả có thai và Tôn Đà Lợi giết con gái để báng Phật, khất thực th́ chẳng ai bố thí, bát không mà trở về v.v... ? Như Lai đă đắc Nhất Thiết Chủng Trí, sao chẳng ĺa được những lỗi này?

Phật bảo Đại Huệ :

- Hăy chú ư nghe và khéo ghi nhớ, Ta sẽ v́ ngươi mà thuyết.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

- Lành thay, Thế Tôn! Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Đại Huệ :

- Ta thuyết Vô Dư Niết Bàn để khuyến dụ phàm phu tiến đến bậc Bồ Tát, cũng khuyên các bậc tu hạnh Bồ Tát trong cơi này cơi kia, và những người ham Niết Bàn của Thanh Văn thừa, khiến ĺa Thanh Văn thừa tiến lên Đại thừa, nên Hóa Phật thọ kư cho hàng Thanh Văn, chứ chẳng phải Pháp Phật thọ kư. Do đó, sự thọ kư Thanh Văn với thọ kư Bồ Tát chẳng khác. Đại Huệ! Nói "chẳng khác" là Nhị thừa, chư Phật Như Lai đoạn dứt phiền năo chướng, cùng là một mùi vị giải thoát, chẳng phải nói đoạn dứt trí chướng. Đại Huệ! Nói "Trí chướng" là thấy pháp Vô Ngă, thù thắng thanh tịnh; nói "phiền năo chướng" là do trước kia tu tập thấy nhơn Vô Ngă. Nghĩa là : Dứt phiền năo chướng th́ chuyển được thức thứ bảy diệt, ư thức chẳng hành; nếu pháp chướng giải thoát th́ chuyển được sự huân tập trong Tạng thức diệt, cứu cánh thanh tịnh, v́ pháp bản trụ nên trước sau đều phi tánh.

- V́ bản nguyện vô tận nên Như Lai Vô niệm lự, Vô quán sát mà thuyết pháp, dùng chánh trí giáo hóa th́ niệm chẳng vọng, nên Vô niệm lự, Vô quán sát. V́ tập khí của bốn trụ địa và Vô Minh Trụ Địa dứt th́ hai thứ phiền năo dứt, ĺa hai thứ sanh tử, giác được nhơn và pháp Vô Ngă đồng thời cũng doạn dứt hai chướng.

- Đại Huệ! V́ ĺa cái nhân sát na tập khí của bảy thứ thức trước, là pháp thiện vô lậu th́ chẳng c̣n luân hồi. Đại Huệ! Nói "Như Lai Tạng", là phàm phu ngoại đạo chấp nơi Không, do chấp Không mà nhiễu loạn ư thức, dù đắc Không Huệ nhưng chẳng biết Không là vô tri, vô tri th́ chẳng có huệ, theo cái nhân khổ vui lưu chuyển. Nếu giác được Không mà chẳng Không, ấy là cái nghĩa sát na chơn thật của Như Lai Tạng. Phàm phu ngoại đạo chẳng thể giác được, lại cho là Niết Bàn.

- Đại Huệ! Nói KIM CANG LựC SĨ THƯỜNG THEO Hộ Vệ, ấy là Hóa Phật thôi, chẳng phải Chơn Như Lai. Đại Huệ! Nói CHƠN NHƯ LAI là ĺa tất cả căn lượng, nghĩa là tất cả căn lượng của phàm phu, Nhị thừa và ngoại đạo thảy đều diệt hết, chứng đắc Hiện Pháp Trụ Lạc, Vô Gián Pháp Trí Nhẫn, chẳng phải Kim Cang Lực Sĩ sở hộ vệ. Tất cả Hóa Phật chẳng từ nghiệp sanh, nhưng Hóa Phật chẳng phải Phật mà chẳng ĺa Phật, như thợ gốm làm ra các đồ gốm, đồ gốm chẳng phải đất nhưng chẳng ĺa đất, theo tướng sở tác của chúng sanh mà thuyết pháp, chẳng phải chỗ Tự Thông mà thuyết cảnh giới tự giác.

- Lại nữa, Đại Huệ! Phàm phu dựa theo thức thứ bảy chuyển diệt mà sanh khởi đoạn kiến, do chẳng giác được Tạng thức mà sanh khởi thường kiến, tất cả đều do tự tâm vọng tưởng chẳng biết bản tế. Nếu tự tâm vọng tưởng diệt th́ được giải thoát, giải thoát th́ tất cả lỗi tập khí của bốn Trụ Địa và Vô Minh Trụ Địa thảy đều đoạn dứt.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

Tam Thừa cũng phi thừa,

Như Lai chẳng nhập diệt.

Tất cả Phật sở kư,

Ĺa các lỗi nhiễm tịnh.

V́ khuyến dụ hạ căn,

Nên thuyết pháp ẩn lấp.

V́ bật Vô Gián Trí,

Thuyết Vô Dư Niết Bàn.

Chư Phật giả lập trí,

Tùy cơ phân biệt thuyết.

Nếu chư thừa phi thừa,

Th́ chẳng có Niết Bàn.

Dục, sắc, hữu, kiến ái,

Gọi là bốn Trụ Địa.

Do ư thức sanh khởi,

Chủng tử trụ tạng thức.

Căn, trần, sáu thứ thức,

Đoạn diệt nói vô thường.

Hoặc thấy có Niết Bàn,

Lại cho là thường trụ.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát dùng kệ nói rằng :

Các bậc Bồ Tát kia,

Lập chí cầu Phật Đạo.

Rượu thịt và ngũ tân,

Ăn uống như thế nào?

Cúi xin Phật thương xót,

V́ đại chúng giải thích.

Do phàm phu tham dục,

Ham ăn đồ hôi thúi.

Sở thích như cọp sói,

Đồ ǵ mới nên ăn?

Ăn thứ nào có lỗi?

Cúi xin v́ con nói.

Người ăn hoặc không ăn,

Có những tội phước ǵ?

Đại Huệ Bồ Tát thuyết kệ xong, lại bạch Phật rằng :

- Cúi xin Thế Tôn v́ chúng con nói công đức và tội lỗi của người ăn thịt và không ăn thịt. Con và các Bồ Tát nơi hiện tại vị lai sẽ v́ những chúng sanh ham thích ăn thịt phân biệt thuyết pháp, khiến họ hướng về từ tâm. Đắc Từ Tâm rồi, đối với các Trụ Địa phiền năo, thanh tịnh thấu hiểu, chóng đắc Cứu Cánh Vô Thượng Bồ Đề. Thanh Văn, Duyên Giác nơi Địa tự chứng ngưng nghĩ đă rồi, cũng được tiến lên mau thành Vô Thượng Bồ Đề. Bọn ngoại đạo tác ác lập luận, chấp kiến đoạn thường, điên đảo so đo, c̣n có Pháp Giá ( như Giá Giới của Phật ) không cho ăn thịt, huống là Như Lai thành tựu chánh pháp, cứu hộ thế gian mà ăn thịt ư?

Phật bảo Đại Huệ :

- Lành thay, lành thay! Hăy chú ư nghe và khéo ghi nhớ, Ta sẽ v́ ngươi mà thuyết.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

- Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Đại Huệ :

- Có vô lượng nhân duyên chẳng nên ăn thịt, nay Ta sẽ v́ ngươi sơ lược giải thích. Tất cả chúng sanh từ xưa đến nay, lần lượt theo nhân duyên làm lục thân quyến thuộc với nhau, suy nghĩ thịt này là người thân kiếp trước của ḿnh, do đó không nên ăn thịt.

- Thịt lừa, la, lạc đà, chồn, chó, trâu, ngựa, người, thú v.v... v́ nhiều hàng thịt bán lẫn lộn, do đó không nên ăn thịt.

- Như thợ săn, đồ tể, cầm thú ngửi mùi họ liền sanh kinh sợ, chó thấy oán ghét sủa vang, do đó không nên ăn thịt.

- V́ khiến người tu hành chẳng sanh khởi từ tâm, do đó không nên ăn thịt. Phàm phu ham thích hôi thúi bất tịnh, có tiếng tăm xấu xa, do đó không nên ăn thịt. V́ khiến người tŕ chú chẳng thành tựu, do đó không nên ăn thịt.

- V́ người sát sanh thấy h́nh súc sinh khởi thức phân biệt, ham đắm mùi vị, do đó không nên ăn thịt. Kẻ ăn thịt bị chư Thiên chê bỏ, do đó không nên ăn thịt. V́ khiến miệng hôi hám, do đó không nên ăn thịt. V́ khiến người có nhiều ác mộng, do đó không nên ăn thịt.

- V́ đến chỗ rừng hoang vắng lặng, cọp sói ngửi được mùi hương gây sự nguy hiểm, do đó không nên ăn thịt. V́ làm cho ăn uống thất thường, do đó không nên ăn thịt. V́ khiến người tu hành chẳng sanh chán ĺa, do đó không nên ăn thịt. Ta thường nói rằng : Khi muốn ăn uống, nên nghĩ đây là thịt của con ḿnh hoặc nghĩ là thuốc độc, do đó không nên ăn thịt. Cho Phật tử ăn thịt là không có chỗ đúng.

- Lại nữa, Đại Huệ! Xưa kia có vua tên Sư Tử Đô Đà Ta, ăn đủ thứ thịt, dần dần cho đến ăn thịt người, dân chúng chịu không nổi, tụ tập mưu phản, vua liền bị lật đổ, người ăn thịt có lỗi như thế, do đó không nên ăn thịt.

- Lại nữa, Đại Huệ! Những người sát sanh v́ ham tài lợi mà sát sanh buôn bán cá thịt, bọn ngu si ăn thịt chúng sanh, dùng tiền làm lưới mà bắt lấy các thứ thịt. Người sát sanh ăn thịt, hoặc dùng tài vật, hoặc dùng câu lưới bắt lấy những chúng sanh bay trên trời, lội dưới nước và đi trên bờ, đủ thứ giết hại, mua bán cầu lợi, gieo nhân chịu quả, sẽ thọ ác báo. Đại Huệ! Ta dạy Phật tử nên dùng Pháp thực, không dạy ăn thịt, cho đến không mong cầu, không nghĩ tưởng đến những cá thịt, do nghĩa này không nên ăn thịt.

- Đại Huệ! Ta có khi phương tiện nói Giá Pháp, cho ăn năm thứ tịnh nhục (1) hoặc là mười thứ, nay ở Kinh này xóa bỏ tất cả phương tiện, bất cứ lúc nào, chủng loại nào, phàm thuộc loài thịt chúng sanh, thảy đều đoạn đứt. Đại Huệ! Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác c̣n chẳng ăn phi thời và tạp thực, huống là ăn cá thịt ư? Tự không ăn cũng chẳng bảo người khác ăn. Dùng tâm Đại bi dẫn đầu, xem tất cả chúng sanh như con một của ḿnh, do đó chẳng ăn thịt con.

(1) 5 THỨ TỊNH NHỤC : Tự chết, chẳng nghe, chẳng thấy, chẳng v́ ḿnh giết, cầm thú ăn dư.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

Tất cả thịt chúng sanh,

Xưa kia là quyến thuộc.

Hoặc hôi thúi hỗn tạp,

Sanh trưởng nơi bất tịnh.

Hoặc ngửi mùi kinh sợ,

Uống rượu với giết hại,

Và ngũ tân vân vân,

Tu hành nên xa ĺa.

Rượu thịt sanh buông lung,

Buông lung sanh mê đắm.

Mê đắm sanh tham dục,

Do đó không nên ăn.

Do ăn sanh tham dục,

Tham dục khiến tâm mê.

Say mê nuôi ái dục,

Sanh tử chẳng giải thoát.

V́ lợi giết chúng sanh,

Dùng tài bắt cá thịt.

Hai thứ gây ác nghiệp,

Chết đọa ngục Kêu La.

Ta thường dạy Phật tử,

Nên dùng những pháp thực.

Chẳng dạy ăn chúng sanh,

Chẳng vô nhân tự có.

Ăn thịt gây thù oán,

Do đó không nên ăn.

Giết hại, ăn chúng sanh,

Người tu nên xa ĺa.

Mười phương chư Như Lai,

Đều quở trách việc này.

Nếu người tin nhân quả,

Chớ ăn nuốt lẫn nhau.

Chết đọa loài cọp sói,

Thọ sanh thường ngu si.

Đồ tể và thợ săn,

Khiến cầm thú kinh sợ.

Ắt phải chịu ác quả,

Có tánh ham ăn thịt,

Phải đọa loài súc sinh,

Cũng như mèo chồn kia.

Trong các Kinh Đại Thừa,

Như Phược Tượng, Đại Vân.

Cho đến Kinh Niết Bàn,

Và Kinh Lăng Già nàî

Ta đều khuyến người tu,

Nên đoạn dứt ăn thịt.

Bồ Tát và Thanh Văn,

Chư Phật đều quở trách.

Người giết hại ăn thịt,

Ăn thịt chẳng hổ thẹn.

Đời đời thường ngu dốt,

Trước nói kiến văn nghi.

Đă dứt tất cả thịt,

Người vọng tưởng chẳng biết.

Thọ sanh loài ăn thịt,

Do lỗi họ tham dục.

Chướng ngại sự giải thoát.

Rượu thịt và ngũ tân,

Thảy đều chướng Thánh đạo.

Chúng sanh đời vị lai,

Ngu si mới ăn thịt.

Hoặc có người chấp trước,

Ăn tịnh nhục vô tội,

V́ Phật đă cho ăn.

Họ lại quên lời Phật,

Ghi trong nhiều kinh điển.

Có lời nói như thế :

Ăn thịt như ăn con.

Cũng như uống thuốc độc.

Khiến người tu chán ĺa.

Thường theo hạnh khất thực,

An trụ nơi từ tâm.

Những ác thú cọp sói,

Có thể cùng dạo chơi.

Nếu ăn loài máu thịt,

Chúng sanh đều kinh sợ.

Cho nên người tu hành,

Từ tâm chẳng ăn thịt.

Ăn thịt mất trí huệ,

Trái hẳn chánh giải thoát.

Nghịch tướng mạo bậc Thánh,

Do đó không nên ăn.

"Được sanh ḍng Phạm Chí,

Và các chỗ tu hành,

Nhà giàu sang trí huệ,

Đều do chẳng ăn thịt".

Là lời ta thường thuyết.

KINH LĂNG GIA A BẠT ĐA LA BỬU KINH HẾT


QUYỂN MỘT     QUYỂN HAI     QUYỂN BA     QUYỂN BỐN


-

TRANG CHỦ*--KINH ĐIỂN*--ĐẠI TẠNG KINH*--THẦN CHÚ*--HÌNH ẢNH*--中文*--ENGLISH

Uploaded / Updated on 2021-06-10

 

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0