Trang Mục Lục      Trang Chủ      Hình ảnh      Kinh điển      Thần Chú      Liên lạc
 
PHÁP HỘI HƯ KHÔNG TẠNG BỒ TÁT
THỨ NĂM MƯƠI LĂM
(Hán bộ từ quyển 137 Đến quyển 141)
Hán dịch: Tam tạng Đàm Vô Sấm
Việt dịch: Tỳ kheo Thích Trí Tịnh.

Như vậy tôi nghe một lúc Đức Phật ở trên nhà Diệu Bửu Trang Nghiêm giảng đường chỗ sở hành của Như Lai.

Như Lai oai thần Đại công Đức trang nghiêm đầy đủ các tướng tốt. Nhơn nơi bổn hành Phật Địa được báo cung điện Bồ Tát xưng tán vô lượng, do thần lực Như Lai kiến lập, nhập vô ngại trí hành xứ sanh hỷ duyệt thù thắng, tư duy quán niệm tinh tiến trí huệ phân biệt xảo thuyết các công đức như vậy đều đầy đủ. Được đời sau khen rằng: Đức Thế Tôn Chánh giác khéo chuyển pháp luân, khéo có thể điều thuận tất cả chúng sanh, ở trong các pháp đều được tự tại, biết các chúng sanh tâm họ hướng đến chỗ nào, khéo có thể rốt ráo phân biệt tất cả các căn, khéo dứt hết những tập khí không c̣n dư, Phật sự được làm tự nhiên thành tựu. Cùng chúng Đại Tỳ Kheo sáu trăm vạn người câu hội. Chư đại Tỳ Kheo ấy tâm đă điều nhu kiết sử đă dứt, đều là con của Như Lai Pháp Vương hành pháp thậm thâm, khéo có thể biết rơ pháp vô sở hữu, thân các Ngài đoan chánh xinh đẹp đầy đủ oai nghi, đều là đại phước điền an trụ trong giáo pháp của Đức Như Lai.

C̣n có chư đại Bồ Tát Tăng câu hội. Chư đại Bồ Tát nầy đă qua khỏi tất cả các hành mà chẳng bỏ sở hành của Bồ Tát, được vô sanh nhẫn mà đối với các chúng sanh chẳng xả đại bi, quá các thế gian mà thuận thế pháp siêng hoá độ chúng sanh, cũng có thể khéo nhập vào chỗ sở hành của Như Lai, mà lại chẳng rời chỗ sở hành của Bồ Tát. Danh hiệu các Ngài là: Nhựt Phổ Minh Bồ Tát, Vô Ngại Nhăn Bồ Tát, Nhứt Thiết Pháp Tự Tại Vương Bồ Tát, Vô Ngại Hành Xứ Bồ Tát, Phân Biệt Biện Giác Bồ Tát, Tịnh Vô Lượng Vơng Minh Đăng Vương Bồ Tát, Bất Nhiễm Hành Xứ Bồ Tát, Hoại Ma Giới Phóng Quang Minh Bồ Tát, có bất khả kế a tăng kỳ bất khả tư bất khả xưng bất khả lượng vô tề hạn bất khả thuyết Bồ Tát Ma ha tát như vậy câu hội.

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn nói hạnh xuất yếu của chư Bồ Tát gọi là vô ngại pháp môn, trang nghiêm Bồ Tát đạo thành tựu Phật pháp thập lực tứ vô sở úy, được biết các pháp tự tại nhập vào môn ấn đà la ni, nhập vào môn phân biệt biện luận, nhập vào môn đại thần thông, nhập vào môn bất thối chuyển luân chư thừa b́nh đẳng, nhập vào môn nhứt tướng pháp giới vô phân biệt, nhập vào môn thuyết pháp tùy chúng sanh căn giải liễu sai biệt, nhập vào môn kiên pháp phân biệt phá ma giới thiện thuận tư duy, nhập vào môn vô ngại trí huệ đoạn trừ kiết sử kiến chấp, nhập vào môn vô đẳng nguyện phương tiện trí, nhập vào môn chư Phật đẳng trí, nhập vào môn chư pháp vô ngại như thiệt phân biệt, nhập vào môn vô biến dị h́nh đẳng pháp, nhập vào môn thậm thâm thập nhị nhân duyên, nhập vào môn công đức trí huệ trang nghiêm Phật thân khẩu ư, nhập vào môn kiên cố tư duy tinh tiến niệm huệ vô tận, nhập vào môn tứ thánh đế v́ điều phục hàng Thanh Văn vậy, nhập vào môn viễn ly thân tâm hành v́ điều phục hàng Bích Chi Phật vậy, nhập vào môn thọ kư Nhứt thiết trí, v́ điều phục hàng Bồ Tát vậy, nhập vào môn chư pháp tự tại v́ hiển Phật công đức vậy, khai thị giải nói hiển thị cho người được điều phục khiến họ được hiểu, dạy họ đọc sắp đặt thứ tự mở bày phân biệt khiến dễ tùy thuận chánh thuyết.

Lúc Đức Thế Tôn khéo phân biệt phương tiện nhập vào Phật pháp như vậy, toàn cơi Đại Thiên thế giới nầy, tất cả sắc màu h́nh tượng như núi Thiết Vi, núi Đại Thiết Vi, núi Tu Di, các hắc sơn, tứ thiên hạ, thành ấp tụ lạc trong Diêm Phù Dề, đại hải giang hà, cỏ cây lùm rừng, cung điện của Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, cung điện của Địa thần, của Hư Không Thần, cung điện của Trời Tứ Thiên Vương, Đao Lợi Thiên, Dạ Ma Thiên, Đâu Suất Đà Thiên, Hóa Lạc Thiên, Tha Hóa Tự Tại Thiên, cung điện của Phạm Thiên đến Sắc Cứu Cánh Thiên, cùng sắc thân của các chúng sanh thảy đều bị che ẩn mắt không thấy được, dường như là lúc kiếp tận sau khi hỏa tai khởi cả đại địa đều cháy tan mà đại thủy chưa xuất hiện, lúc bây giờ không c̣n có một màu sắc một h́nh tượng nào làm đối tượng cho nhăn căn cả. Cơi Đại Thiên Thế Giới lúc bây giờ cũng giống như vậy không có một chút h́nh sắc nhiếp về Dục giới và Sắc giới, duy trừ những sắc tượng được thấy trong nhà Diệu Bửu Trang Nghiêm Đường.

Bấy giờ ở hư không nơi chẳng có y tựa phía trên nhà Diệu Bửu Trang Nghiêm Dường, tự nhiên có vô lượng trăm ngàn na do tha bửu đài trang nghiêm vi diệu được thế gian thích thấy, như thế giới Đại Diệu trang nghiêm quốc độ của Đức Phật Nhứt Bửu Trang Nghiêm đài báu của chư Bồ Tát ngồi. Các đài báu nầy cũng như vậy thấy chư đại chúng ngồi trong bửu đài.

Trong nhà Diệu Bửu Trang Nghiêm Đường tự nhiên hiện ra ṭa sư tử bằng chơn kim tịnh diệu cao mười ngàn do tuần, phát ra quang minh tịnh diệu soi khắp cơi Đại Thiên thế giới nầy, ánh sáng ấy làm luốt mất ánh sáng của chư Bồ Tát.

Lúc bây giờ đại chúng hoan hỷ hớn hở tâm t́nh vui đẹp khen chưa từng có, chắp tay hướng Phật bạch rằng: "Đức Như Lai ngày hôm nay quyết định nói đại pháp nên hiện thoại ứng nầy".

Tôn giả Xá Lợi Phất thừa oai thần của Phật, từ bửu ṭa đứng dậy chỉnh lại y phục trịch bày vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay hướng lên Phật mà bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Đây là thoại tướng ǵ có những sự sanh ḷng vui đẹp thù thắng phát hiện đại thần biến như vậy. Bạch Đức Thế Tôn! Đại chúng đây đều nghi hoặc, mong Đức Như Lai nói nhơn ǵ duyên ǵ mà hiện ra sự vị tằng hữu nầy"

Đức Phật nói: "Nầy Xá Lợi Phất! Phương Đông cách đây quá số thế giới như số vi trần của tám Phật thế giới, có quốc độ tên Đại Trang Nghiêm, Phật hiệu Nhứt Bửu Trang Nghiêm Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu,Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn nay hiện tại thuyết pháp. Có nhơn duyên ǵ mà cơi ấy có tên là Đại Trang Nghiêm? V́ những sự trang nghiêm ở cơi ấy dầu nói rộng ra đến một kiếp cũng chẳng hết, v́ lẽ ấy mà có tên là Đại Trang Nghiêm.

Lại có nhơn duyên ǵ mà Đức Phật ở cơi Đại Trang Nghiêm ấy hiệu là Nhứt Bửu Trang Nghiêm?

Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai ấy nhơn một báu mà thuyết pháp, đó là báu Đại thừa vô thượng vậy, do đây mà hiệu là Nhứt Bửu Trang Nghiêm Như Lai

Đức Phật Nhứt Bửu Trang Nghiêm ấy cùng chư Bồ Tát đều lên ngồi ṭa sư tử vọt ở hư không cao bằng tám mươi ức cây đa la, Phật v́ chư Bồ Tát nói pháp môn hư không ấn.

Sao gọi là pháp môn hư không ấn?

Như tất cả pháp lấy hư không làm môn v́ không có trụ xứ vậy, môn vô trụ xứ của tất cả pháp v́ không có h́nh tướng vậy, môn vô h́nh tướng của tất cả pháp v́ quá các hành xứ vậy, môn vô hành xứ của tất cả pháp v́ trong ngoài thanh tịnh vậy, môn thanh tịnh của tất cả pháp v́ tánh nó không ô nhiễm vậy, môn vô nhiễm của tất cả pháp v́ tự tánh tịch tĩnh vậy, môn tịch tĩnh của tất cả pháp v́ vốn không có tâm ư thức vậy, môn vốn không của tất cả pháp v́ rời ĺa vật và chẳng phải vật vậy, môn không có vật của tất cả pháp v́ không có giáo tướng vậy, môn không có giáo tướng của tất cả pháp v́ không có h́nh đoạn vậy, môn không có h́nh đoạn của tất cả pháp v́ rời ĺa nhơn duyên cảnh giới vậy, môn không có nhơn duyên cảnh giới của tất cả pháp v́ tướng tịch diệt vậy, môn tịch diệt của tất cả pháp v́ rời ĺa hai tướng vậy, môn vô nhị của tất cả pháp v́ xả biệt dị vậy, môn không có dị biệt của tất cả pháp v́ nhập vào nhứt tướng vậy, môn nhứt tướng của tất cả pháp v́ tự tướng thanh tịnh vậy, môn tự tướng thanh tịnh của tất cả pháp v́ quá tam thế vậy, môn quá tam thế của tất cả pháp v́ chẳng rời b́nh đẳng vậy, môn chẳng rời b́nh đẳng của tất cả pháp v́ tướng ảo hóa chẳng phải tướng vậy, môn ảo hóa tướng của tất cả pháp v́ thể chẳng thiệt vậy, môn không có thể của tất cả pháp v́ không có tác tướng vậy, môn vô tác của tất cả pháp v́ thân tâm xa ĺa vậy, môn viễn ly của tất cả pháp v́ ĺa tướng ĺa vô tướng vậy, môn vô tướng của tất cả pháp v́ tướng bất động vậy, môn tướng bất động của tất cả pháp v́ không có chỗ y dựa vậy, môn không có y xứ của tất cả pháp v́ an trụ vô tế vậy, môn không có tế hạn của tất cả pháp v́ không có ổ hang vậy, môn không có ổ hang của tất cả pháp v́ không có ngă không có ngă sở vậy, môn không có ngă ngă sở của tất cả pháp v́ không có chủ vậy, môn vô chủ của tất cả pháp v́ tánh vô ngă vậy, môn vô ngă của tất cả pháp v́ nội thanh tịnh vậy.

Nầy Xá Lợi Phất! Đức Nhứt Bửu Trang Nghiêm Như Lai v́ chư Bồ Tát mà nói rộng pháp môn hư không ấn như vậy. Lúc Đức Như Lai ấy nói pháp có vô lượng a tăng kỳ chư Bồ Tát hiểu biết các pháp tánh cùng hư không b́nh đẳng, ở trong các pháp được vô sanh nhẫn.

Nầy Xá Lợi Phất! Ở quốc độ Đai Trang Nghiêm ấy, chỗ Phật Nhứt Bửu Trang Nghiêm có một đại Bồ Tát tên là Hư Không Tạng dùng đại trang nghiêm để tự trang nghiêm, nơi các nguyện bất khả tư nghị là tối thắng hơn cả, được oai đức trong tất cả công đức, được vô ngại tri kiến bất khả tư nghị, dùng Bồ Tát công đức để tự trang nghiêm, dùng các tướng hảo để trang nghiêm thân ḿnh, tùy chúng sanh đáng được độ dùng thiện thuyết pháp trang nghiêm miệng ḿnh, dùng bất thối định trang nghiêm tâm ḿnh, dùng các tổng tŕ trang nghiêm niệm, nhập vào các pháp vi tế trang nghiêm ư, thuận quán pháp tánh trang nghiêm tinh tiến, dùng kiên cố thệ trang nghiêm chí thuần, dùng quyết định xong trang nghiêm việc được làm, từ nhứt địa đến nhứt địa trang nghiêm cứu cánh, xả các sở hữu trang nghiêm bố thí, dùng tâm thanh tịnh lời nói lành trang nghiêm giới, với các chúng sanh tâm không chướng ngại trang nghiêm nhẫn nhục, các sự việc đều trọn đủ trang nghiêm tinh tiến, nhập định du hí thần thông trang nghiêm thiền, khéo biết phiền năo tập khí trang nghiêm Bát Nhă, v́ cứu hộ chúng sanh trang nghiêm từ tâm, chẳng bỏ rời các chúng sanh trang nghiêm ḷng bi, tâm không do dự trang nghiêm nơi hỷ, rời ĺa các ghét thương trang nghiêm nơi xả, du hí các thiền định trang nghiêm thần thông, được tay vô tận bửu trang nghiêm công đức, phân biệt rơ tâm hành các chúng sanh trang nghiêm trí, dạy chúng sanh những pháp lành trang nghiêm nơi giác, được huệ sáng sạch trang nghiêm huệ minh, được đúng nghĩa pháp và từ trang nghiêm biện tài, phá ma và ngoại đạo trang nghiêm những vô úy, được Phật vô lượng công đức để tự trang nghiêm, thường dùng các lỗ lông thuyết pháp để trang nghiêm nơi pháp, thấy pháp minh của chư Phật Để trang nghiêm tự minh, hay soi sáng các Phật quốc độ để trang nghiêm quang minh, lời nói không có lỗi lầm để trang nghiêm sở thuyết, thần thông theo chỗ thích nói để trang nghiêm giáo thọ, thần thông đến rốt ráo bốn thần túc để trang nghiêm biến hóa, thần thông nhập vào chỗ bí mật của Phật để trang nghiêm chư Như Lai, thần thông tự giác ngộ chánh trí để trang nghiêm pháp tự tại, như thuyết mà làm không ǵ có thể phá hoại được để trang nghiêm tất cả thiện pháp kiên cố.

Nầy Xá Lợi Phất! Hư Không Tạng đại Bồ Tát ấy thành tựu vô lượng công đức như vậy, nay cùng mười hai ức đại Bồ Tát đồng phát ư muốn đến thế giới Ta Bà nầy lễ lạy ta cúng dường cung kính vây quanh, cũng v́ kinh Đại Phổ Tập nầy mà phân biệt ít phần pháp môn, lại cũng v́ chư Bồ Tát từ mười phương đến hội sanh đại pháp minh, lại v́ tăng ích khai pháp Đại thừa, lại v́ thọ tŕ Như Lai pháp, lại v́ vô lượng chúng sanh phát sanh thiện căn, lại v́ dùng thiện pháp điều phục các ma và ngoại đạo, lại v́ thị hiện Bồ Tát du hí thần thông vậy.

Hư Không Tạng Đại Bồ Tát ấy muốn đến đây nên trước có thoại ứng như vậy" .

Lúc Đức Thế Tôn nói sự ấy rồi, Hư Không Tạng Bồ Tát cùng mười hai ức Đại Bồ Tát cung kính vây quanh đồng đến chỗ Đức Nhứt Bửu Trang Nghiêm Như Lai bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Chúng tôi muốn đến Ta Bà thế giới lễ bái cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni".

Đức Nhứt Bửu Trang Nghiêm Phật nói: "Các ông muốn qua đó th́ tùy ư, nên phải biết thời".

Hư Không Tạng đại Bồ Tát cùng chúng đại Bồ Tát liền đảnh lễ chưn Phật Nhứt Bửu Trang Nghiêm, đi nhiễu bên hữu bảy ṿng, thừa Phật du hí vô tác thần thông bỗng nhiên chẳng hiện, trong thời gian khoảng một niệm, đến nhà Bửu Trang Nghiêm Đường trên Đài Diệu Bửu.

Hư Không Tạng đại Bồ Tát mưa diệu hoa hương cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni, cũng cúng dường kinh Đại Phổ Tập, đó là những hoa mạn đà la, hoa ma ha mạn đà la, hoa mạn thù sa, hoa ma ha mạn thù sa, hoa ba lợi chất đa la, hoa ma ha ba lợi chất đa la, hoa lô giá na, hoa ma ha lô giá na, các loại hoa trên đất dưới nước lớn bằng bánh xe, hoa trăm cánh, ngàn cánh, hoa trăm ngàn vạn cánh, tất cả hoa đều phát ánh sáng, mùi hương vi diệu, sắc hoa hương hoa làm vui đẹp tâm nhăn mọi người. Những hoa thơm đẹp tươi sáng như vậy tuôn xuống đầy trong nhà Diệu Bửu Trang Nghiêm Đường chất cao một cây đa la. C̣n có các thứ thiên nhạc phát ra tiếng vô lượng pháp môn, những là tiếng nhạc hiệp với Đàn Ba la Mật, Thi la Ba la mật, Nhẫn Ba la mật, Tiến Ba la mật, Thiền Ba la mật, Bát Nhă Ba la mật, tiếng nhạc hiệp với Tứ vô lượng tâm, hiệp với Tứ nhiếp pháp, hiệp với Trợ đạo pháp, hiệp với Tam giải thoát môn, hiệp với Tứ thánh đế, hiệp với Thập nhị nhơn duyên.

Cúng dường xong, Hư Không Tạng Bồ Tát đảnh lễ chưn Phật hữu nhiễu bảy ṿng rồi đứng qua một phía bạch Đức Phật rằng: " Bạch Đức Thế Tôn! Đức Nhất Bửu Trang Nghiêm Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác thăm hỏi Đức Thế Tôn ít bệnh ít năo đi ở an ổn vui vẻ. Đức Nhứt Bửu Trang Nghiêm Như Lai lại c̣n nói có mười hai ức Bồ Tát cùng Hư Không Tạng Bồ Tát đồng đến Ta Bà thế giới mong Đức Thế Tôn v́ họ nói pháp thậm thâm khiến họ được tự nhiên trí, cũng khiến họ thành tựu đại pháp quang minh rồi sẽ trở về quốc độ Đại Trang Nghiêm. Tại v́ sao? Do Đức Thế Tôn từ xa xưa đă từng giáo hóa chúng Bồ Tát nầy phát tâm Vô Thượng Bồ Đề vậy".

Bạch lời trên xong, Hư Không Tạng đại Bồ Tát, ngay trên đỉnh Đức Thế Tôn, hóa hiện lọng báu lớn rộng mười ngàn do tuần, cán bằng thanh lưu ly, cọng bằng chơn san hô bửu, lợp bằng lưu ly bửu và vàng diêm phù đàn, rũ tḥng những mành lưới chuỗi ngọc bằng diệu chơn châu, có những linh những lạc reo tiếng ḥa diệu. Lọng ấy phát sáng chiếu suốt mười phương cùng xen với các loại hoa hương đẹp sáng.

Đối với công đức bất tư nghị của Đức Thế Tôn, Hư Không Tạng đại Bồ Tát ḷng rất kính trọng chắp tay hướng lên Phật nói kệ khen ngợi rằng:

Pháp nghĩa trí huệ đấng Tối Thắng
Bổn tịnh vô cấu vô sở trước
Như hư không chẳng nhiễm ô
Tôi lạy dưới chân thánh bất động
Công hạnh không sánh không bờ đáy
Hiện pháp nghiêm thân rất thù thắng
Chơn pháp thân Phật như hư không
Khắp trùm đại bi mà tế độ
Nhơn Thiên Đạo Sư hay thị hiện
Trăm phước trang nghiêm thân Thế Tôn
Dứt các ngôn ngữ không âm vang
Ĺa các ngôn thuyết không hí luận
Dầu biết như vậy mà hiện nói
Vô tánh chúng sanh khiến họ vui
Tâm chẳng phải tâm được tâm ấy
Biết được chẳng tâm tánh ảo hóa
Khéo biết chúng sanh tâm hành tánh
Mà hay chẳng trụ tâm bỉ ngă
V́ hiện oai nghi để độ chúng
Thân Thiện Thệ không tác chẳng tác
Phật biết chúng sanh theo chỗ thích
Liền hay thị hiện thân như vậy
Thế Tôn nơi pháp chẳng chấp ngă
Chẳng có nhớ tưởng trụ nơi pháp
Hay biết do pháp nào được độ
Rồi theo đáng nên nói đúng cơ
Đại chúng khát ngưỡng nh́n Thế Tôn
Hy hữu trong đời không ǵ sánh
Thế Tôn thị hiện mà vô tâm
Nhưng khiến đại chúng đều vui đẹp
Các pháp như vậy theo duyên sanh
Hư vô tịch mịch chẳng chơn thiệt
Thế Tôn khéo biết pháp như vậy
Được đến Niết Bàn đạo thanh lương
Bỏ nhị biên chẳng trụ trung đạo
Biết giả chẳng chơn không tự tánh
Các pháp như vậy không tác giả
Khéo nói nghiệp quả chẳng đoạn thường
Chẳng phải chúng sanh thọ mạng nhơn
Tịch tĩnh không tên như hư không
Như thiệt phân biệt không chúng sanh
An trụ đại chúng đến cam lộ
Xưa tu nhiều kiếp bất tư nghị
Cầu sức tinh tiến đại Bồ Đề
Diệu hạnh được làm nay đă thành
Nghĩa đến không đến đều tỏ biết
Tất cả các pháp thượng trung hạ
Đều biết b́nh đẳng thường không khác
Người trí chỗ biết biết không chấp
Ví vậy Thế Tôn định không loạn
Âm nhập xứ giới như ảo hóa
Tam giới đều như trăng trong nước
Chúng sanh hư ngụy tánh như mộng
Do trí phân biệt nói pháp ấy
Thế nhơn giả xưng gọi đắc đạo
Thiệt không có tướng đắc không đắc
Như đạo không đắc pháp không chuyển
Như pháp không chuyển không người độ
Thế nên độ chúng khỏi tử lưu
Tự độ độ tha hết điên đảo
Khéo hay an ủi người khổ năo
Ḿnh người diệt khổ đến vô vi
Chúng sanh không sanh không Niết Bàn
Chúng sanh bổn tịnh bất khả đắc
Đạo và chúng sanh dường ảo mộng
Tự giác như vậy giác nhiều người
Như trong hư không chẳng thấy sắc
Tất cả chúng sanh sắc cũng vậy
Các pháp ĺa sắc ĺa tướng sắc
Biết được sắc ấy th́ được ĺa
Dùng các dụ hay khen ngợi Phật
Chấp kiến khen Phật là báng Phật
Phật đức như không vô sai biệt
Vô hạn vô lượng là khen Phật
Lạy đấng tự tịnh cũng tịnh tha
Vô duyên vô tâm nhập vi tâm
Như Phật công Đức Thế Tôn biết
Như Phật công đức nay tôi lạy
Hay biết chúng sanh không có ngă
Biết các pháp tế là ly dục
Người thấy pháp thân là thấy Phật
Tức là cúng dường mười phương Phật

Hư Không Tạng Bồ Tát nói kệ ấy rồi, liền lúc ấy nhà Đại Bửu Trang Nghiêm Đường cùng tất cả các bửu đài trên hư không chấn động sáu cách, tất cả đại chúng tâm thanh tịnh vui vẻ hớn hở khen chưa từng có đồng nói Hư Không Tạng đại Bồ Tát khéo có thể nói diệu kệ ấy, nếu có thiện nam thiện nữ làm được pháp ấy th́ cho đến trong mộng chẳng thấy có pháp lần lần sẽ được sư tử hống như Hư Không Tạng đại Bồ Tát.

Hư Không Tạng đại Bồ Tát nói những diệu kệ khen Phật rồi bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Có ít điều muốn hỏi mong Thế Tôn cho phép, nếu được Phật cho phép mới dám thưa hỏi, tại sao, v́ Đức Thế Tôn có vô lượng tri kiến hay biết được chúng sanh các căn có thuần thục có chưa thuần thục, v́ Đức Thế Tôn sáng suốt trừ bỏ các tối tăm, v́ Đức Thế Tôn rơ nghĩa khéo nói phân biệt rành các cú nghĩa, v́ Đức Thế Tôn biết thời giờ chẳng quá hạn, v́ Đức Thế Tôn chỗ nói chẳng lầm đúng như lời mà làm chẳng sai, v́ Đức Thế Tôn biết thời giờ tùy sở hành của chúng sanh mà thuyết pháp, v́ Đức Thế Tôn khéo du hư thông đạt các thần thông, v́ Đức Thế Tôn khéo chơn thiệt quán tâm hành của chúng sanh, v́ Đức Thế Tôn rất không ô nhiễm ở trong các pháp được đại tự tại, v́ Đức Thế Tôn tự tỏ ngộ giác liễu các pháp, v́ Đức Thế Tôn chế ngự tà kiến chúng sanh dạy cho họ vào chánh kiến, v́ Đức Thế Tôn là đại y vương có thể làm cho vô thỉ thế giới chúng sanh dứt hẳn các bệnh năo, v́ Đức Thế Tôn đại lực thành tựu thập lực, v́ Đức Thế Tôn vô úy thành tựu tứ vô úy, v́ Đức Thế Tôn tối thắng thành tựu thập bát bất cộng pháp, v́ Đức Thế Tôn đại từ cứu tế tất cả chúng sanh tâm thường vô ngại, v́ Đức Thế Tôn đại bi hành tri kiến vô ngă cứu khổ tất cả chúng sanh, v́ Đức Thế Tôn đại hỷ hành thiền định giải thoát tam muội đến cứu cánh, v́ Đức Thế Tôn đại xả hành dứt tất cả ghét thương tâm như hư không, v́ Đức Thế Tôn được b́nh đẳng giác liễu các Phật pháp vô ngại, v́ Đức Thế Tôn không có ḷng ghét thương cứu cánh thanh tịnh khen chê không lay động được, v́ Đức Thế Tôn không có hy vọng trí huệ đầy đủ nơi lợi dưỡng kính khen không mong cầu, v́ Đức Thế Tôn tất cả tri kiến tất cả Phật hành xứ đều đă cứu cánh. Bạch Đức Thế Tôn! Tôi biết được Đức Thế Tôn có vô lượng vô biên công đức thành tựu như vậy, v́ thế ở trong các pháp môn tôi có ít điều muốn hỏi".

Đức Phật nói: "Nầy Hư Không Tạng! Phật cho phép ông hỏi, Phật sẽ theo chỗ ông bạch hỏi làm cho ông được vui thỏa".

Lúc ấy Công Đức Quang Minh Vương đại Bồ Tát hỏi Hư Không Tạng đại Bồ Tát rằng: "Nay Ngài v́ ai mà muốn bạch hỏi Đức Như Lai?".

Hư Không Tạng đại Bồ Tát nói kệ đáp Công Đức Quang Minh Vương đại Bồ Tát rằng:

Tất cả chúng sanh tâm b́nh đẳng
Người b́nh đẳng hay đến cứu cánh
Du hư trong đại bi vô cấu
Tôi v́ chúng nầy hỏi Thế Tôn
Hay đến chánh giác không cấu uế
Đă không do dự dứt nghi kia
Tự được tỏ thấu lợi chúng sanh
Tôi v́ chúng ấy hỏi Thế Tôn
Biết ngă vô ngă không sánh bằng
V́ chúng phát tâm không chấp chúng
Hay làm chúng sanh thoát ngă kiến
Tôi v́ chúng ấy hỏi Thế Tôn
Hay hộ oai nghi thuận sở hành
Tâm ấy thanh tịnh như hư không
Kiên cố bất động như Tu Di
Tôi v́ chúng ấy hỏi Thế Tôn
Tinh tiến không bờ huệ không sánh
Dũng kiện hay phá oán phiền năo
Kiết ḿnh đă dứt dứt kiết người
Tôi v́ chúng ấy hỏi Thế Tôn
Thích cho oai nghi điều phục tâm
Thường trụ văn giới nhẫn tiến lực
Thiền định thần thông trí huệ sáng
Tôi v́ chúng ấy hỏi Thế Tôn
Thích tu không vô tướng vô nguyện
Mà hiện thọ thân ở sanh tử
Vô sanh vô diệt đạt cam lộ
Tôi v́ chúng ấy hỏi Thế Tôn
Tri kiến thậm thâm không ngằn mé
Thanh Văn Duyên Giác đều không bằng
Mà biết sở hành các chúng sanh
Tôi v́ chúng ấy hỏi Thế Tôn
Khéo hay tỏ thấu thích chánh hạnh
Nơi chấp pháp phi pháp đă dứt
Thường ở chánh định tâm chẳng loạn
Tôi v́ chúng ấy hỏi Thế Tôn
Các hiền sĩ chẳng dứt giống Phật
Hay hộ chánh pháp hộ chúng Tăng
Danh đồn tam thế chư Phật khen
Tôi v́ chúng ấy hỏi Thế Tôn".

Hư Không Tạng đại Bồ Tát nói kệ đáp Công Đức Quang Minh Vương đại Bồ Tát rồi bạch Đức Phật rằng: "
Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là Bồ Tát thật hành Đàn Ba la mật b́nh đẳng với hư không?

Thế nào là Bồ Tát hành Thi la Ba la mật, hành Nhẫn Ba la mật, hành Tiến Ba la mật, hành Thiền Ba la mật, hành Bát Nhă Ba la mật b́nh đẳng với hư không?

Thế nào là Bồ Tát hành công đức, hành trí b́nh đẳng với hư không?

Thế nào là Bồ Tát chẳng rời ĺa như như mà niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm thí, niệm giới, niệm thiên, như Đức Phật đă hứa khả?

Thế nào là Bồ Tát tu hành các pháp b́nh đẳng như Niết Bàn?

Thế nào là Bồ Tát khéo phân biệt hành tướng?

Thế nào là Bồ Tát thọ tŕ pháp tạng chư Phật, tùy theo Như Lai chỗ giác ngộ tánh tướng các pháp như thiệt biết tánh tướng các pháp rồi mà chẳng thủ chẳng xả?

Thế nào là Bồ Tát phân biệt các chúng sanh từ vô thỉ đến nay thanh tịnh mà giáo hóa các chúng sanh?

Thế nào là Bồ Tát khéo thuận phát hành thành tựu Phật pháp?

Thế nào là Bồ Tát bất thối thần thông nơi các Phật pháp đều được tự tại?

Thế nào là Bồ Tát nhập pháp môn thậm thâm mà hàng Thanh Văn, hàng Bích Chi Phật chẳng nhập được?

Thế nào là Bồ Tát nơi thập nhị nhân duyên được thắng trí phương tiện xa ĺa nhị biên kiến chấp?

Thế nào là Bồ Tát được ấn Như Lai ấn cho như như vô phân biệt trí phương tiện?

Thế nào là Bồ Tát nhập môn pháp giới, tánh thấy tất cả pháp tánh b́nh đẳng?

Thế nào là Bồ Tát thuần chí kiên cố như kim cương, nơi đại thừa này tâm an trụ bất động?

Thế nào là Bồ Tát tự thanh tịnh giới ḿnh như Phật giới?

Thế nào là Bồ Tát được đà la ni trọn chẳng thất niệm?

Thế nào là Bồ Tát được Như Lai gia tŕ biện tài vô ngại?

Thế nào là Bồ Tát được tự tại thị hiện thọ sanh tử?

Thế nào là Bồ Tát phá các oán địch ĺa bỏ bốn ma?

Thế nào là Bồ Tát lợi ích chúng sanh trang nghiêm công đức?

Thế nào là Bồ Tát lúc thế gian không có Phật mà hay làm Phật sự?

Thế nào là Bồ Tát được hải ấn tam muội khéo có thể biết được tâm hành của tất cả chúng sanh?

Thế nào là Bồ Tát biết được các trần giới vô ngại?

Thế nào là Bồ Tát oai nghi hạnh thành tựu ĺa các tối tăm được quang minh thù thắng ở trong các pháp được tự nhiên trí mau được thành tựu Nhứt thiết trí hành?".

Đức Phật nói: "Lành thay, lành thay, nầy Hư Không Tạng! ông khéo có thể phân biệt hỏi nơi Như Lai những diệu nghĩa như vậy. Như ông đă từng cúng dường quá khứ vô lượng chư Phật trồng các căn lành, tâm hành b́nh đẳng như hư không, lễ kính chư Phật đến chỗ trí huệ sáng tỏ, phát siêng tinh tiến muốn đến diệu pháp tất cả chư Phật, chẳng bỏ rời các chúng sanh đến đại từ bi cứu cánh, đă quá các ma nghiệp chẳng ĺa thế pháp, dùng tâm lượng đồng hư không để thành tựu diệu pháp Đại thừa vô thượng nầy.

Nầy Hư Không Tạng! Công đức của ông không có biên tế, khó so sánh được, ông đă từng ở chỗ hằng hà sa số chư Phật quá khứ hỏi những sự việc ấy, ông cũng có thể tự nói, ông nên lắng nghe khéo suy gẫm, Phật sẽ v́ ông mà phân biệt giải nói các sự được hỏi về công hạnh của chư Bồ Tát, mà Phật c̣n giải nói hơn đây có thể được Vô Thượng Đại thừa Như Lai tự nhiên trí Nhứt thiết chủng trí".

Hư Không Tạng đại Bồ Tát bạch rằng:

"Kính vâng, bạch Đức Thế Tôn! Tôi nguyện thích được nghe".

Đức Phật nói: "Nầy Hư Không Tạng! Thành tựu bốn pháp, Bồ Tát hành Đàn Ba la mật b́nh đẳng với hư không: Nếu Bồ Tát ở tất cả chỗ không có chướng ngại chẳng phân biệt mà hành Đàn Ba la mật, do ngă tịnh nên bố thí cũng tịnh, do bố thí tịnh nên nguyện cũng tịnh, do nguyện tịnh nên Bồ Đề cũng tịnh, do Bồ Đề tịnh nên nơi tất cả các pháp cũng tịnh. Đây là Bồ Tát thành tựu bốn pháp thật hành Đàn Ba la mật b́nh đẳng với hư không.

Nầy Hư Không Tạng! Nếu Bồ Tát thành tựu tám pháp có thể tịnh Đàn Ba la mật: Ĺa ngă mà bố thí, ĺa v́ ngă mà bố thí, ĺa thương yêu mà bố thí, ĺa vô minh kiến mà bố thí, ĺa tướng bỉ ngă mà bố thí, ĺa các suy tưởng mà bố thí, ĺa hy vọng báo đáp mà bố thí, ĺa bỏn xẻn ganh ghét mà bố thí, tâm b́nh đẳng như hư không mà bố thí. Đây là tám pháp mà Bồ Tát thành tựu th́ có thể tịnh Đàn Ba la mật. Tám pháp ly nầy gọi là tịnh thí. Như hư không không có chỗ nào là chẳng đến, Bồ Tát từ tâm bố thí cũng như vậy. Như hư không chẳng phải sắc chẳng thấy được, Bồ Tát hành thí chẳng y dựa nơi các sắc cũng như vậy. Như hư không chẳng cảm thọ khổ vui, Bồ Tát hành thí rời ĺa các sự khổ vui cũng như vậy. Như hư không không có tưởng biết, Bồ Tát hành thí rời ĺa các ư tưởng cũng như vậy. Như hư không là tướng vô vi, Bồ Tát hành thí vô vi vô tác cũng như vậy. Như hư không hư giả vô tướng, Bồ Tát hành thí chẳng y dựa thức tưởng cũng như vậy. Như hư không tăng ích tất cả chúng sanh, Bồ Tát hành thí lợi ích tất cả chúng sanh cũng như vậy. Như hư không vô biên vô tận, Bồ Tát hành thí ở trong sanh tử không có cùng tận cũng như vậy.

Nầy Hư Không Tạng! Như hóa nhơn cấp thí cho hóa nhơn không có phân biệt, không có hư luận, chẳng cầu quả báo, Bồ Tát hành bố thí bỏ ĺa hai bên chẳng phân biệt chẳng hư luận chẳng hi vọng quả báo cũng như vậy. Bồ Tát dùng trí huệ trừ bỏ tất cả kiết sử, dùng trí phương tiện chẳng bỏ tất cả chúng sanh. Đây là Bồ Tát hành Đàn Ba la mật b́nh đẳng với hư không vậy.

Trong pháp hội có một Bồ Tát tên là Nhựt Đăng Thủ từ chỗ ngồi dậy trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay bạch Đức Phật rằng: " Bạch Đức Thế Tôn! Hàng Bồ Tát nào có thể hành Đàn Ba la mật như vậy?".

Đức Phật nói: "Nầy Nhựt Đăng Thủ! Nếu Bồ Tát quá các thế gian được pháp xuất thế gian, chẳng phải sắc không có thể không hiện hành, tri kiến thanh tịnh, chẳng phải tối chẳng phải sáng, ĺa tất cả tướng đến tột vô tướng trí, thành tựu vô tận nhẫn, gần tri kiến của Như Lai, đă nối giới phần quyết định của Bồ Tát, đă được thọ kư, được ấn bất thối chuyển ấn định, đă được quán đảnh chánh vị, đă hành thiện hạnh biết hành tướng chúng sanh, đến tất cả chỗ mà không có chỗ đến. Bồ Tát như vậy có thể hành Đàn Ba la mật nầy".

Lúc Phật nói Pháp ấy, có một vạn tám ngàn Bồ Tát thấy các pháp tánh như hư không được Vô Sanh Pháp Nhẫn.

Đức Phật nói với Hư Không Tạng đại Bồ Tát: "Nầy Hư Không Tạng! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp th́ hành Thi Ba la mật b́nh đẳng với hư không: Bồ Tát biết thân như tượng trong gương, biết thanh như vang, biết tâm như huyễn ảo, biết các pháp tánh như hư không. Đây là Bồ Tát thành tựu bốn pháp hành Thi Ba la mật b́nh đẳng với hư không.

Nầy Hư Không Tạng! Bồ Tát thành tựu tám pháp th́ có thể hộ tịnh giới:

Các Bồ Tát chẳng quên tâm Bồ Đề th́ hay hộ tịnh giới. Các Bồ tát chẳng cầu bực Thanh Văn, bực Bích Chi Phật th́ hay hộ tịnh giới. Bồ Tát tŕ giới chẳng hạn cuộc nơi giới th́ hay hộ tịnh giới. Bồ tát chẳng ỷ cậy các giới th́ hay hộ tịnh giới. Bồ Tát chẳng bỏ bổn nguyện th́ hay hộ tịnh giới. Bồ tát chẳng y dựa tất cả chỗ sanh th́ hay hộ tịnh giới. Bồ Tát thành tựu đại nguyện th́ hay hộ tịnh giới. Bồ Tát khéo nhiếp các căn để diệt phiền năo th́ hay hộ tịnh giới. Đây là Bồ Tát thành tựu tám pháp th́ hay hộ tịnh giới vậy.

Nầy Hư Không Tạng! Như hư không rời ĺa các hy vọng, Bồ Tát dùng tâm không có mong cầu hay hộ tịnh giới cũng như vậy. Như hư không thanh tịnh, Bồ Tát tŕ giới thanh tịnh cũng như vậy. Như hư không không có cấu uế, Bồ Tát tŕ giới không có cấu uế cũng như vậy. Như hư không không có nhiệt năo, Bồ Tát tŕ giới không có nhiệt năo cũng như vậy. Như hư không không có cao hạ, Bồ Tát tŕ giới không cao không hạ cũng như vậy. Như hư không không có ổ hang, Bồ Tát tŕ giới không có chỗ y dựa cũng như vậy. Như hư không vô sanh vô diệt cứu cánh không biến đổi, Bồ Tát tŕ giới vô sanh vô diệt cứu cánh không biến đổi cũng như vậy. Như hư không đều có thể dung thọ tất cả chúng sanh, Bồ Tát tŕ giới khắp có thể vận tải cũng như vậy. Bồ Tát v́ lợi ích chúng sanh mà có thể hộ tịnh giới.

Nầy Hư Không Tạng! Như trăng trong nước không có tŕ giới phá giới, Bồ Tát rơ biết tất cả các pháp như thủy nguyệt không có tŕ giới phá giới cũng như vậy. Đây là Bồ Tát hành Giới Ba La mật b́nh đẳng với hư không vậy.

Nầy Hư Không Tạng! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp th́ hành Nhẫn Ba la mật b́nh Đẳng với hư không:

Nếu Bồ Tát bị người mắng chửi chẳng báo lại v́ biết rơ vô ngă, bị người đánh chẳng báo lại v́ biết rơ không nhơn, bị ngườ́ giận ghét chẳng báo lại v́ ĺa thấy có, bị người oán thù chẳng báo lại v́ bỏ ĺa hai kiến chấp. Đây gọi là Bồ Tát thành tựu bốn pháp hành Nhẫn Ba la mật b́nh đẳng với hư không.

Nầy Hư Không Tạng! Nếu Bồ Tát thành tự tám pháp th́ c̣ thể tịnh Nhẫn Ba la mật:

Bồ Tát khéo tịnh nội thuần chí mà tu Nhẫn Ba la mật. Bồ Tát khéo tịnh ngoại chẳng hy vọng mà tu Nhẫn Ba la mật. Bồ Tát nơi thượng trung hạ cứu cánh vô ngại tu Nhẫn Ba la mật. Bồ Tát tùy thuận pháp tánh không bị nhiễm trước mà tu Nhẫn Ba la mật. Bồ Tát ĺa tất cả kiến chấp đồng hư không mà tu Nhẫn Ba la mật. Bồ Tát dứt tất cả giác quán đồng vô tướng mà tu Nhẫn Ba la mật. Bồ Tát bỏ tất cả nguyện đồng vô nguyện mà tu Nhẫn Ba la mật. Bồ Tát trừ tất cả các hành đồng vô hành mà tu Nhẫn Ba la mật. Đây gọi là đại Bồ Tát thành tựu tám pháp có thể tịnh Nhẫn Ba la mật vậy.

Nầy Hư Không Tạng! Như hư không không có ghét không có thương, Bồ Tát tu Nhẫn Ba la mật không có ghét thương cũng như vậy. Như hư không không có biến đổi, Bồ Tát tâm cứu cánh không biến đổi tu Nhẫn Ba la mật cũng như vậy. Như hư không không có kém tổn, Bồ Tát tu Nhẫn Ba la mật tâm cứu cánh không có kém tổn cũng như vậy. Như hư không không có sanh không có khởi, Bồ Tát tu Nhẫn Ba la mật tâm không có sanh khởi cũng như vậy. Như hư không không có hí luận, Bồ Tát tu Nhẫn Ba la mật tâm không có hí luận cũng như vậy. Như hư không không có ân báo, Bồ Tát tu Nhẫn Ba la mật với tất cả chúng sanh chẳng mong quả báo cũng như vậy. Như hư không vô lậu vô hệ phược, Bồ Tát tu Nhẫn Ba la mật ĺa tất cả lậu chẳng hệ phược tam giới cũng như vậy.

Nầy Hư Không Tạng! Bồ Tát lúc hành Nhẫn Ba la mật chẳng có quan niệm họ đến mắng tôi tôi có thể nhịn chịu, cũng chẳng thấy người mắng kẻ bị mắng và cách mắng, chẳng quan niệm ấy, chẳng hí luận rằng họ rỗng không tôi cũng rỗng không, cũng chẳng suy nghĩ rằng âm thanh như vang do ǵ mà phát ra, cũng chẳng quan niệm rằng tôi phải c̣n họ th́ quấy, cũng chẳng quan niệm rằng họ vô thường tôi cũng vô thường, cũng chẳng nghĩ rằng họ ngu tôi trí, cũng chẳng tưởng rằng chúng ta nên hành nhẫn nhục.

Nầy Hư Không Tạng! Như có người v́ cầu nhánh cây sa la nên cầm búa bén vào rừng sa la đến một cây sa la lớn chặt lấy một nhánh, các nhánh sa la khác chẳng nghĩ rằng họ chặt nhánh ấy mà chẳng chặt tôi, nhánh bị chặt cũng chẳng nghĩ rằng tôi đă bị chặt các nhánh khác không bị chặt, tất cả nhánh bị chặt cùng chẳng bị chặt đều chẳng có quan niệm ghét thương. Lúc hành Nhẫn Ba la mật, đại Bồ Tát quán biết tất cả pháp tánh như cỏ cây tường vách ngói đá, mà thị thân thể bị chặt chém đứt rời để giáo hóa chúng sanh, không có giận ghét, không có thương yêu, hoàn toàn không có nhớ nghĩ phân biệt. Đây là Bồ Tát hành Nhẫn Ba la mật b́nh đẳng với hư không.

Nầy Hư Không Tạng! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp th́ hành Tinh Tiến Ba la mật b́nh đẳng với hư không:

Bồ Tát siêng cầu tất cả pháp lành mà biết tất cả pháp tự tánh chẳng thành tựu, Bồ Tát đem tất cả món vật cần dùng tối thắng cung cấp cúng dường chư Phật Thế Tôn nhưng chẳng thấy có Như Lai và các món cúng dường, Bồ Tát khéo có thể thọ tŕ diệu pháp được nói của tất cả chư Phật cũng chẳng thấy có văn tự để thọ tŕ, Bồ Tát có thể thành tựu vô lượng chúng sanh thấy chúng sanh tánh tức là Niết Bàn rốt ráo không có sanh không có khởi. Đây là bốn pháp Bồ Tát thành tựu hành Tinh Tiến Ba la mật b́nh đẳng với hư không.

Nầy Hư Không Tạng! Nếu Bồ Tát thành tựu tám pháp th́ có thể tịnh Tinh Tiến Ba la mật:

Bồ Tát v́ tịnh thân mà phát cần tinh tiến biết thân như bóng trong gương chẳng tham trước nơi thân. Bồ Tát v́ tịnh khẩu nên phát cần tinh tiến biết tiếng từ miệng thốt ra như vang chẳng tham trước nơi khẩu. Bồ Tát v́ tịnh ư nên phát hành tinh tiến biết ư như ảo huyễn không có phân biệt chẳng tham trước nơi ư. Bồ Tát v́ đầy đủ các Ba la mật nên phát cần tinh tiến biết các pháp không có tự tánh bị nhiếp thuộc nhân duyên chẳng nên hí luận. Bồ Tát v́ được trợ Bồ Đề phần pháp nên phát cần tinh tiến để giác liễu tất cả pháp chơn thiệt tánh không bị chướng ngại vướng mắc. Bồ Tát v́ tịnh Phật quốc độ nên phát cần tinh tiến để biết tất cả quốc độ như hư không v́ vậy mà chẳng ỷ thị chỗ được tịnh. Bồ Tát v́ được tất cả đà la ni nên phát cần tinh tiến biết tất cả pháp không có niệm chẳng phải không có niệm do đây mà không có quan niệm hai tướng. Bồ Tát v́ thành tựu tất cả Phật pháp nên phát cần tinh tiến để biết tất cả pháp nhập nhứt tướng b́nh đẳng nhưng chẳng hoại hư pháp tánh. Đây là tám pháp Bồ Tát thành tựu th́ có thể tịnh Tinh Tiến Ba la mật.

Nầy Hư Không Tạng! Như hư không không có mỏi mệt, Bồ Tát trong vô lượng kiếp phát cần tinh tiến không có mỏi mệt cũng như vậy. Như hư không đều có thể dung thọ tất cả sắc tượng mà hư không không có che chướng. Bồ Tát v́ dung thọ tất cả chúng sanh mà phát cần tinh tiến b́nh đẳng vô ngại cũng như vậy, Như hư không có thể sanh tất cả cỏ cây lùm rừng mà hư không không có trụ xứ. Bồ tát v́ tăng ích thiện căn tất cả chúng sanh mà phát cần tinh tiến không chỗ dựa dính không có trụ xứ cũng như vậy. Như hư không đến tất cả chỗ mà không có đi đến. Bồ Tát v́ đến tất cả chỗ nên phát cần tinh tiến mà không có đến không có không đến cũng như vậy. Như hư không chẳng phải sắc h́nh mà trong hư không thấy các sắc h́nh. Bồ Tát v́ nhứt thừa nên phát cần tinh tiến mà v́ thành tựu thuần chí nên thị hiện các thừa sai biệt cũng như vậy. Như hư không bổn tánh thanh tịnh không bị khách trần làm ô nhiễm. Bồ Tát phát cần tinh tiến bổn tánh thanh tịnh v́ chúng sanh mà hiện thọ thân sanh tử nhưng chẳng bị trần lụy làm ô nhiễm cũng như vậy. Như hư không tánh là thường không có vô thường. Bồ tát cứu cánh v́ chẳng dứt mất Tam bửu nên phát cần tinh tiến cũng như vậy.Như hư không vô thỉ vô chung chẳng thủ chẳng xả. Bồ Tát phát cần tinh tiến vô thỉ vô chung bất thủ bất xả cũng như vậy.

Nầy Hư Không Tạng! Tinh tiến có hai thứ đó là ban đầu phát tinh tiến và rốt sau thành tinh tiến. Bồ Tát do ban đầu phát cần tinh tiến tu tập thành tất cả pháp lành, do rốt sau thành tinh tiến phân biệt tất cả pháp chẳng có tự tánh, chỉ có căn lành đă được tu tập thấy là b́nh đẳng, sở kiến b́nh đẳng cũng chẳng phải b́nh đẳng.

Nầy hư Không Tạng! Như người thợ điêu khắc tượng người gỗ có đủ thân tướng, sự nghiệp được làm đều có thể hoàn thành, nhưng nơi có làm cùng chẳng có làm đều chẳng có quan niệm sai biệt. Bồ Tát v́ thành tựu trang nghiêm bổn nguyện mà phát cần tinh tiến tu tất cả nghiệp, nơi làm cùng chẳng làm không quan niện sai biệt, bỏ ĺa hai bên cũng như vậy. Đây là Bồ Tát hành Tinh Tiến Ba La mật b́nh đẳng như hư không.

Nầy Hư Không Tạng! Thế nào là Bồ Tát hành Thiền Ba La mật b́nh đẳng như hư không? Bồ tát nếu thành tựu bốn pháp th́ hành Thiền Ba La mật b́nh đẳng với hư không:

Bồ Tát chuyên nhiếp nội tâm mà chẳng thấy có nội tâm, Bồ Tát ngăn tâm duyên các cảnh giới ngoài mà chẳng thấy có tâm ngoài hành xứ, Bồ Tát do tâm ḿnh b́nh đẳng nên biết tất cả chúng sanh tâm đều b́nh đẳng cũng chẳng y dựa hai pháp là tâm và b́nh đẳng, Bồ Tát tư duy pháp giới định tánh không có nhiếp thâu không có loạn tán biết tất cả pháp tánh không có hí luận. Thành tựu bốn pháp như vậy, Bồ Tát hành Thiền Ba La mật b́nh đẳng với hư không.

Nầy Hư Không Tạng! Nếu Bồ Tát thành tựu tám pháp th́ có thể tịnh Thiền Ba la mật:

Bồ Tát chẳng y dựa các ấm để tu thiền, chẳng y dựa các giới để tu thiền, chẳng y dựa các nhập để tu thiền, chẳng y dựa tam giới để tu thiền, chẳng y dựa hiện thế để tu thiền, chẳng y dựa hậu thế vể tu thiền, chẳng y dựa đạo để tu thiền, chẳng y dựa quả để tu thiền. Đây là Bồ Tát thành tựu tám pháp hay tịnh Thiền Ba La mật.

Nầy Hư Không Tạng! Như hư không không có dựa dính. Bồ Tát tu thiền không có y chỉ cũng như vậy. Như Hư Không không có ái luyến. Bồ Tát tu thiền không có nhiễm trước cũng như vậy. Như hư không không có dính mắc các kiến chấp. Bồ Tát tu thiền bỏ ĺa các kiến chấp cũng như vậy. Như hư không không có kiêu mạn. Bồ Tát tu thiền bỏ ĺa kiêu mạn cũng như vậy. Như hư không cứu cánh vô diệt. Bồ Tát tu thiền khéo nhập vào pháp tánh cứu cánh bất thối cũng như vậy. Như hư không chẳng thể phá hoại. Bồ Tát tu thiền chẳng hoại bổn tế cũng như vậy. Như hư không không có biến đổi. Bồ Tát tu thiền chẳng biến đổi như như cũng như vậy. Như hư không chẳng phải tâm rời ĺa tâm. Bồ Tát tu thiền rời ĺa tâm ư thức cũng như vậy.

Nầy Hư Không Tạng! Bồ Tát dùng tâm b́nh đẳng tu thiền chẳng phải tâm chẳng b́nh đẳng.

Thế nào là tâm b́nh đẳng? Nếu tâm chẳng cao chẳng hạ, không có cầu không chẳng cầu, không có tác không chẳng tác, không có phân biệt không chẳng phân biệt, không có hành không chẳng hành, không có thủ không có xả, không tối không sáng, vô tri vô niệm, không chẳng tri không chẳng niệm, chẳng một chẳng khác, chẳng phải hai chẳng phải chẳng hai, không có động không chẳng động, không có khứ không chẳng khứ, không có tu không chẳng tu, tâm chẳng duyên nơi tất cả cảnh giới, đây gọi là tâm b́nh đẳng.

V́ Bồ Tát tâm b́nh đẳng nên chẳng duyên lấy sắc bỏ ĺa nhăn và sắc hai pháp mà tu tập thiền. V́ tâm b́nh đẳng nên chẳng duyên lấy thanh hương vị xúc và pháp bỏ ĺa hai pháp ư và pháp mà tu tập thiền.

Nầy Hư Không Tạng! Như hư không lúc đại hỏa tai khởi lên chẳng đốt cháy được, lúc đại thủy tai khởi lên chẳng đẩy trôi được, Bồ Tát chẳng bị lửa lớn phiền năo đốt cháy, chẳng bị các thiền tam muội cuốn trôi đi thọ sanh, tự ḿnh không có định và loạn mà hay khiến chúng sanh loạn tâm được định, sở hành của ḿnh đă thanh tịnh mà chẳng bỏ tinh tiến, b́nh đẳng với hư không mà thị hiện sai biệt nhưng chẳng thấy tướng b́nh đẳng và bất b́nh đẳng, khéo hay khắp quán trí huệ chơn tánh tâm Bồ Tát chẳng bị ái kiến phiền năo che chướng, ở trong các pháp hành, thật hành không bị dính mắc b́nh đẳng với hư không. Đây là Bồ Tát hành Thiền Ba la mật b́nh đẳng với hư không vậy.

Nầy Hư Không Tạng! Thế nào là Bồ Tát hành Bát Nhă Ba la mật b́nh đẳng với hư không? Bồ Tát thành tựu bốn pháp th́ hành Bát Nhă Ba la mật b́nh đẳng với hư không.

Do v́ ngă tịnh nên Bồ Tát biết chúng sanh cũng tịnh, v́ trí tịnh nên biết thức cũng tịnh, v́ nghĩa tịnh nên biết văn tự cũng tịnh, v́ pháp giới tịnh nên biết tất cả pháp cũng tịnh. Đây là bốn pháp mà Bồ Tát thành tựu th́ hành Bát Nhă Ba la mật b́nh đẳng như hư không.

Nầy Hư Không Tạng! Nếu Bồ Tát thành tựu tám pháp th́ có thể tịnh Bát Nhă Ba la mật:

Bồ Tát tinh cần muốn đoạn dứt tất cả pháp bất thiện mà chẳng dính mắc đoạn kiến, Bồ Tát tinh cần muốn sanh tất cả pháp lành mà chẳng dính mắc thường kiến, Bồ Tát biết tất cả pháp hữu vi đều từ duyên sanh mà chẳng động nơi vô sanh pháp nhẫn, Bồ Tát phân biệt nói tất cả tự cú mà thường b́nh đẳng không có ngôn thuyết, Bồ Tát khéo biện tất cả pháp hữu vi vô thường khổ vô ngă mà nơi pháp giới tịch tĩnh chẳng động, hay khéo phân biệt các nghiệp sở tác mà biết tất cả pháp vô nghiệp vô báo, khéo hay phân biệt pháp cấu pháp tịnh mà biết tất cả pháp tánh thường tịnh, khéo hay suy lường tam thế các pháp mà biết các pháp không có quá khứ vị lai hiện tại. Đây là Bồ Tát thành tựu tám pháp hay tịnh Bát Nhă Ba la mật.

Nầy Hư Không Tạng! Như hư không chẳng phải hành chẳng phải không hành, Bồ Tát hành Bát Nhă Ba La mật ĺa tất cả hành cũng như vậy. Như hư không không ǵ phá hoại được, Bồ Tát hành Bát Nhă Ba la mật tất cả các ma không phá hoại được cũng như vậy. Như hư không tánh thường tịch tĩnh, Bồ Tát hành Bát Nhă giác kiến đều tịch tĩnh cũng như vậy. Như hư không tánh thường vô ngă, Bồ Tát hành Bát Nhă biết rơ vô ngă cũng như vậy. Như hư không tánh chẳng phải chúng sanh, Bồ Tát hành Bát Nhă rời ĺa kiến chấp chúng sanh cũng như vậy. Như hư không tánh không có thọ mạng, Bồ Tát hành Bát Nhă ĺa thọ mạng kiến cũng như vậy. Như hư không tánh không có nhơn. Bồ Tát hành Bát Nhă ĺa nhơn kiến cũng như vậy. Như hư không chẳng phải vật chẳng phải chẳng vật chẳng đặt tên hiệu được, Bồ Tát hành Bát Nhă rồi ĺa vật chẳng phải vật cũng như vậy.

Nầy Hư Không Tạng! Bát Nhă là cú nghĩa tịch tĩnh v́ không có tri giác vậy.
Bát Nhă là cú nghĩa vô tác v́ tự tướng thanh tịnh vậy.
Bát Nhă là cú nghĩa vô biến v́ không có hành tướng vậy.
Bát Nhă là cú nghĩa chơn thiệt v́ chẳng phát động vậy.
Bát Nhă là cú nghĩa chẳng khi dối v́ không có sai khác vậy.
Bát Nhă là cú nghĩa liễu đạt v́ nhập vào nhứt tướng vậy.
Bát Nhă là cú nghĩa thông minh v́ dứt tập khí vậy.
Bát Nhă là cú nghĩa đầy đủ v́ không có muốn cầu vậy.
Bát Nhă là cú nghĩa thông đạt v́ hay chánh kiến vậy.
Bát Nhă là cú nghĩa đệ nhứt v́ vô sở đắc vậy.
Bát Nhă là cú nghĩa b́nh đẳng v́ không có cao không có hạ vậy.
Bát Nhă là cú nghĩa lao cố v́ không ǵ phá hoại được vậy.
Bát Nhă là cú nghĩa bất động v́ không có sở y vậy.
Bát Nhă là cú nghĩa kim cương v́ không ǵ xô dẹp được vậy.
Bát Nhă là cú nghĩa đă độ v́ việc làm đă xong vậy.
Bát Nhă là cú nghĩa chơn tịnh v́ bổn tánh tịnh vậy.
Bát Nhă là cú nghĩa không tối v́ chẳng cậy sáng vậy.
Bát Nhă là cú nghĩa vô nhị v́ chẳng tích tụ vậy.
Bát Nhă là cú nghĩa tận v́ cứu cánh tận tướng vậy.
Bát Nhă là cú nghĩa vô tận v́ tướng vô vi vậy.
Bát Nhă là cú nghĩa vô vi v́ rời ĺa sanh diệt vậy.
Bát Nhă là cú nghĩa hư không v́ không có chướng ngại vậy.
Bát Nhă là cú nghĩa vô sở hữu v́ chơn thiệt thanh tịnh vậy.
Bát Nhă là cú nghĩa vô xứ v́ không có hành tích vậy.
Bát Nhă là cú nghĩa không có ổ hang v́ không chỗ dựa ỷ vậy.
Bát Nhă là cú nghĩa trí v́ không có thức phân biệt vậy.
Bát Nhă là cú nghĩa không hàng phục v́ không có bầy bọn vậy.
Bát Nhă là cú nghĩa vô thể v́ không có thọ thân h́nh vậy.
Bát Nhă là cú nghĩa tri kiến v́ biết khổ chẳng sanh vậy.
Bát Nhă là cú nghĩa đoạn dứt v́ biết tập chẳng ḥa hiệp vậy.
Bát Nhă là cú nghĩa diệt v́ cứu cánh vô sanh vậy.
Bát Nhă là cú nghĩa đạo v́ không có hai giác quán vậy.
Bát Nhă là cú nghĩa giác v́ giác b́nh đẳng vậy.
Bát Nhă là cú nghĩa pháp v́ cứu cánh bất biến vậy.

Nầy Hư Không Tạng! Bát Nhă nầy chẳng từ người mà được v́ là tri kiến tự chứng như tánh mà hiện hành vậy. Biết văn cú nghĩa như vang, ở nơi ngữ ngôn âm thanh tùy đáng nên mà đáp ứng biện thuyết chẳng dứt nhưng chẳng nắm dính văn tự ngôn thuyết. Đại Bồ Tát có thể ở trong tất cả ngôn thuyết khéo có thể báo đáp, biết các âm thanh ngôn thuyết như vang v́ hiểu là bất khả đắc vậy nên chẳng chấp trước cũng chẳng hí luận. Đây là Bồ Tát hành Bát Nhă Ba la mật b́nh đẳng với hư không"

Muốn sáng tỏ lại nghĩa nầy, Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Ĺa chấp trước mà làm bố thí
***
Thí xong rồi tâm không chướng ngại
Cũng chẳng có sanh ḷng phân biệt
V́ ngă tịnh nên thí thanh tịnh
V́ thí tịnh nên nguyện thanh tịnh
V́ nguyện tịnh nên Bồ Đề tịnh
V́ đạo tịnh nên tất cả tịnh
Không ngă tưởng không ngă sở tưởng
Rời ĺa ái ĺa các kiến chấp
Bỏ ĺa tất cả tướng bỉ ngă
Tâm bố thí dường như hư không
Bỏ ĺa tất cả tưởng mà thí
Không có tâm mong cầu báo đáp
Bỏ ĺa tâm tật đố kiết sử
Tâm bố thí như hư không kia
Hư không chẳng phải sắc không dựa
Không thọ không tưởng không phân biệt
Cũng không hành cũng không có thức
Lúc bố thí tâm như hư không
Như hư không lợi ích tất cả
Từ thỉ đến chung không cùng tận
Hiểu rơ pháp thí vô cùng tận
Lợi ích cho tất cả chúng sanh
Như hoá nhơn thí cho hoá nhơn
Chẳng trông mong sở thí được báo
Người có trí huệ thí cũng vậy
Trọn hẳn chẳng trông mong báo đáp
Dùng huệ dứt trừ các kiết sử
Phương tiện lực chẳng bỏ chúng sanh
Chẳng thấy có kiết sử chúng sanh
Bố thí như vậy đồng hư không
Biết rơ thân như tượng trong gương
Biết thanh âm như vang ứng tiếng
Biết rơ tâm như ảo như hóa
Pháp tánh vô ngại như hư không
Chẳng bỏ vô thượng đại Bồ Đề
Chẳng cầu Thanh Văn Duyên Giác thừa
Thường kính trọng hộ tŕ tịnh giới
Của tất cả chư Phật quá khứ
V́ chẳng quên bỏ bổn thệ nguyện
Nên có thể ở trong các loài
Khéo có thể thành tựu bổn nguyện
Nhiếp ư cần hộ tŕ tịnh giới
Như hư không không có hy vọng
Không nhiệt năo không có cao hạ
Không trược nhơ cũng không biến đổi
Người trí tŕ giới cũng như vậy
Như hư không dung thọ tất cả
Như trăng trong nước chẳng tŕ giới
Người hộ tŕ giới phải như vậy
Tịnh giới như hư không thủy nguyệt
Mắng chửi đánh đập cùng thù giận
V́ sức nhẫn nhục nên chẳng sân
Không thấy có ḿnh không có người
Do bỏ ĺa tưởng có kia đây
Nội tâm thuần chí thiện thanh tịnh
Cảnh hành ngoài đều cũng thanh tịnh
Do v́ thuần chí nên không sân
Tùy thuận pháp như hay nhẫn nhục
Rời ĺa các kiến như hư không
Bỏ giác quán cũng ĺa niệm tưởng
Không có nguyện không có hy vọng
Bỏ các hành pháp và sở thủ
Không có ái luyến như hư không
Chẳng cợt đùa chẳng hoài oán hận
Không có hí luận không cầu báo
Vô lậu nhẫn nhục là như vậy
Không người nhẫn không người mắng đánh
Tiếng người mắng chửi dường như vang
Là không thiệt cũng là vô thường
Không có những hí luận như vậy
Không nghĩ người ngu ta là trí
Không có sanh mà thị hiện sanh
Cũng vẫn không có phân biệt ấy
Đây là tu thành vô sanh nhẫn
Như nhánh sa la bị người chặt
Nhánh khác chẳng nghĩ không bị chặt
Thân bị chém đứt không phân biệt
Nhẫn nhục nầy tịnh như hư không
Siêng tu không sở y sở trụ
Cúng dường Phật không quan niệm Phật
Thọ tŕ chánh pháp chẳng trước văn
Độ chúng sanh không thấy chúng sanh
Thân nghiệp tịnh cũng tịnh pháp thân
Khẩu nghiệp tịnh không có ngôn thuyết
Tâm nghiệp tịnh không có ư hành
Đầy đủ tất cả Ba la mật
Đầy đủ pháp trợ Bồ Đề phần
Quốc độ thanh tịnh như hư không
Thành tựu biện tài đà la ni
Cầu được các Phật pháp như vậy
Như hư không chẳng mệt chẳng mỏi
Hay sanh trưởng cỏ cây lùm rừng
Đến khắp mọi nơi không h́nh sắc
Tinh tiến không mỏi như hư không
Hằng thường thanh tịnh như hư không
Không có thỉ cũng không có chung
Người tu tinh tiến cũng như vậy
Không có thỉ không có chung thành
Như người máy do gỗ tạo thành
Tất cả việc làm không phân biệt
Người tu hành không có hai tưởng
Tinh tiến như vậy như hư không
Biết xa ma tha trụ nội tâm
Nhiếp thâu tâm duyên cảnh giới ngoài
Tâm của ḿnh và tâm của người
Đây là y chỉ vô tâm thiền
Các pháp tánh thường không lặng vắng
Dùng vô lậu trí biết rơ được
Chẳng dựa ngũ ấm lục nhập giới
Cũng chẳng y chỉ trong ba cơi
Chẳng y chỉ quá vị hiện tại
Chẳng y chỉ đạo hành quả chứng
Như hư không kia thường vô y
Người tu thiền nầy cũng vô y
Hư không chẳng có ái kiến mạn
Người tu thiền cũng không phiền năo
Hư không chẳng thối chẳng hư biến
Người tu thiền cũng giống như vậy
Thường b́nh đẳng không tịch giải thoát
Người trí thường chẳng quan niệm giới
Không kiết sử cũng không có thiền
V́ vậy mà thiền như hư không
V́ ngă tịnh nên chúng sanh tịnh
V́ trí tịnh nên thức cũng tịnh
V́ nghĩa tịnh nên văn tự tịnh
V́ pháp tịnh nên giới cũng tịnh
Dứt pháp bất thiện và tập khí
Bực Đại Sĩ tích tập thiện căn
Nên biết hữu vi là duyên sanh
Nhưng chẳng trước vô sanh vô diệt
Khéo có thể phân biệt văn tự
Nói các pháp vô thường và khổ
Nhưng vẫn thị hiện thọ nghiệp báo
Nói có pháp cấu và pháp tịnh
Biết rơ pháp tánh cũng thanh tịnh
Mà suy lường quá vị hiện tại
Hư không không hành không chẳng hành
Huệ không có hành cũng như vậy
Như hư không chẳng ǵ phá được
Không có ngă nhơn không thọ mạng
Chẳng phải vật chẳng phải không vật
Bỏ dứt các chấp kiến nhị biên
Biết cú là giả nên chẳng nhiễm
Là bất biến cú chơn thiệt cú
Là măn túc cú thông đạt cú
Liễu đạt nhứt nghĩa và huệ cú
B́nh đẳng bất động lao cố cú
Kim cương dĩ độ chơn tịnh cú
Thông minh cú tận vô tận cú
Là vô vi cú hư không cú
Không xứ không ổ không thức biệt
Không hàng phục vô thể là trí cú
Không tập không diệt không đạo cú
Là pháp là giác trí huệ cú
Như vang kia ứng theo thanh âm
Bồ Tát vô tận biện cũng vậy
Thuyết pháp vô y vô sở đắc
Bát Nhă nầy tịnh như hư không.

Lại nầy Hư Không Tạng! Thế nào là Bồ Tát hành công đức b́nh đẳng với hư không?

Bồ Tát v́ nghe Phật vô lượng pháp rộng lớn như hư không nên phát tâm Nhứt thiết trí, nghĩ rằng Bồ Đề vô lượng, Phật vô lượng, tự tại giác vô lượng, trong vô lượng như vậy sanh ra vô lượng lạc dục tinh tiến bất phóng dật hạnh, v́ Phật đạo mà phải hành vô lượng pháp sở hành của Bồ Tát. Tại sao? V́ như chư Phật có vô lượng công đức trang nghiêm nơi thân, ta cũng v́ trang nghiêm nơi thân mà phải thành tựu vô lượng thiện căn. Như chư Phật có vô lượng công đức trang nghiêm khẩu, trang nghiêm ư, trang nghiêm đạo tràng, trang nghiêm Phật độ, ta cũng v́ trang nghiêm khẩu, trang nghiêm ư, trang nghiêm đạo tràng, trang nghiêm quốc độ nên phải thành tựu vô lượng thiện căn. Ta phải giáo hóa vô lượng chúng sanh để thành tựu thiện căn. V́ thành tựu thiện căn nên ta ở trong vô lượng sanh tử chẳng hề mỏi nhàm. Chư Phật Thế Tôn có vô lượng quốc độ, vô lượng trí huệ, vô lượng thần thông, các chúng sanh ấy có vô lượng hạnh, vô lượng tâm, vô lượng các căn sai biệt, ở trong sanh tử thọ vô lượng khối khổ năo phát khởi các phiền năo, ta v́ nhập vô lượng Phật pháp, v́ bỏ sở hành các căn khối sanh tử khổ năo của vô lượng chúng sanh nên thành tựu vô lượng thiện căn. Bồ Tát dùng tâm chánh chơn quán sát những công đức được làm tương ưng với các Ba la mật, tương ưng với Tứ nhiếp pháp, tương ưng với Tứ vô lượng tâm, tương ưng với pháp trợ Bồ Đề, thành tựu chúng sanh thọ tŕ chánh pháp cúng dường chư Phật Thế Tôn và tịnh pháp sở hành tương ưng của Bồ Tát, vô lượng công đức được làm như vậy b́nh đẳng với hư không, v́ chúng sanh tánh vô lượng, v́ Phật trí huệ vô lượng, v́ pháp giới vô lượng, nên chỗ tu hành cũng vô lượng như hư không. Chúng sanh tánh, Phật trí huệ trong pháp giới không chỗ nào chẳng đến nên tất cả chúng sanh đều được nhờ lợi ích. Cũng vậy, công đức của Bồ Tát làm đến tất cả chỗ lợi ích cho chúng sanh, v́ không dựa dính vậy, v́ sức nguyện phương tiện vậy. Đây là Bồ Tát hành công đức b́nh đẳng với hư không như vậy.

Nầy Hư Không Tạng! Thế nào là Bồ Tát hành trí b́nh đẳng với hư không?

Bồ Tát theo thiện tri thức được nghe chánh pháp rồi, khéo thuận tư duy, các hạnh được làm trọn không phóng dật tu ít cảnh giới tưởng rồi thọ vô lượng tưởng, thọ vô lượng tưởng rồi được trí sáng như vậy, được trí sáng ấy rồi được chư ấm phương tiện trí, được chư giới phương tiện trí, được chư đế phương tiện trí, được chư duyên phương tiện trí, biết chúng sanh cấu cũng biết cấu tánh, biết chúng sanh tịnh cũng biết tịnh tánh. Đó là chúng sanh có nhiễm tâm th́ như thiệt biết là có nhiễm tâm, chúng sanh không nhiễm tâm th́ như thiệt biết là không có nhiễm tâm. Chúng sanh có sân tâm hay không sân tâm th́ như thiệt biết là có sân tâm hay là không sân tâm, chúng sanh có si tâm hay không si tâm th́ như thiệt biết là có si tâm hay là không si tâm, chúng sanh có phiền năo tâm hay không phiền năo tâm th́ như thiệt biết là có phiền năo tâm hay là không phiền năo tâm. Bồ Tát không thấy người có cấu tâm là hèn kém và người không cấu tâm là thắng nhơn, tại sao, v́ Bồ Tát nhập vào pháp môn trí bất nhị tánh thanh tịnh. Như pháp tánh bất nhị thanh tịnh th́ ngă tánh cũng vậy, như ngă tánh th́ vô ngă tánh cũng vậy, như vô ngă tánh th́ tất cả các pháp cũng vậy, v́ tánh thường thanh tịnh vậy. Nếu nhập vào tất cả pháp tánh thanh tịnh th́ chẳng thấy các pháp có cấu có tịnh, cũng chẳng thấy các pháp văn tự tướng mạo v́ chẳng thọ chẳng trước vậy cũng chẳng thấy các pháp chướng ngại cái triền cũng chẳng chướng ngại cái triền.

Bồ Tát tư duy vô lượng cảnh giới rời ĺa tâm thức hai pháp th́ gọi là trí chẳng kêu là thức.

Như hư không có tâm ư thức, cũng vậy Bồ Tát rời ĺa tâm ư thức biết các pháp tánh b́nh đẳng với hư không trí hành vô ngại v́ quá các chướng ngại vậy. Đây gọi là Bồ Tát hành trí b́nh đẳng với hư không.

Nầy Hư Không Tạng! Thế nào là Bồ Tát thành tựu niệm Phật chẳng rời ĺa như như được Đức Như Lai hứa khả?

Bồ Tát hoặc ở a lan nhă, hoặc ở dưới cây, hoặc ở rừng hoang vắng, hoặc ở chỗ lộ thiên, v́ đă được định lực nên hay nhiếp tâm chẳng trụ trước các cảnh duyên, do tâm chẳng tán loạn nên khéo nhiếp sở niệm, dùng hành tướng quán Phật ba mươi hai tướng, tám mươi tùy hảo trang nghiêm nơi thân, quán lấy mỗi mỗi tướng hảo để thành tựu thân của ḿnh. Tâm hướng về bực Nhứt Thiết Trí, nơi thân Như Lai ghi nhớ ṿng lưới quang minh được phóng ra. Bồ Tát do được giải hy vọng nên quán thân Như Lai đầy một do tuần, hoặc hai ba bốn năm do tuần, hoặc mười đến trăm do tuần, hoặc quá trăm do tuần. Bồ Tát do được giải hy vọng nên quán Phật ngồi đạo tràng, hoặc thấy chuyển pháp luân, hoặc thấy hiện các thứ oai nghi thuyết pháp giáo hóa điều phục chúng sanh, hoặc thấy Đức Như Lai nơi một thế giới làm Phật sự, hoặc hai ba bốn đến mười thế giới làm Phật sự, hoặc hai ba bốn đến mười thế giới làm Phật sự hoặc trăm ngàn đến nơi giải hy vọng nên quán tự thấy tùy ư: Hoặc thấy ḿnh nghe pháp cúng dường chư Phật Thế Tôn, nơi các oai nghi khác đều tự thấy tùy ư tự tại.

Bồ Tát quán sắc thân Như Lai như vậy rồi ghi nhớ Phật công đức: Hoặc quán tịnh giới, quán chánh định, quán chánh huệ, quán chánh giải thoát và giải thoát tri kiến, hoặc quán lực vô sở úy bất cộng pháp, hoặc quán bổn hành của Bồ Tát, hoặc quán thành tựu Phật Địa.

Bồ Tát khắp ghi nhớ Như Lai thành tựu công đức rồi ghi nhớ Như Lai nghiệp có tướng mạo ǵ, tạo nghiệp thế nào, là thân tạo hay khẩu tạo, ư tạo, là oai nghi tạo ư, là thấy được hay chẳng thấy được ư, là nói được hay chẳng nói được ư, tạo tại nước nào, bao nhiêu loại thân h́nh tạo ư. Bồ Tát ghi nhớ Như Lai thành tựu thắng nghiệp chẳng thể nghĩ bàn các thiện căn rồi quán tưởng Như Lai pháp: Chư Phật Thế Tôn do pháp thân nên gọi là Như Lai chớ chẳng do sắc thân. Bồ Tát chẳng thấy sắc là Như Lai, chẳng thấy tướng là Như Lai, chẳng thấy chủng tánh là Như Lai, chẳng thấy ấm giới nhập là Như Lai, chẳng thấy oai nghi là Như Lai, chẳng thấy đời quá khứ vị lai hiện tại là Như Lai, chẳng thấy nhơn cũng chẳng thấy duyên là Như Lai, chẳng thấy sở dĩ là Như Lai, chẳng thấy ḥa hiệp là Như Lai, chẳng thấy hữu là Như Lai, chẳng thấy vô là Như Lai, chẳng thấy thành tựu là Như Lai, chẳng thấy bại hoại là Như Lai, chẳng thấy kia là có Như Lai chẳng thấy đây là có Như Lai, chẳng thấy Như Lai ở chỗ nào, chẳng thấy Như Lai chẳng cậy dựa Như Lai, chẳng phân biệt Như Lai, chẳng có được Như Lai.

Như hư không không có tên ấm giới nhập nhưng chẳng phải chẳng lợi ích chúng sanh, chư Phật Thế Tôn không có tên ấm giới nhập mà thường lợi ích các chúng sanh. Đây là Bồ Tát chẳng rời ĺa như như niệm Phật được Như Lai hứa khả.

Nầy Hư Không Tạng! Thế nào là Bồ Tát chẳng rời như như niệm pháp được Như Lai hứa khả?

Các pháp được Bồ Tát niệm là Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ư túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác phần, Bát thánh đạo phần, Tam giải thoát môn, Tứ thánh đế thậm thâm, Thập nhị nhơn duyên thậm thâm, lục Ba la mật, pháp tạng mà Bồ Tát phải học, bất thối chuyển luân và tịnh ba cảnh. Đây là pháp mà Bồ Tát phải niệm.

Phải niệm thế nào?

Bồ Tát niệm xả, niệm muốn rời ĺa, niệm diệt mất, niệm không lai không khứ, niệm không ổ hang, niệm không có tự tánh, niệm xuất thế gian, niệm hiểu suốt, niệm tận, niệm vô sanh, niệm vô thủ, niệm vô lậu, niệm vô vi, niệm Niết Bàn không có tự tánh.

Bồ Tát nghĩ rằng ở trong các pháp c̣n có pháp tưởng, tại sao, v́ có tưởng th́ có động niệm, v́ có động niệm th́ c̣n điên đảo,v́ c̣n điên đảo th́ không có niệm pháp. Nếu rời ĺa niệm pháp và phi pháp hai tưởng ấy th́ biết các pháp là vô sanh. V́ đă đoạn dứt pháp tưởng nên được vô sanh nhẫn được vô sở đắc, v́ là vô sở hữu vậy. Đây là Bồ Tát chẳng rời như như niệm pháp được Như Lai hứa khả.

Nầy Hư Không Tạng! Thế nào là Bồ Tát chẳng rời ĺa như như niệm Tăng được Như Lai hứa khả?

Tăng là bốn đôi tám bọn trong Tăng, hoặc là A La Hán hướng A La Hán quả, hoặc là A Na Hàm hướng A Na Hàm quả, hoặc là Tư Đà Hàm hướng Tư Đà Hàm quả, hoặc Tu Đà Hoàn hướng Tu Đà Hoàn quả. Đây là Thanh Văn Tăng.

Lại c̣n có Tăng là Bồ Tát được bất thối chuyển, được quyết định nhẫn thượng thánh chánh vị, đă rời ĺa các tướng ỷ thị chấp trước và hí luận, kế thứ được Như Lai công đức vô gián. Bồ Tát ấy nghĩ rằng chúng đại Bồ Tát như vậy đáng cúng dường tán thán chắp tay hầu hạ hữu nhiễu lễ kính, đây là phước điền lành tốt, là đệ nhứt Tăng nhập vào số Thánh chúng, những sự việc mà Tăng phải làm đều đă hoàn thành xong. Bồ Tát ấy niệm Tăng thường thân cận Bồ Tát Tăng mà chẳng thân cận Thanh Văn Tăng. Bồ Tát ấy dầu niệm Tăng mà chẳng lấy Tăng số, chẳng lấy có số biết Tăng, đây là vô vi niệm, vô hành niệm, vô biến dị niệm, vô sanh niệm, vô diệt niệm. Khởi niệm như vậy chẳng sanh tâm hành cảnh giới. Đây là Bồ Tát chẳng ĺa như như niệm Tăng được Như Lai hứa khả vậy.

Nầy Hư Không Tạng! Thế nào là Bồ tát chẳng rời ĺa như như niệm xả được Như Lai hứa khả?

Xả ấy là xả của cải xả thiện pháp, xả thân, xả mạng, xả tất cả tà pháp tà đạo. C̣n có xả chẳng lấy tất cả pháp, tại sao? V́ nếu có thủ th́ không có xả. Nếu chẳng thủ lấy th́ gọi là cứu cánh xả. Trong cứu cánh xả th́ không có cầu, không cầu th́ không mong báo đáp. Không mong báo th́ gọi là chơn thiệt xả.

Nếu Bồ Tát hành kiên cố xả như vậy, tùy nơi xả mà phát nguyện. Nếu lúc xả và lúc phát nguyện chẳng thấy Bồ Đề và Phật pháp mà chuyên niệm xả, nhớ chư Bồ Tát quá khứ lúc hành đạo Bồ Tát hành xả thế nào, nay ta hành xả thế nào, có phải là chẳng bằng mà bị người trí chê chăng. Và Bồ Tát có thể xả tất cả. Xả rồi suy gẫm rằng: Trong sự xả ấy, ai là người xả, xả những vật ǵ, ai ghi nhớ xả ấy. Suy gẫm như vậy rồi th́ đều trọn vô sở đắc, chẳng thấy có người xả, vật xả và kẻ ghi nhớ. Đây là Bồ Tát chẳng ĺa như như niệm xả được Phật hứa khả.

Nầy Hư Không Tạng! Thế nào là Bồ Tát chẳng rời ĺa như như niệm giới được Như Lai hứa khả?

Bồ Tát tŕ giới đến chỗ giải thoát oai nghi hạnh thành tựu, nhẫn đến giới vi tế sợ như kim cương, thường tu tịnh mạng khéo hộ tŕ giới. Bồ Tát tự niệm giới nhiếp thân khẩu là vô tác tướng mà cẩn thận phụng hành tu thắng chánh mạng, nơi Nhứt thiết trí tâm trọn chẳng phế bỏ, thuần chí bất động cũng trọn chẳng bỏ đại từ đại bi nhiếp thủ giáo hối chúng sanh phá giới. Thường tự nghĩ thà bỏ thân mạng chớ chẳng cầu các thừa khác. Đây gọi là giới. Bồ Tát thường niệm thắng giới, giới không có vết không có khuyết, giới chẳng hoang uế, giới chẳng mong cầu, giới chẳng ô nhiễm, giới không đục nhơ, giới mà người trí khen trọng, Bồ Tát niệm những giới như vậy, chẳng cậy tŕ giới, chẳng chê phá giới, chẳng khoe ḿnh tốt, chẳng khi người lỗi, Bồ Tát trọn chẳng xả giới, chẳng y dựa giới cũng chẳng trụ nơi giới. Dầu bỏ tất cả các sự ỷ cậy trụ trước mà thật hành công hạnh lành tốt nơi sắc tướng. Đây là Bồ Tát chẳng ĺa như như niệm giới được Như Lai hứa khả.

Nầy Hư Không Tạng! Thế nào là Bồ Tát chẳng rời ĺa như như niệm thiên được Như Lai hứa khả?

Niệm thiên là hoặc niệm Dục giới thiên hoặc niệm Sắc giới thiên, hoặc niệm Vô sắc giới thiên.

Niệm Dục giới thiên v́ là quả báo của tŕ giới, nơi ấy hưởng thọ sắc, thanh, hương, vị, xúc, thích ư, do thiên ngũ dục mà dạo chơi vui vẻ, thiên y phục, thiên ẩm thực đều tùy ư đầy đủ, một bề hưởng thọ sự vui thương yêu mừng rỡ thỏa ư. Với sự việc trên, Bồ Tát nghĩ rằng tất cả những sự hưng thạnh ấy rồi sẽ đều suy tàn diệt mất, hàng chư Thiên ấy cũng sẽ vô thường biến đổi do v́ họ phóng dật nên chẳng tu tạo thiện căn, thiện nghiệp đă có từ trước nay đều lần lần sẽ hết. Dầu hiện nay họ được sanh ở cơi trời nhưng chưa thoát khỏi phần địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Suy nghĩ như vậy rồi, Bồ Tát chẳng hy vọng sanh về các cơi Trời Dục giới, duy trừ cung Trời Đâu Suất. Trong cung Trời Đâu Suất có bực nhứt sanh bổ xứ Bồ Tát nơi tất cả công hạnh Bồ Tát đă đến cứu cánh, tất cả các địa, tất cả thần thông, tất cả các định, tất cả đà la ni, tất cả biện tài, tất cả sự việc Bồ Tát tất cả phương tiện đều đă cứu cánh. Chỉ do ghi nhớ các công đức như vậy nên với cung Trời Đâu Suất ḷng Bồ Tát ấy sanh hân ngưỡng, nếu muốn sanh về cơi trời th́ nên sanh trong cơi Trời Đâu Suất tự nghĩ rằng lúc nào tôi sẽ được thân trời như vậy.

Bồ Tát lại niệm chư thiên cơi Sắc, đây là quả báo của các thiền các vô lượng tâm. Sanh về cơi Sắc rồi th́ vượt quá khổ họa dục nhiễm của cơi Dục, nhứt tâm ở trong thiền dùng hỉ làm thực, một bề biết là thọ báo vui đệ nhứt. Bồ Tát ấy suy nghĩ rằng chư Thiên cơi Sắc hưởng thọ chút ít thiền vị dùng làm hoan hỉ, vô thường mà quan niệm thường, nơi khổ quan niệm vui, nơi vô ngă quan niệm ngă, nơi không phải Niết Bàn mà quan niệm là Niết Bàn. Chư Thiên cơi Sắc cũng có vô thường biến đổi, chưa thoát khỏi phần địa ngục ngạ quỷ súc sanh. Suy nghĩ như vậy rồi, Bồ Tát ấy chẳng nguyện sanh về cơi Sắc, duy trừ Tịnh Cư Thiên chính nơi trời ấy nhập Niết Bàn chẳng trở lại sanh trong cơi Dục nữa. Bồ Tát nghĩ rằng đây là chư Thiên thanh tịnh đă thoát khỏi lưu chuyển sanh tử trong năm loài, do đây mà Bồ Tát ấy sanh ḷng kính trọng Trời Tịnh Cư nhưng chẳng nguyện cầu sanh về cơi trời ấy.

Bồ Tát lại niệm chư Thiên cơi Vô Sắc thọ quả báo của Vô Sắc định đă quá Dục giới và Sắc giới, Trời Vô Sắc nầy tâm ở nơi tịch định. Bồ Tát ấy nghĩ rằng hàng chư Thiên cơi Vô Sắc nầy dầu thấy Phật nghe Pháp và cúng dường Tăng mà chư Thiên Vô Sắc chẳng biết cầu pháp ra khỏi cơi Vô Sắc, dầu trụ được lâu nhưng khi thời gian măn rồi cũng vẫn biến đổi hoại diệt chưa thoát khỏi phần địa ngục ngạ quỷ súc sanh, do đây mà Bồ Tát ấy chẳng nguyện sanh về Trời Vô Sắc mà chỉ quan niệm ta sẽ làm bực trời trong các trời là bực Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri. Bồ Tát ấy dầu niệm chư Thiên mà chẳng y dựa các cơi Trời Dục, Sắc, Vô Sắc, đối với chúng sanh trong ba cơi ấy phát khởi tâm đại bi cứu độ họ ra khỏi sanh tử lưu chuyển trong năm loài. Đây là Bồ Tát chẳng rời như như niệm thiên được Như Lai hứa khả vậy.

Lại nầy Hư Không Tạng! Thế nào là Bồ Tát hành các pháp b́nh đẳng như Niết Bàn?

Bồ Tát biết nhập các pháp b́nh đẳng như Niết Bàn, thấy tất cả chúng sanh tánh đồng Niết Bàn, biết người đă nhập Niết Bàn không có ấm giới nhập. Bồ Tát như vậy thấy chúng sanh tánh đồng Niết Bàn quá các ấm giới nhập, thấy như bóng trong gương, như cảnh trong mộng không có sanh tử mà hiện sanh tử. Phàm phu chúng sanh nhơn nơi kiết sử phiền năo gây tạo các nghiệp, tạo phiền năo nghiệp rồi thọ vô lượng khổ báo. Bồ Tát do sức Bát Nhă Ba la mật nên khéo quán kiết sử đoạn dứt nó khiến nó chẳng sanh, cũng chẳng c̣n nhơn v́ kiết sử mà tạo nghiệp để thọ khổ báo đến được nơi Niết Bàn b́nh đẳng gọi đó là vô vi siêu quá tất cả toán số trí đạo. V́ chẳng bỏ bổn nguyện nên du hí đại từ, đă đến huệ phương phương tiện cứu cánh, đă nhập Phật thần thông lực, đă có thể khéo biết phân biệt các tưởng, tự ḿnh được độ hóa độ kẻ chưa được độ, tự ḿnh đă giải thoát rồi giải thoát cho người chưa được giải thoát, tự ḿnh đă được an làm an cho người chưa được an, tự ḿnh được Niết Bàn làm cho người chưa được Niết Bàn khiến họ được Niết Bàn. Với Niết Bàn và sanh tử không quan niệm có hai, đây là Bồ Tát hành các pháp b́nh đẳng như Niết Bàn vậy.

Nầy Hư Không Tạng! Thế nào là Bồ Tát khéo phân biệt hành tướng?

Bồ Tát chuyên cần tinh tiến cầu pháp thắng thiện, nơi pháp môn thậm thâm tâm nhập suy lường thanh tịnh thông thạo rộng lớn huệ sáng được môn đại trí minh. Dùng sức đại trí minh môn ấy biết rơ tâm hành cảnh giới của tất cả chúng sanh, tổng nói mỗi chúng sanh có tám vạn bốn ngàn tâm hành, tất cả đều có thể rơ biết. Đó là tâm hành tham dục có hai vạn một ngàn, tâm hành sân hận có hai vạn một ngàn, tâm hành ngu si có hai vạn một ngàn, tâm hành đẳng phần có hai vạn một ngàn, cộng là tám vạn bốn ngàn tâm hành, mỗi chúng sanh đều có những tâm hành ấy, nếu phân biệt nói rộng th́ có đến vô lượng tâm hành. Trong mỗi hành tướng môn ấy biết có tám vạn bốn ngàn căn môn. Trong mỗi căn môn ấy biết có tám vạn bốn ngàn những tri giải sai biệt. Bồ Tát biết hết các hành tướng các căn môn các tri giải tướng sai biệt, biết các tướng nên được tu tập.

Thế nào là biết tướng sai biệt?

Bồ Tát biết các hành các căn các giải ấy hoặc là tướng tham dục, là tướng sân hận, là tướng ngu si, là tướng đẳng phần, là tướng tăng, là tướng giảm, là tướng trụ, là tướng đạt. Đây gọi là biết tướng sai biệt.

Thế nào là biết tướng nên được tu tập?

Bồ Tát biết các hành các căn các giải ấy là tướng vô thường, là tướng khổ, là tướng vô ngă, là tướng không, là tướng tịch diệt, là tướng ly, là tướng như thiệt, là tướng Niết Bàn, là tướng tướng tự không, là tướng tướng tự ly. Nếu có thể biết các hành các căn các giải như vậy. Như Đức Như Lai thành tựu chư hành vô chướng ngại trí biết rơ tất cả chúng sanh các hành các căn các giải tướng sai biệt, Bồ Tát cũng kế thứ trí Như Lai biết rơ mà chẳng bỏ nên Bồ Tát sở hành giáo hóa chúng sanh không có mỏi mệt. Đây gọi là Bồ Tát khéo phân biệt hành tướng vậy.

Nầy Hư Không Tạng! Thế nào là Bồ Tát thọ tŕ tạng pháp bửu của chư Phật Như Lai?

Như Lai pháp bửu tạng là vô tận cũng là vô lượng đến tất cả chỗ làm vui đẹp tất cả chúng sanh.

Như chúng sanh các hành các căn các giải số đến vô lượng a tăng kỳ bất khả tư nghị bất khả xưng bất khả lượng, chư Phật Như Lai pháp bửu tạng vô lượng a tăng kỳ bất khả tư nghị bất khả xưng bất khả lượng cũng như vậy.

Văn tự pháp bửu tạng của Phật, giả sử tất cả chúng sanh đồng như A Nan trong một kiếp đến trăm kiếp cũng chẳng thể thọ tŕ đọc tụng thông thuộc các nghĩa được. Tại sao, v́ Phật pháp bửu tạng chỉ có một nghĩa, đó là nghĩa ly dục, nghĩa tịch diệt, nghĩa Niết Bàn.
Nếu Bồ Tát nghe Như Lai pháp bửu tạng rồi tùy khả năng được thọ rồi thọ tŕ đọc tụng thông thạo, khéo thuận tốt chánh quán rồi như sở thọ mà hành. Bồ Tát nhập vào pháp tạng môn kiên tŕ suy gẫm chẳng y dựa tất cả tướng hành th́ được đà la ni môn tam muội môn. Khi được đà la ni môn tam muội môn rồi th́ có thể thọ tŕ văn tự và nghĩa pháp bửu tạng của một Như Lai, hoặc của hai Như Lai, hoặc của ba bốn đến mười Như Lai, hoặc của trăm, của ngàn vạn cho đến vô lượng vô biên a tăng kỳ bất khả tư nghị bất khả xưng bất khả lượng chư Như Lai. Nơi pháp bửu tạng của tất cả chư Phật, Bồ Tát ấy tâm chẳng tán loạn thọ tŕ đọc tụng thông thạo văn tự và nghĩa rộng v́ mọi người mà giải nói. Bồ Tát ấy y nghĩa chẳng y văn, tịnh ư thành tựu pháp được nghe mà diễn nói nhẫn đến chẳng sai sót một câu văn nghĩa, có thể tịnh môn biện tài khéo hay thuyết pháp vui đẹp ḷng đại chúng, được chư Phật khen ngợi cũng hay hàng phục các ma ngoại đạo và cung kính cúng dường Tam bửu, nhẫn đến chẳng thấy có một pháp khác với pháp tánh, chẳng hư hoại bổn tế, chẳng động như như pháp tánh được giác ngộ của Như Lai, v́ biết tất cả pháp tánh như là sở giác của Như Lai, nhẫn đến chẳng thấy có một pháp nào là chẳng nhập vào Phật pháp. Tại sao, v́ Như Lai biết tất cả pháp tánh như ảo huyễn v́ không có thành tựu vậy, biết tất cả pháp tánh như dă mă v́ vô sở thủ vậy, biết tất cả pháp tánh như tượng trong gương v́ chẳng đến kia vậy, biết tất cả pháp tánh như mộng v́ chẳng chơn thiệt vậy, biết tất cả pháp tánh như vang v́ theo duyên mà khởi vậy, biết tất cả pháp tánh là rỗng không v́ hư giả không thiệt vậy, biết tất cả pháp tánh vô tướng v́ vô phân biệt vậy, biết tất cả pháp tánh vô nguyện v́ không có phát động vậy.

Đức Như Lai như thiệt biết tất cả pháp tánh là tướng như vậy. Bồ Tát biết tất cả pháp tánh không có tánh có thể thọ tŕ pháp bửu tạng của Phật nhẫn đến tất cả chẳng phải niệm nhớ chẳng phải chẳng niệm nhớ. Đây là Bồ Tát thọ tŕ chư Phật pháp bửu tạng.

Nầy Hư Không Tạng! Thế nào là Bồ Tát biết các chúng sanh từ vô thỉ đến nay thường thanh tịnh mà giáo hóa chúng sanh?

Bồ Tát v́ giáo hóa tất cả chúng sanh nên lúc tu đại từ đại bi suy nghĩ rằng: Những ǵ là chúng sanh? Các chúng sanh ấy chỉ là danh tự giả là điên đảo hư giả mà gọi là chúng sanh thôi. Tất cả chúng sanh bổn tế thanh tịnh cứu cánh vô sanh vô khởi, chỉ nhơn hư vọng ngu si mà tạo gây các thứ nghiệp, gây tạo nghiệp rồi thọ vô lượng ưu bi khổ năo. Như có người trong giấc mộng cướp trộm tài vật của người bị nhà vua bắt trị phạt khốn khổ. Chiêm bao thấy ḿnh làm kẻ giặc cướp hư vọng nhớ tưởng chịu các khổ năo tự nghĩ rằng lúc nào tôi sẽ thoát được khổ năo nầy. Người ấy ở trong giấc mộng thiệt ra không có sự việc ǵ không có hay giác tri. Tất cả phàm phu và tất cả pháp đều cũng như mộng không có giác tri, v́ bị điên đảo che chướng mà phải thọ lấy vô lượng vọng tưởng ưu bi khổ năo cũng như vậy. Bồ Tát suy nghĩ rằng: Các chúng sanh ấy tôi phải khiến họ như thiệt giác tri các pháp cho họ thoát khỏi vọng tưởng khổ năo, ở trong tất cả chúng sanh cũng chẳng thấy chúng sanh tánh nhưng vẫn chẳng bỏ đại bi thường giáo hóa chúng sanh. Đây là Bồ Tát phân biệt chúng sanh từ trước đến nay thường thanh tịnh mà giáo hóa họ.

Nầy Hư Không Tạng! Thế nào là Bồ Tát khéo tùy thuận phát khởi công hạnh thành tựu Phật pháp?

Bồ Tát nghe Phật pháp tối thắng thậm thâm vi diệu ở trong thế gian rồi phát khởi đại nguyện tinh tiến rằng: Tôi phải thành tựu Phật pháp tối thắng thậm thâm vi diệu ở trong thế gian. Khéo tư duy phân biệt như vầy: Là những pháp ǵ tương ưng với những pháp ǵ? Là những pháp ǵ biết những pháp ǵ? Bồ Tát lại suy nghĩ rằng: Không có pháp ǵ tương ưng với pháp cũng không có pháp ǵ chẳng tương ưng với pháp, không có pháp biết pháp cũng không có pháp chẳng biết pháp, v́ các pháp tánh ấy là độn tánh là vô tánh. Các pháp ấy đều từ nhơn duyên sanh không có định chủ mà có thể tùy ư trang nghiêm có các thứ tướng quả báo. V́ các pháp vô tánh nên bố thí là trang nghiêm tướng đại phú. Bố thí được đại phú v́ quả chẳng ĺa nhơn vậy. Bố thí chẳng biết đại phú và đại phú cũng chẳng biết được bố thí. Tŕ giới là trang nghiêm tướng sanh Thiên, tŕ giới được sanh Thiên v́ quả chẳng ĺa nhơn vậy. Đa văn là trang nghiêm tướng trí huệ, đa văn được trí huệ v́ quả chẳng ĺa nhơn vậy. Tư duy là trang nghiêm tướng đoạn dứt kiết sử, tư duy th́ được đoạn dứt kiết sử v́ quả chẳng ĺa nhơn vậy. Tư duy chẳng biết được đoạn kiết và đoạn kiết cũng chẳng biết được tư duy.

Bồ Tát nhớ niệm các pháp vô sanh có thể trang nghiêm tướng như vậy nên bố thí rồi hồi hướng Nhứt thiết trí thành tựu hạnh Đàn Ba la mật, Bồ Tát Đàn Ba la mật ấy có thể đầy đủ được Phật pháp.

Bồ Tát tŕ giới hồi hướng Nhứt thiết trí thành tựu hạnh Thi la Ba la mật. Bồ Tát Thi la Ba la mật có thể đầy đủ được Phật pháp.

Bồ Tát tu nhẫn nhục hồi hướng nhứt thiết trí thành tựu hạnh Sằn đề Ba la mật. Bồ Tát Sằn đề Ba la mật ấy có thể đầy đủ được Phật pháp.

Bồ Tát tu tinh tiến hồi hướng Nhứt thiết trí thành tựu hạnh Tỳ lê gia Ba la mật. Bồ Tát Tỳ lê gia Ba la mật ấy có thể đầy đủ được Phật pháp.

Bồ Tát nhập thiền định hồi hướng Nhứt thiết trí thành tựu hạnh Thiền Ba la mật. Bồ Tát Thiền Ba la mật ấy có thể đầy đủ được Phật pháp.

Bồ Tát thanh tịnh Bát Nhă hồi hướng Nhứt thiết trí thành tựu hạnh Bát Nhă Ba la mật. Bồ Tát Bát Nhă Ba la mật ấy có thể đầy đủ được Phật pháp.

Lúc Bồ Tát khéo tùy thuận phát khởi công hạnh như vậy chẳng thấy có một pháp nào không có nhơn không có duyên mà sanh, Bồ Tát cũng chẳng trụ trước nơi nhơn duyên, tự khéo tùy thuận nhập vào tất cả pháp tánh.

Như ngă vô sanh vô khởi, tất cả pháp vô sanh vô khởi cũng như vậy.

Như ngă rỗng không, tất cả pháp rỗng không cũng như vậy.

Như ngă ly, tất cả các pháp ly cũng như vậy.

Bồ Tát biết tất cả các pháp nhập vào b́nh đẳng như tánh, chẳng phải tạo tác chẳng phải chẳng tạo tác. Đây là Bồ Tát khéo thuận phát hạnh thành tựu Phật pháp vậy.

Nầy Hư Không Tạng! Thế nào là Bồ Tát bất thối thần thông nơi các Phật pháp đều được tự tại?

Bồ Tát giới thân chơn tịnh tâm định chẳng động được đại trí quang minh, đă thành tựu tư lương phước đức và trí huệ, đă được cứu cánh các Ba la mật, đă thành tựu tứ nhiếp pháp, đă tu bốn phạm hạnh, đă tu dục tiến niệm định bốn như ư túc. V́ khéo tu tứ thần túc nên được ngũ thần thông. V́ Bồ Tát bổn nghiệp thanh tịnh, v́ siêng tinh tiến chẳng bỏ phế, v́ thường chẳng tán loạn hành, v́ khéo phục các kiết sử, v́ ĺa tâm niệm Thanh Văn Bích Chi Phật, v́ thọ tŕ phương tiện, v́ duyên đến các pháp bực trên, v́ vô ngă vô y hành, do đây mà Bồ Tát chẳng thối thần thông, nên Bồ Tát rốt ráo biết các pháp bất thối, biết các pháp cùng pháp tánh b́nh đẳng không biến đổi sai khác, như hư không không có biến đổi. Đây là Bồ Tát bất thối các thần thông ở nơi các Phật pháp đều được tự tại vậy.

Nầy Hư Không Tạng! Thế nào là Bồ Tát nhập pháp môn thậm thâm mà tất cả hàng Thanh Văn và hàng Bích Chi Phật chẳng nhập được?

Bồ Tát nhập pháp thậm thâm nhơn duyên, biết pháp nghịch và thuận nhơn duyên, khéo biết xuất, biết ly, biết sanh, biết diệt, biết tập, biết tận. Khéo biết chúng sanh do nhơn duyên ǵ mà thọ cấu, mà ly cấu, mà xả cấu được tịnh, nhẫn đến chẳng thấy có một pháp nào có cấu có tịnh. Biết tất cả pháp tánh tướng thanh tịnh, cũng chẳng được tướng pháp thanh tịnh, v́ ngă thậm thâm vậy.

Bồ Tát biết tất cả pháp thậm thâm, v́ ngă ly vậy.

Bồ Tát biết tất cả pháp ly v́ ngă không có hai vậy.

Bồ Tát biết tất cả pháp không có hai v́ nhăn và sắc cả hai đều ly vậy. Nhẫn đến ư pháp cũng ly th́ nhập đệ nhứt nghĩa, do thế đế nên giả danh là các pháp, cũng chẳng chấp trước chơn đế và thế đế. Đây là Bồ Tát nhập pháp môn thậm thâm mà hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật chẳng nhập được.

Nầy Hư Không Tạng! Thế nào là Bồ Tát nơi thập nhị nhơn duyên khéo được thắng trí phương tiện rời ĺa các kiến chấp nhị biên?

Bồ Tát biết tất cả duyên sanh pháp nhiếp thuộc về cái khác: Thuộc nhơn, thuộc duyên, thuộc ḥa hiệp và thuộc sở do. Các pháp ấy đều từ cảnh giới duyên sanh đều riêng có sở nhơn đều riêng có sở y, các pháp mỗi mỗi đều tự minh không có tâm không có tướng sai khác.

Như bên ngoài các cỏ cây lùm rừng đều không có các căn không có ghi nhớ không có hay biết, v́ y dựa các đại chủng bèn được tăng trưởng, mỗi mỗi đều không có tướng sai khác. Các pháp bên trong cũng như vậy, y dựa gây tạo các nghiệp tăng trưởng tất cả các pháp, không có các tướng ngă nhơn chúng sanh thọ mạng, cũng không có tác giả thọ giả. Các pháp lúc sanh không có ǵ là năng sanh, lúc diệt không có ǵ là năng diệt.

Bồ Tát suy nghĩ rằng: Các pháp duyên sanh ấy đều riêng không có tự tánh. V́ nó không có tự tánh nên cái khác chẳng sanh nó được, sở nhơn cũng không có tự tánh và sở duyên cũng không có tự tánh. Không có tự tánh th́ không có tha tánh. Nếu pháp không có tự tánh tha tánh th́ không có sở sanh không có năng sanh, chưa sanh th́ chẳng sanh được, đă sanh cũng chẳng sanh. Nếu chưa sanh chẳng phải chưa sanh chẳng sanh ấy th́ cứu cánh không có sở sanh không có năng sanh. V́ thế nên tất cả các pháp đều vô sanh vô khởi, chỉ do văn tự mà có giả gọi là từ nhơn duyên sanh mà thiệt th́ vô sanh, cũng không đoạn không thường . Tai sao? V́ nếu các pháp mà có tánh sanh th́ sẽ có diệt thành đoạn kiến, c̣n nếu không diệt th́ thành thường kiến. V́ rời ĺa đoạn kiến và thường kiến nên biết tất cả các pháp đều không có sanh. Đây là Bồ Tát ở nơi thập nhị nhơn duyên khéo được thắng trí phương tiện rời ĺa kiến chấp nhị biên vậy.

Nầy Hư Không Tạng! Thế nào là Bồ Tát được ấn Như Lai ấn cho trí phương tiện như như vô phân biệt?

Nơi pháp thậm thâm, Bồ Tát được năng lực hiện tiền tri kiến rời tất cả dựa dính quá các hí luận được vô chung vô thỉ Vô sanh Pháp nhẫn. Đức Như Lai biết rơ căn Bồ Tát được thành tựu rồi liền lấy ấn Như Lai ấn cho, đó là thọ kư quyết định Chánh Đẳng Giác. Ấn Như Lai ấy không có sai, không có lầm, không có chướng ngại, không có tranh, không có giành, chẳng bị trở ngại, không ai bác được không ai phế được. Bồ Tát được Như Lai ấn rồi th́ nguyện hạnh thành tựu được nước trí rưới vào đầu.

Bồ Tát được các ấn như vầy ấn cho: Đó là ấn cứu cánh vô sanh vô khởi, ấn không, ấn vô tướng, ấn vô nguyện, ấn ly nhiễm, ấn tịch diệt, ấn Niết Bàn. Bồ Tát trí hành được thành tựu chẳng hư hoại tánh như, chẳng biến đổi pháp giới, chẳng ĺa bổn tế, ở trong các pháp chẳng thấy thượng trung hạ đen trắng v.v... sai khác. Bồ Tát cũng thấy tất cả chúng sanh được ấn ấy ấn cho, Bồ Tát không có nhớ nghĩ phân biệt chẳng bỏ bổn đại thệ nguyện. Đây là Bồ Tát được ấn Như Lai ấn cho được trí phương tiện như như vô phân biệt vậy.

Nầy Hư Không Tạng! Thế nào là Bồ Tát nhập môn pháp giới tánh thấy tất cả pháp tánh b́nh đẳng?

Bồ Tát thấy các pháp giới không chỗ nào chẳng đến không lai không khứ, vô sanh vô diệt, vô tướng vô khởi, vô hí vô hành. Bồ Tát suy nghĩ rằng: Các pháp ấy đều đồng pháp giới như pháp giới, là rời ĺa dục giới v́ ĺa trần cấu vậy, là vô sanh giới v́ vô tác vậy, là vô diệt giới v́ không diệt tận vậy, là vô lai giới v́ chẳng nhập vào căn môn vậy, là vô khứ giới v́ không có chỗ đến vậy, là bất khả an giới v́ không có h́nh chất vậy, là không có ổ hang giới v́ không có y chỉ vậy, là chơn thiệt giới v́ ba cảnh phần dứt hết vậy. Trong pháp giới ấy không có nhăn giới, không có sắc giới, không có nhăn thức giới, cho đến không có ư giới, không có pháp giới, không có ư thức giới. Như pháp giới tất cả pháp cũng như vậy. V́ thế nên gọi là tất cả pháp nhập vào pháp giới.

Bồ Tát ấy biết tất cả pháp nhập vào pháp giới, biết địa giới cùng pháp giới không có hai không có khác, biết thủy giới hỏa giới phong giới cùng pháp giới không hai không khác.

Bồ Tát biết dục giới cùng pháp giới b́nh đẳng không hai không khác, biết sắc giới, vô sắc giới, hữu vi giới, vô vi giới cùng pháp giới b́nh đẳng không hai không khác. Bồ Tát biết không có tâm cảnh giới và giác như vậy. Đây là Bồ Tát nhập vào môn pháp giới tánh thấy tất cả pháp tánh b́nh đẳng vậy.

Nầy Hư Không Tạng! Thế nào là Bồ Tát thuần chí dụ như kim cương tâm trụ bất động nơi Đại thừa nầy?

Bồ Tát dùng trực tâm hành thành tựu tịnh thuần chí, dùng tinh tiến bất thối cứu cánh bất giảm, dùng đại từ vô ngại, dùng đại bi không mỏi, dùng phương tiện khắp đến được thành tựu quán huệ chơn thiệt vô ngại, các pháp như vậy đều được thành tựu. Bồ Tát thấy tất cả chúng sanh có cấu trược phàm ngu thô cứng cự nghịch chẳng thuận, do đây mà Bồ Tát giáo hóa tất cả chúng sanh chẳng bỏ rời tinh tiến. Bồ Tát thấy sinh tử có vô lượng vô biên lỗi họa ưu bi khổ năo, v́ vậy nên Bồ Tát chẳng thối bỏ trang nghiêm vị lai tế. Bồ Tát cũng hiểu vô lượng vô biên a tăng kỳ các Phật pháp. Bồ Tát v́ thành tựu các Phật pháp khó tu tập khó thọ tŕ khó đầy đủ nên trồng các thiện căn để có thể nhập vào vô lượng pháp bửu tạng của Như Lai.

V́ chúng sanh tánh vô lượng, v́ pháp tánh vô lượng, v́ hư không tánh vô lượng, v́ thọ tŕ pháp bửu tạng của tất cả Như Lai, nên Bồ Tát chẳng bỏ tinh tiến nghe tất cả pháp không vô tướng vô nguyện, vô tác, vô sanh, vô khởi, hiểu rơ phân biệt quán hạnh thân chứng thành tựu Phật pháp chưa được đủ, trọng chẳng có giữa đường, mà chứng nhập thiệt tế. Bồ Tát khéo nhập các thiền định giải thoát tam muội, cũng chẳng nhàm ĺa dục giới mà thị hiện thọ sanh trong cơi dục. Bồ Tát đă ĺa các ấm giới nhập không h́nh không sắc không hành mà tùy thuận chúng sanh tánh rồi tùy ư thị hiện các loại thân h́nh để thuyết pháp cho họ, chuyển pháp luân thị hiện đại Niết Bàn, cũng chẳng bỏ hạnh Bồ Tát nhập vào pháp môn bất tư nghị như vậy. Bồ Tát biết tất cả pháp không có tánh tướng, chẳng động chẳng hư hoại chẳng tan, ở nơi đại thừa này chẳng thối chuyển. Như kim cương bửu châu có thể soi xét tất cả châu báu khác, mà tất cả báu khác chẳng thể soi xét châu nầy được. Cũng vậy, Bồ Tát có thể dùng Thanh Văn thừa, Bích Chi Phật thừa độ vô lượng vô biên chúng sanh khiến chứng nhập Niết Bàn mà tự ḿnh chẳng diệt độ cũng chẳng thối cứu cánh đại thừa. Đây là Bồ Tát thuần chí kiên cố như kim cương tâm vững trụ chẳng dao động nơi đại thừa nầy vậy.

Nầy Hư Không Tạng! Thế nào là Bồ Tát tự tịnh giới của ḿnh như chư Phật giới?

Bồ Tát biết tất cả pháp không có giới không có tác giới, đến tất cả nơi chỗ không có đến không có chẳng đến. Nếu Bồ Tát thấy pháp phát khởi lục t́nh đều biết là Phật pháp, cũng chẳng thấy phàm phu pháp và Phật pháp có khác. Bồ Tát nghĩ rằng tất cả pháp nầy đều là Phật pháp v́ Phật pháp đến tất cả chỗ vậy. Tất cả pháp và Phật pháp chỉ có danh tự giả, cũng chẳng phải pháp chẳng phải phi pháp. V́ vậy nên chúng ta chẳng nên thủ trước. Do v́ tự giới tịnh nên biết tất cả Phật giới tịnh, pháp ấy cùng đồng là b́nh đẳng. Nhăn giới là Phật giới cho đến ư giới là Phật giới. Ta chẳng nên phân biệt trong ấy có tôn có ti. Bồ Tát đến Nhứt thiết pháp b́nh đẳng giới như vậy. Đây là Bồ Tát tự tịnh giới của ḿnh như chư Phật giới.

Nầy Hư Không Tạng! Thế nào là Bồ Tát được đà la ni trong không thất niệm?

Bồ Tát đă được thành tựu đà la ni hạnh, thế nào là đà la ni hạnh? Đà la ni hạnh có ba mươi hai thứ:

Bồ Tát tu nơi pháp đă được, v́ đà la ni nên tu pháp nguyện, tu pháp tôn trọng, tu pháp hồi hướng, tu pháp kính ngưỡng, tu pháp ưa thích, tu cầu pháp không nhàm, tu pháp thân cận cúng dường bực đa văn trí huệ, tu pháp đối với Ḥa Thượng A xà lê không ḷng kiêu mạn thường tôn trọng cung cấp hầu hạ, tu đúng theo pháp được dạy bảo không hề chống trái, tu đối với người thuyết pháp tưởng như Phật không t́m chỗ dở, tu thọ tŕ chánh pháp khai thị giải thuyết, tu không hề lẫn tiếc pháp đă được, tu không hy vọng mà làm pháp thí, tu cầu gốc rễ trí huệ, tu khéo thuận tư duy đúng pháp được nghe, tu kiên cố thọ tŕ pháp được nghe, tu với phạm hạnh không thôi nghỉ, tu thích xa ĺa thật hành hạnh a lan nhă, tu tâm thường tịch tĩnh, tu siêng chánh niệm, tu thuận theo lục ḥa kính, tu với các bực tôn trưởng không khinh mạn, tu tâm vô ngại ở trong tất cả chúng sanh, tu pháp duyên sanh được tùy thuận nhẫn, tu tam giải thoát môn chánh quán ḷng không kinh sợ, tu tứ thánh chủng hạnh mà chẳng kinh nghi, tu siêng thọ tŕ chánh pháp của chư Phật, tu v́ chúng sanh mà hành đại từ, tu thọ tŕ chánh pháp chẳng tiếc thân mạng, tu đại trí hạnh chẳng sanh kiêu mạn, tu thường giáo hóa chúng sanh mà không nhàm mỏi. Đây là ba mươi hai pháp tu đà la ni hạnh của Bồ Tát vậy. Bồ Tát tu rồi được môn đà la ni như vậy. V́ được môn đà la ni ấy nên có thể tổng tŕ pháp được nói của tất cả chư Phật chẳng quên chẳng mất.

Đà la ni ấy là với pháp được nghe chẳng quên chẳng mất, dùng niệm mà nhớ, dùng ư phân biệt, dùng tinh tiến hay giác ngộ, nơi các văn tự được không bờ mé, nơi các ngữ ngôn tùy theo các loài đều khéo hiểu rơ, ngôn từ biện thuyết không có trệ ngại. Với kinh bất liễu nghĩa khéo hay tiến vào, nơi kinh liễu nghĩa tiến vào cứu cánh, nơi thế tục đế có trí phân biệt, nơi đệ nhất nghĩa đế biết là không có ngôn thuyết, nơi các đế có trí phân biệt, nơi Tứ niệm xứ có trí chẳng quên, nơi Tứ chánh cần có trí vô hoại, nơi Tứ thần túc có trí du hí, nơi các căn môn có trí sai biệt, ở trong các lực được trí vô thắng, nơi Thất giác phần có trí giác tất cả pháp như tánh, nơi Bát thánh đạo có trí không thối mất, ở trong pháp thiền định được tâm thiện trụ, ở trong pháp chánh định huệ được trí biến chí, nơi minh giải thoát được trí tùy thuận, ở trong các biện tài được trí thâm nhập, nơi các thần thông được trí sanh khởi, nơi các Ba la mật được trí phân biệt, nơi tứ nhiếp pháp được pháp được trí phương tiện, với chỗ tán thán pháp có trí dạy người chẳng bằng, nơi nghĩa các kinh được trí vô phân biệt, nơi các văn tự được trí vô tận, nơi tất cả chúng sanh được trí xứng đủ, tùy pháp học hiểu được trí thuyết pháp, nơi tất cả văn tự được trí biện sở nhơn, nơi tất cả cấu tịnh được trí như thiệt thấu biết, nơi tất cả pháp được trí sáng không chướng che. Đây là đà la ni ấy vậy.

Bồ Tát được đà la ni b́nh đẳng tâm th́ bỏ ĺa ghét thương, kham nhận pháp vũ, dứt tất cả kiết sử nhiệt năo, thuận các pháp trợ đạo, đây là đà la ni ấy vậy.

Bồ Tát do an trụ đà la ni ấy nên thường tu hành không lỗi. Đây là Bồ Tát được đà la ni trong chẳng thất niệm vậy.

Nầy Hư Không Tạng! Thế nào là Bồ Tát được biện tài vô ngại Như Lai gia tŕ?

Bồ Tát khéo tịnh thuần chí khéo thủ hộ giới tụ trừ hết gốc kiêu mạn, ĺa quan niệm ḿnh người, chư Phật Thế Tôn biết Bồ Tát như vậy là đại pháp khí nên khiến thọ tŕ chánh pháp, do nơi Phật thần lực cùng sức tự thiện căn nên được biện tài lanh lẹ, được biện tài mau chóng, được biện tài vô ngại, được biện tài không ngừng trệ, được biện tài khéo nói, được biện tài thậm thâm, được biện tài các thanh âm đầy đủ, được biện tài thiện trang nghiêm, được biện tài không giảm khuyết, được biện tài vô úy, được biện tài kệ hay tán thán, được biện tài nói khế kinh tốt, được biện tài khéo nói thí dụ bổn duyên, được biện tài không ai hơn không ai phá được, được biện tài phân biệt câu vô tận, được biện tài viên măn đầy đủ, được biện tài oai đức không ai trái nghịch, được biện tài thuyết pháp không luống uổng, được biện tài dứt nghi cho đại chúng, được biện tài đáp lời lẹ, được biện tài phân biệt văn tự không sai lầm, được biện tài vui đẹp đại chúng, được biện tài phương tiện vấn đáp, được biện tài dùng chánh pháp hàng phục tất cả ngoại đạo, Bồ Tát ấy đă thành tựu hai mươi bốn biện tài như vậy.

Bồ Tát tu hành hai mươi bốn nghiệp nhơn th́ được thành tựu hai mươi bốn biện tài ấy.

Những ǵ là hai mươi bốn nhơn?

V́ chẳng trái nghịch lời dạy của Sư trưởng nên có thể được biện tài lanh lẹ.
V́ chẳng dua vạy nên có thể được biện tài mau chóng.
V́ bỏ ĺa phiền năo nên được biện tài vô ngại.
V́ không chấp ngă nên được biện tài không trệ.
V́ ĺa lưỡng thiệt nên được biện tài nói khéo.
V́ nhập nhơn duyên pháp vô tế nên được biện tài thậm thâm.
V́ làm các việc bố thí nên được biện tài đầy đủ âm thanh.
V́ nghiêm sức tháp miếu Như Lai nên được biện tài thiện trang nghiêm.
V́ chẳng bỏ tâm Bồ Đề nên được biện tài không giảm khuyết.
V́ khéo hộ tŕ giới tụ nên được biện tài vô úy.
V́ cúng thí những tràng phan lọng đẹp linh báu nên được biện tài kệ hay tán thán.
V́ cung kính cúng dường cấp thị chư tôn trưởng nên được biện tài nói tốt tu đa la.
V́ từ xưa vun trồng tu tập vô lượng thiện căn nên được biện tài khéo nói thí dụ bổn duyên.
V́ chẳng khinh tiện chúng sanh ác đạo nên được biện tài không ai hơn không ai phá được.
V́ cúng thí vô lượng bửu tạng nên được biện tài phân biệt câu vô tận.
V́ nói năng chơn thiệt không thô cộc nên được biện tài tṛn đủ.
V́ lúc thuyết pháp không tranh cạnh nên được biện tài oai đức không ai trái nghịch.
V́ đức thuần tịnh thuận pháp luật hành nên được biện tài thuyết pháp không luống uổng.
V́ chẳng lẫn tiếc nơi pháp chẳng cậy ỷ nơi đức của ḿnh nên được biện tài hay dứt nghi cho đại chúng.
V́ lúc cầu pháp chẳng lấy oai bức người thường có ḷng cung kính nên được biện tài ứng đối lẹ.
V́ thường xét lỗi ḿnh chẳng chê chỗ khuyết kém của người nên được biện tài phân biệt văn tự không sai lầm.
V́ b́nh đẳng nhuần ích cho chúng sanh chẳng mong báo đáp nên được biện tài vui đẹp đại chúng.
V́ thọ tŕ đại thừa chẳng cầu tiểu thừa nên được biện tài phương tiện vấn đáp.
V́ chẳng chấp ngă kiến nhập vào tánh b́nh đẳng nên được biện tài dùng chánh pháp hàng phục tất cả ngoại đạo.

Đây là hai mươi bốn nhơn thành tựu các biện tài, khéo có thể tùy theo chỗ đáng được nhận hiểu của các chúng sanh kia mà thuyết pháp không có sai lầm, những pháp được học cũng chẳng thối thất.

Đây là Bồ Tát được biện tài vô ngại Như Lai gia tŕ vậy.

Nầy Hư Không Tạng! Thế nào là Bồ Tát được tự tại thị hiện thọ thân sanh tử?

Bồ Tát thành tựu mười hai pháp th́ được tự tại thị hiện thọ thân sanh tử.

V́ thân cận bực chơn thiện tri thức vậy.
V́ tiêu trừ ngă kiến vậy.
V́ trọn nên giới thân vậy.
V́ khéo biết nhập định xuất định vậy.
V́ gồm tu trí huệ phương tiện vậy.
V́ khéo biết thâm nhập các thần thông du hí vậy.
V́ như thiệt quán biết các pháp vô sanh vô khởi vậy.
V́ tịnh giống bổn nguyện vậy.
V́ thường chẳng bỏ đại từ đại bi vậy.
V́ biết tất cả pháp như huyễn như hóa vậy.
V́ biết các pháp như mộng tưởng vậy.
V́ được tất cả gia oai thần vậy.

Đây là Bồ Tát thành tựu mười hai pháp không có sanh mà thị hiện thọ sanh, không có khởi mà thị hiện phát khởi, thị hiện tất cả thân sanh tử. Nơi pháp hội của tất cả chư Phật thị hiện thân ḿnh. Ở các Phật quốc độ đều thị hiện thọ sanh mà thường chẳng động nơi chơn pháp thân. Đây là Bồ Tát được tự tại thị hiện thọ sanh tử vậy.

Nầy Hư Không Tạng! Thế nào là Bồ Tát phá các oán địch trừ ĺa bốn ma?

Bồ Tát chuyên cần tu tập quán năm ấm như ảo huyễn th́ được ĺa ma ngũ ấm. V́ quán các pháp tánh thanh tịnh nên ĺa ma phiền năo. V́ quán tất cả pháp theo duyên sanh tánh nó chẳng thành tựu nên ĺa ma chết. V́ quán tất cả pháp được duyên tạo thành là tướng vô thường bại hoại nên ĺa thiên ma.

V́ Bồ Tát quán các pháp như vậy nên được ĺa bốn ma tiến đến Bồ Đề trọn chẳng giải đăi. Bao nhiêu ma nghiệp chướng ngại Bồ Đề, Bồ Tát đều xa ĺa cả. Sao gọi là ma nghiệp?

Có tâm niệm hướng đến Nhị thừa là ma nghiệp.
Chẳng thủ hộ Bồ Đề tâm là ma nghiệp.
Với các chúng sanh có quan niệm sai khác là ma nghiệp.
Nơi bố thí mong báo là ma nghiệp.
V́ thọ sanh mà tŕ giới là ma nghiệp.
Có sắc tưởng mà tu hành nhẫn nhục là ma nghiệp.
V́ thế sự mà siêng tinh tiến là ma nghiệp.
Nơi thiền định có ư tưởng thích ưa là ma nghiệp.
Nơi huệ sanh hí luận là ma nghiệp.
Nhàm mỏi sanh tử là ma nghiệp.
Tu các thiện căn mà chẳng hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề là ma nghiệp.
Chán ghét phiền năo là ma nghiệp.
Phạm tội (mà) phú tàng (che giấu) là ma nghiệp.
Ganh ghét chư Bồ Tát là ma nghiệp.
Phỉ báng chánh pháp là ma nghiệp.
Chẳng thọ học chánh pháp là ma nghiệp.
Chẳng biết báo ơn là ma nghiệp.
Chẳng tiến cầu Ba la mật là ma nghiệp.
Chẳng kính thuận chánh pháp là ma nghiệp.
Lẫn tiếc nơi pháp là ma nghiệp.
V́ lợi dưỡng mà thuyết pháp là ma nghiệp.
Chẳng biết phương tiện mà hóa độ chúng sanh là ma nghiệp.
Bỏ tứ nhiếp pháp là ma nghiệp.
Khinh hủy cấm giới là ma nghiệp.
Ganh ghét người tŕ giới là ma nghiệp.
Học hạnh Nhị thừa là ma nghiệp.
Hy vọng chánh vị là ma nghiệp.
Bỏ ĺa đại từ mà quán vô sanh là ma nghiệp.
Muốn chứng pháp vô vi là ma nghiệp.
Nhàm ĺa công đức hữu vi là ma nghiệp.
Chẳng thương chúng sanh là ma nghiệp.
Chẳng khiêm hạ bực tôn trưởng là ma nghiệp.
Tập làm lưỡng thiệt là ma nghiệp.
Dua nịnh nhiều gian là ma nghiệp.
Hiển bày tịnh hạnh của ḿnh là ma nghiệp.
Làm ác chẳng thẹn là ma nghiệp.
Chẳng lưu bố chánh pháp là ma nghiệp.
Lấy ít công đức làm đủ là ma nghiệp.
Chẳng ngăn kiết sử là ma nghiệp.
Chẳng bỏ tâm cấu là ma nghiệp.
Chịu Sa Môn cấu là ma nghiệp.

Tóm lại, nếu thân cận làm tất cả pháp bất thiện mà xa ĺa tất cả thiện pháp đều là ma nghiệp cả.

Đây là ma nghiệp. Người làm các nghiệp ấy th́ chướng đạo Bồ Đề. Chư Bồ Tát ấy đă vượt quá đă bỏ ĺa nên có thể chánh thọ hành.

Thế nào là chánh thọ hành?

Bồ Tát thành tựu bốn pháp th́ có thể chánh thọ hành.

Một là nơi các pháp Ba la mật không giải đăi thối thất hành.
Hai là chẳng bỏ dục tiến và bất phóng dật.
Ba là chánh trụ trong pháp phương tiện đại từ.
Bốn là nhập pháp môn thậm thâm không có ái không có ổ hang.

V́ Bồ Tát thành tựu bốn pháp chánh thọ hành nên có thể phá các oán địch. Đây là Bồ Tát hay phá oán địch trừ ĺa bốn ma vậy.

Nầy Hư Không Tạng! Thế nào là Bồ Tát trang nghiêm tư lương công đức lợi ích các chúng sanh?

Bồ Tát thiện căn hồi hướng hướng đến Vô Thượng Bồ Đề. Nếu có thiện căn được vun trồng như bố thí ái ngữ lợi hành đồng sự đều đem thí cho tất cả chúng sanh. Do thanh tịnh giới tụ nên được sức tự tại. Dùng sức tự tại ấy, Bồ Tát tùy theo chỗ đáng ưa thích của các chúng sanh mà hóa độ họ. Do vun trồng công đức không chán nhàm nên được tay báu vô tận. Dùng bửu thủ vô tận ấy, Bồ Tát có thể bố thí chúng sanh vô lượng giàu vui. Do cầu vô biên trí huệ tư lương nên được biện tài đà la ni vô ngại. Dùng vô ngại đà la ni biện tài ấy, Bồ Tát có thể tổng tŕ chỗ nói của tất cả chư Phật, Bồ Tát có thể nói diệu pháp làm vui đẹp đại chúng. Do v́ khéo điều thân tâm nên chẳng thối thần thông. Dùng sức các thần thông bất thối ấy, Bồ Tát có thể qua đến vô lượng cơi Phật dùng vô số phương tiện độ nhiều chúng sanh. Do siêng cầu pháp không mỏi mệt nên được mỗi lỗ lông phát xuất vô lượng pháp môn. Dùng sức phát xuất vô lượng pháp môn, Bồ Tát có thể thường dùng pháp thí lợi ích chúng sanh. Do gồm tu huệ phương tiện Ba la mật nên được trí phân thân. Dùng sức trí phân thân ấy Bồ Tát có thể ở trong các loài nơi nơi hiện thân hóa độ quần sanh. Do thường dùng vô tướng cung kính cấp thị chư Phật nên được kiến văn không nhàm chán. Dùng sức kiến văn không chán ấy, có chúng sanh nào được thấy nghe Bồ Tát ấy, th́ các chúng sanh ấy nhẫn đến do nơi Bồ Tát mà làm nhơn đại Niết Bàn. Đây là Bồ Tát trang nghiêm công đức tư lương lợi ích chúng sanh.

Nầy Hư Không Tạng! Thế nào là Bồ Tát ở nơi thời gian không có Phật xuất thế mà có thể làm Phật sự hóa độ chúng sanh?

Bồ Tát đă thành tựu Bồ Tát thập lực, đă ở trong bốn vô sở úy của Bồ Tát được tự tại, đă ở trong Bồ Tát mười tám pháp bất cộng chẳng từ người khác để thọ, đă tu Như Lai lực vô sở úy pháp bất cộng, đă được du hí thủ lăng nghiêm tam muội, đă ở nơi bốn biện tài được trí lực tự tại, đă ở trong Phật pháp được quán đảnh chánh vị, ở nơi tất cả Bồ Tát hạnh được thần lực kế thứ Phật.

Nếu Bồ Tát thành tựu các pháp như vậy, chúng sanh nơi các Phật độ nào đáng thấy thân Phật mà được hóa độ, những Phật độ ấy nhằm thời kỳ không có Phật xuất thế, th́ Bồ Tát ấy liền ở quốc độ ấy thị hiện thời gian nhập thai, sơ sanh, xuất gia, thị hiện thời gian ngồi đạo tràng chuyển pháp luân, thị hiện xả thọ mạng đến thời gian nhập Niết Bàn, cũng có thể thị hiện đại bát Niết Bàn, cũng thị hiện pháp trụ thời tiết lâu mau, cũng c̣n chẳng bỏ Bồ Tát hành pháp, cũng chẳng dùng chỗ được hóa độ lấy đó làm đầy đủ. Đây là Bồ Tát lúc thế gian không có Phật có thể làm Phật sự giáo hóa chúng sanh.

Nầy Hư Không Tạng! Thế nào là Bồ Tát nhập Hải Ấn tam muội có thể biết tâm hành của tất cả chúng sanh?

Bồ Tát đa văn như biển thành tựu huệ tụ, thường siêng cầu pháp. V́ nghe pháp mà Bồ Tát có thể xả thí hết trân bửu kho tàng. V́ nghe pháp mà Bồ Tát có thể xả thí hết tôi tớ kẻ sai sử vợ con quyến thuộc. V́ nghe pháp mà Bồ Tát xả thí những món trang sức trên thân và nhà cửa. V́ nghe pháp mà Bồ Tát có thể hạ ḿnh hầu hạ chịu sự sai khiến. V́ nghe pháp mà Bồ Tát bỏ ngôi cao sang cả nước cho đến xả thân mạng ḿnh. Bồ Tát dùng vô số phương tiện siêng cầu pháp môn như vậy mà chẳng cậy sở hành. V́ nghe pháp mà Bồ Tát đi đến một do tuần hoặc trăm do tuần. V́ nghe một bài kệ bốn câu để thọ tŕ đọc tụng rộng v́ người giải nói mà chẳng bỏ tinh tiến ấy.

Bồ Tát nầy tự thành tựu đa văn, với tất cả chúng sanh phát tâm đại bi tâm không ái nhiễm tâm chẳng mong báo đáp mà v́ họ thuyết pháp, nhẫn đến không khinh rẻ một chúng sanh, thuyết pháp một ngày đến bảy ngày không quan niệm ăn uống cho đến mạng chung cũng không bỏ thuyết pháp. Đem thiện căn thuyết pháp hồi hướng Hải Ấn tam muội. Tùy pháp được nghe thọ tŕ đọc tụng thông thạo khéo biết nghĩa thú chẳng y dựa văn tự chơn thiệt kiên tŕ trọn đời chẳng bỏ. Bồ Tát phát đại nguyện tinh tấn, dùng sức đại nguyện tinh tiến ấy chẳng bao lâu bèn được Hải Ấn tam muội. Được tam muội nầy rồi th́ được tự nhiên vô lượng a tăng kỳ trăm ngàn vạn pháp môn, được vô lượng a tăng kỳ trăm ngàn vạn ức tu đa la chẳng nghe nơi người mà tự nhiên có thể diễn nói. Pháp của tất cả chư Phật nói đều có thể thọ tŕ, có thể rơ biết tâm hành của tất cả chúng sanh.

Dụ như Diêm Phù Đề tất cả chúng sanh thân và những h́nh sắc cảnh ngoài đều có ấn tượng trong đại hải, v́ vậy mà gọi đại hải là ấn. Cũng vậy, Bồ Tát được Hải Ấn tam muội rồi có thể phân biệt thấy tâm hành tất cả chúng sanh, nơi tất cả pháp môn đều được huệ sáng tỏ. Đây là Bồ Tát được Hải Ấn tam muội thấy tâm hành cảnh giới của tất cả chúng sanh vậy.

Nầy Hư Không Tạng! Thế nào là Bồ Tát biết các trần giới vô ngại?

Do nhăn không nên Bồ Tát biết sắc cũng không, do sắc ly nên biết nhăn cũng ly, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, và ư không nên Bồ Tát biết thanh, hương, vị, xúc và pháp cũng không, do thanh, hương, vị, xúc và pháp ly nên biết nhăn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ư cũng ly.

Bồ Tát như thiệt biết không tánh ly tánh, nơi nội pháp và ngoại pháp không có chướng ngại.

Bồ Tát v́ biết các kiết bổn tánh tịnh th́ không phát khởi các sử. Nơi tất cả các pháp không có tham trước. Bồ Tát chẳng thấy các pháp có chỗ trước, cách trước và ai trước. Đây là Bồ Tát biết rơ trần giới vô ngại vậy.

Nầy Hư Không Tạng! Thế nào là Bồ Tát oai nghi hạnh thành tựu ĺa các tối tăm được ánh sáng thù thắng, ở trong các pháp được tự nhiên trí, mau được thành tựu Nhứt thiết trí hành?

Bồ Tát phát khởi chỗ làm tu tập chánh hạnh các nghiệp đều được Như Lai hứa khả, người trí khen ngợi, đó là các nghiệp nơi thân, khẩu và ư. Do hành các chánh hạnh nghiệp ấy nên vui đẹp chư Phật và chư Hiền Thánh các bực thiện tri thức. Những nghiệp hạnh được làm không ai có thể chê trách, là tối thắng vô thượng vô đẳng. Không ai có thể phá tổn nghiệp hạnh của Bồ Tát ấy. Nơi các nghiệp hạnh đă làm Bồ Tát ấy trọn không thối hối. Các nghiệp được làm chẳng xen tạp ngu si, các nghiệp được làm đều có thể xem thấy biết rơ, các nghiệp được làm trọn chẳng động chuyển, các nghiệp được làm đều cứu cánh lành tốt. Bồ Tát ấy biết các nghiệp được làm chẳng phải do kiêu mạn, là trí huệ làm chẳng phải do ngu si.

Bồ Tát ấy làm các thiện nghiệp như vậy th́ tất cả tam muội môn tất cả đà la ni môn đều hiện ra chẳng từ người khác nghe.

Bồ Tát ấy hoặc thấy chư Phật hoặc chẳng thấy chư Phật trọn chẳng thối chuyển các thiện căn trợ Bồ Đề đạo, hoặc gặp thiện tri thức thích ư hoặc gặp thiện tri thức chẳng thích ư cũng chẳng thối chuyển pháp Bồ Đề.

Bồ Tát ấy qua khỏi tất cả bực chướng ngại, ĺa tất cả ma kiết sử tu ba môn giải thoát. Do sức Bát Nhă Ba la mật nên mau được Phật đạo, tự nhiên đạo, Nhứt thiết trí đạo, Như Lai đạo. Đây là Bồ Tát oai nghi hạnh thành tựu ĺa các tối tăm được quang minh thù thắng, ở trong các pháp được tự nhiên trí, mau được thành tựu Nhứt thiết trí hành".

Muốn tuyên lại nghĩa ấy, Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

"Đă ĺa lỗi vô ngại
Huệ công đức trang nghiêm
Bồ Tát ĺa trước tướng
Hồi hướng đạo vô thượng
Bỏ ngă mạn kiêu mạn
Bồ Tát trang nghiêm trí
Vô chướng ngại giải thoát
Đầy đủ Nhứt thiết trí
Chẳng sắc chẳng chủng tánh
Niệm Phật chẳng công đức
Thường nhớ tưởng pháp thân
Niệm nầy Phật hứa khả
Ly dục tánh tịch tĩnh
Chẳng tướng chẳng sáng tối
Không tâm không ư hành
Đây gọi là niệm Pháp
Thánh vô vi không ái
Không các phiền năo nhiễm
Do giải thoát được tên
Gọi niệm Tăng vô ngại
Đă bỏ tất cả thọ
Không ấm giới nhập hành
Giải thoát các động niệm
Gọi cứu cánh niệm xả
Chẳng dựa vô lậu giới
Chẳng hành thân khẩu ư
Chẳng sanh quá ba cơi
Gọi niệm vô lậu giới
Như trời sạch không nhơ
Trời Đâu Suất quán đảnh
Ghi nhớ nghiệp báo ḿnh
Sẽ làm Trời trong Trời
Tŕ chánh pháp của Phật
Bỏ ĺa các phiền năo
Giải thoát pháp phi pháp
Là tŕ chánh pháp Phật
Như Phật đắc đạo tướng
Thọ tŕ pháp cũng vậy
Khéo tư duy chơn tế
Không pháp nhiếp tŕ được
Như tánh ngă thanh tịnh
Tánh các pháp cũng tịnh
Biết chúng sanh tướng như
Mà giáo hóa chúng sanh
Chẳng thấy chúng sanh tăng
Chẳng thấy chúng sanh giảm
Dạy dứt tưởng điên đảo
Giáo hóa vô lượng chúng
Nói các ấm giới nhập
Chẳng khác với Phật giới
Biết như hư không tánh
Th́ nhập vào Phật giới
Ngôn ngữ các văn tự
Dường như vang ứng tiếng
Biết chẳng nội chẳng ngoại
Liền được đà la ni
Thọ tŕ đọc tụng thạo
Tiến cầu nói các pháp
Không quan niệm ngă pháp
An trụ đà la ni
Tŕ pháp được Phật nói
Khéo nói vui đại chúng
Chẳng mất các thiền định
Là sức đà la ni
Chẳng tŕ chẳng tụng văn
Chẳng tích tập các pháp
Thường thuyết pháp vô ngại
Như rồng tuôn mưa lớn
Không trụ không chướng ngại
Nói vô lượng khế kinh
Chẳng quan niệm chúng sanh
Người trí được biện tài
Do Phật lực thuyết pháp
Trang nghiêm oai nghi ḿnh
Tùy sở thích đại chúng
Biện tài này Phật hứa
Người biết pháp thiệt tánh
B́nh đẳng như hư không
Không ngă nhơn thọ mạng
Tŕ Phật pháp như vậy
Chúng sanh đồng Niết Bàn
Cứu cánh bất sanh diệt
Được trí bất động nầy
Đây là bất phóng dật
Thấy các ấm như huyễn
Các giới như pháp tánh
Lục nhập duyên sanh rỗng
Được ĺa ma ngũ ấm
Kiết sử như mây nổi
Cứu cánh không ḥa hiệp
Nơi pháp không vọng tưởng
Ĺa được phiền năo ma
Biết chúng sanh chẳng sanh
Vô sanh th́ vô diệt
Các pháp không khứ lai
Như vậy quá tử ma
Người không ái không động
Hành đạo không tưởng đạo
Hành bi không ngă nhơn
Th́ hàng phục chúng ma
Biết trí thức b́nh đẳng
Chẳng trụ vi vô vi
Biết chúng sanh tâm như huyễn
Tâm khỏe không phá được
Đây kia không chướng ngại
Thành tựu thắng pháp thuyền
Đưa chúng không tưởng chúng
Gọi là Đại Thuyền Sư
Biết không không có ngă
Sạch sanh tử khát ái
D́u dắt đưa chúng sanh
Gọi là Đại Đạo Sư
Khéo biết tướng tiến thối
Tùy pháp mà y chỉ
Phương tiện hiện Niết Bàn
Phật nói Thiện Đạo Sư
Biết tâm tâm tương tục
Hai tâm chẳng cộng chung
Gọi là biết tâm tánh
Phật khen hay hộ chúng
Biết các pháp tánh tịnh
Như không trăng trong nước
Người biết ĺa phiền năo
Gọi là tịnh chúng sanh
Biết một biết tất cả
Biết các pháp như mộng
Hư không chẳng lấy được
Đắc đạo không nhiễm ô".

Lúc Đức Phật nói môn phân biệt các pháp ấy có bảy mươi hai na do tha chúng sanh phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, ba vạn hai ngàn Bồ Tát được Vô sanh Pháp nhẫn. Nhà Đại Bửu Trang Nghiêm Đường chấn động sáu cách, ánh sáng lớn chiếu khắp. Chư Thiên ở trên không trỗi trăm ngàn kỹ nhạc mưa các thứ hoa trời và đồng thanh nói rằng: "Các chúng sanh ấy được ấn Như Lai ấn cho, đă vào trong pháp Như Lai nghe pháp môn ấy được tịnh tín giải thọ tŕ thông thạo có thể diễn nói cho mọi người và như pháp tu hành".

Chư Thiên bạch Đức Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Tất cả chúng tôi hướng về Phật độ nầy thâm tâm cúng dường cung kính lễ lậy v́ Đức Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến Tri xuất thế vậy. Chúng tôi nghe nói pháp môn phương tiện ấy và thấy chư Bồ Tát ở quốc độ nầy".

Hư Không Tạng Bồ Tát nghe Đức Phật giải nói rồi, tâm tịnh hoan hỷ. Tâm tịnh hoan hỷ rồi đem màn báu vô giá cúng dường Đức Phật. Trong màn báu phóng ánh sáng lớn chiếu mười phương chư Phật quốc độ.

Cúng dường rồi Hư Không Tạng đại Bồ Tát bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Thiệt là chưa từng có. Như Lai vô ngại trí thậm thâm khó hiểu như vậy. Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri như pháp môn được nghe, Đức Phật dùng vô ngại trí như thiệt giải nói, tất cả đại chúng đều được hoan hỷ".

Lúc bấy giờ trong đại chúng có một Bồ Tát hiệu là Tốc Biện liền từ ṭa ngồi đứng dậy trịch y vai hữu, gối hữu chấm đất cung kính chắp tay bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Hư Không Tạng Bồ Tát nầy có nhơn duyên ǵ mà tên là Hư Không Tạng?".

Đức Phật nói: "Nầy Tốc Biện! Như đại phú trưởng giả có dân chúng đông kho tàng vô lượng của báu đầy dẫy hay làm việc bố thí tâm không lẫn tiếc. Lúc làm việc bố thí nếu người nghèo cùng đến th́ tùy ư họ cần dùng, trưởng giả khai kho báu lớn đều có thể cấp cho cả, các người xin kia đều được vừa ư. Trưởng giả ấy bố thí rồi trong ḷng vui mừng không hối tiếc.

Cũng vậy, Hư Không Tạng Bồ Tát v́ thường làm công đức thành tựu phương tiện lực hồi hướng, v́ giới thân thiện thanh tịnh, v́ được thành tựu thần túc lực, v́ thuần chí cứu cánh thiện thanh tịnh, v́ sở nguyện tăng ích thành tựu, v́ biết tất cả pháp như ảo hóa, v́ được Như Lai thần túc lực, nên ở trong hư không tùy chúng sanh cần dùng, hoặc pháp hoặc tài đều có thể thí cho, đều làm cho hoan hỷ. V́ Đại Sĩ ấy chứng phương tiện trí như vậy nên gọi tên là Hư Không Tạng.

C̣n nữa, nầy Tốc Biện! Quá khứ vô lượng a tăng kỳ kiếp, lại quá vô lượng a tăng kỳ kiếp, bất khả tư nghị, bất khả xưng bất khả lượng, bất khả toán số kiếp, lúc bấy giờ có Phật xuất thế hiệu là Phổ Quang Minh Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn, thế giới tên Đại Vân Thanh Tịnh, kiếp tên Hư Không Tịnh. Thế giới Đại Vân Thanh Tịnh ấy thịnh vượng đầy đủ an ổn khoái lạc, hàng trời người đông đúc, mặt đất bằng phẳng không có những cát sỏi gai góc, dây báu giăng thành khu thành đường trang nghiêm với nhiều thứ châu báu nhu nhuyến như thiên y, hoa vàng diêm phù đàn trải khắp mặt đất xen lẫn các châu báu. Chúng sanh trong thế giới Đại Vân Thanh Tịnh ấy không có phân biệt thượng trung hạ, trời và người đồng đẳng như Trời Đâu Suất. Trong thế giới ấy không có tụ lạc thôn ấp, tất cả hàng trời người đều ở lâu đài báu đẹp, lầu các của người ở mặt đất, cung điện chư Thiên ở hư không, chỉ có thế nầy là khác, Đức Phổ Quang Minh Vương Như Lai thọ mười sáu trung kiếp, dùng Bồ Tát làm Tăng, có mười sáu na do tha chúng đều được thần thông du hí đều được tự tại nơi Bồ Tát hạnh.

Lúc ấy ở giữa Đại Thiên thế giới Đại Vân Thanh Tịnh ấy có một tứ thiên hạ tên là Nhựt Minh, Đức Phật Phổ Quang Minh Vương Như Lai thành Vô Thượng Chánh giác tại nơi ấy, rồi làm Phật sự khắp cơi Đại Thiên.

Trong tứ thiên hạ Nhựt Minh có Chuyển Luân Thánh Vương tên Công Đức Trang Nghiêm trị cả tứ thiên hạ thành tựu đủ bảy báu.

Trong Nhựt Minh tứ thiên hạ, Thánh Vương Công Đức Trang Nghiêm xây đài bảy báu, từ Đông sang Tây rộng tám do tuần, từ Nam đến Bắc rộng bốn do tuần, ṿng quanh bửu đài có năm trăm khu vườn nhà.

Thánh Vương Công Đức Trang Nghiêm có ba mươi ba vạn sáu ngàn cung nhơn thể nữ xinh đẹp lộng lẫy như ngọc nữ cơi trời, có bốn vạn đồng tử đoan chánh dũng kiện đều riêng có sức khoẻ bằng nửa na la diên.

Thánh Vương ấy cùng các đồng tử thể nữ quyến thuộc đồng đến vườn Đại Lạc trang nghiêm dạo chơi trỗi nhạc ca vũ để tự vui. Trong chúng ấy có hai đại phu nhơn tên là Đức Oai và Đức Quang rời chỗ đến dưới một cội cây ngồi tư duy các hành vô thường. Lúc đương tư duy trên gối mỗi phu nhơn có một con trai hóa sanh. Hai trẻ nhỏ ấy thân h́nh xinh tốt đoan nghiêm thành tựu sắc thân vi diệu đệ nhứt, người thấy không chán, trên thân phóng ánh sáng lớn chiếu khắp khu vườn. Trên không chư Thiên xướng rằng: hai đồng tử này một người tên là Sư Tử, một người tên là Sư Tử Tiến. Do đó mà mọi người gọi tên hai đồng tử ấy là Sư Tử và Sư Tử Tiến.

Hóa sanh chẳng bao lâu, hai đồng tử ấy nói kệ khen Thánh Vương Công Đức Trang Nghiêm rằng:

Xưa tạo thiện ác chẳng hư mất
Cúng dường chư Phật cũng chẳng mất
Thuần chí chẳng bỏ tâm Bồ Đề
Kiên tŕ chỗ nghe chẳng quên trí
Điều phục tự ǵn chẳng mất giới
Nhẫn nhục nhu ḥa khéo pḥng hộ
Người hay báo ơn tạo nghiệp lành
Hay siêng tinh tiến chẳng mất đạo
Khéo hay chuyên tâm định các căn
Tâm hay phân biệt tư duy huệ
Do trí hay tạo nghiệp chẳng trược
Dùng tịnh pháp ấy chứng Bồ Đề
Chẳng bị phiền năo làm nhiễm trước
Khéo hay phân biệt các nghĩa thú
V́ vậy bỏ được thân thọ thai
Hóa sanh trong hoa sen thanh tịnh
Chúng tôi từ Phật Thượng Y Vương
Nghe Phật Phổ Quang Minh Vương nầy
Trí huệ vô đẳng chẳng nghĩ bàn
V́ pháp nên đến thế giới đây
Mong cùng Phụ Vương đến chỗ Phật
Lễ bái cúng dường Đại Pháp Vương
Chư Phật Thế Tôn rất khó gặp
Cũng như hoa ưu đàm bát la.

Thánh Vương Công Đức Trang Nghiêm nghe lời nói của hai đồng tử rất vừa ư, cả đại chúng đồng hoan hỷ cùng vây quanh Thánh Vương số đến trăm ngàn vạn đồng đến chỗ Đức Phật Phổ Quang Minh Vương đem các thứ hoa hương vi diệu, các chuỗi ngọc trân châu và các thứ kỹ nhạc cúng dường lễ lậy hữu nhiễu bảy ṿng rồi chắp tay cung kính đứng nơi trước.

Lúc ấy Sư Tử và Sư Tử Tiến đảnh lễ chơn Phật dùng miệng úp lên chưn Phật mà nói lời khen ngợi khéo thuận pháp nghĩa:

Phật là nhà, là chỗ dựa nương
Khai sáng lớn cho đời tối tăm
Biết rơ tâm hành của chúng sanh
Tùy chúng tin ưa làm vui đẹp
Nay đại vương nầy cậy ngôi vua
Tham sắc thanh hương vị xúc pháp
V́ vậy chẳng chịu đến chỗ Phật
Mất sự cúng dường chẳng nghe pháp
Lành thay Thế Tôn phát đại bi
Xin nói pháp Bồ Đề Vô thượng
Khiến đại vương nầy phát đạo tâm
Kiên cố bất thối nơi Phật trí.

Nghe lời thỉnh cầu của hai đồng tử, Đức Phổ Quang Minh Vương Như Lai dũng thân lên hư không cao tám mươi cây đa la.

Đức Phật ở hư không nói kệ bảo Thánh Vương Công Đức Trang Nghiêm rằng:

Nay nhơn vương chí tâm nghe
Nghe rồi y pháp mà phụng hành
Ngũ dục vô thường dụ như mộng
Mạng người như lửa cỏ sương mai
Vua và nước thành như ảo hóa
V́ vậy người trí chẳng nên tham
Quen ham dục lạc không nhàm đủ
Quen dục càng thêm ḷng khát ái
Tham dục chưa đủ mà mạng chung
Chỉ người được thánh trí mới đủ
Vua nên khéo thuận quán thân ḿnh
Ngũ ấm như huyễn chẳng kiên cố
Tứ đại kia như bốn rắn độc
Sáu căn không thiệt như khối rỗng
Vợ con trân bửu và ngôi vua
Lúc vua lâm chung không ai theo
Chỉ có giới thí bất phóng dật
Đời nay đời sau làm bạn lữ
Xem Phật thần thông lực vô úy
Dùng các tướng hảo trang nghiêm thân
Thuyết pháp dạy chúng hàng đệ tử
V́ vậy vua nên phát đạo tâm.

Nghe Đức Phật xong, Thánh Vương cùng vợ con quyến thuộc bảy mươi sáu ngàn ức người đều rất vui mừng đồng phát tâm Vô Thượng Bồ Đề rằng:

Nay chúng tôi phát đạo tâm thệ cứu độ tất cả chúng sanh, v́ chúng sanh chúng tôi tu diệu hạnh lúc thành Phật rồi sẽ độ thoát họ.

Thánh Vương Công Đức Trang Nghiêm nghe Đức Phật Phổ Quang Minh Vương nói pháp và thấy thần biến rồi càng thêm kiên cố tâm Bồ Đề, vua đảnh lễ chưn Phật bạch rằng:

Ngưỡng mong Đức Thế Tôn và Bồ Tát đệ tử thọ tôi thỉnh cúng dường suốt tám vạn bốn ngàn năm những y phục, món uống ăn, giường nệm, thuốc men và tất cả vật cần dùng.

Đức Phật cùng đại chúng v́ thương mến vua nên thọ thỉnh. Thánh Vương Công Đức Trang Nghiêm biết Phật đă thọ thỉnh vui mừng hớn hở đảnh lễ hữu nhiễu rồi lui về.

Hai Vương tử Sư Tử và Sư Tử Tiến cùng hai vạn Vương tử bỏ giàu sang thế tục đồng ở trong Phật pháp xuất gia tu hành chuyên cần tinh tiến thích cầu pháp lành. Xuất gia chẳng lâu, Sư Tử và Sư Tử Tiến được ngũ thần thông kiên cố bất thối. Biết hai người này đă được ngũ thần thông, Đức Phật gia hộ oai thần cho hai người này thường v́ chúng sanh mà nói diệu pháp. Hai Tỳ Kheo ấy ở trong cơi Đại Thiên Đại Vân Trang Nghiêm từ quốc độ này đến quốc độ kia, từ tứ thiên hạ này đến tứ thiên hạ kia thuyết pháp hóa độ vô lượng a tăng kỳ chúng sanh khiến họ kiên cố bất thối Vô Thượng đại thừa.

Trong tám vạn bốn ngàn năm, Thánh Vương Công Đức Trang Nghiêm cúng dường đầy đủ cho Đức Phật và đại chúng xong, v́ nghe pháp nên nhà vua cùng quần thần quyến thuộc qua đến chỗ Đức Phật. Nhà vua tự nghĩ rằng, các vương tử con trai của ta cạo bỏ râu tóc xuất gia tu hành thường thọ cúng dường mà tự ḿnh chẳng làm việc bố thí cũng chưa thấy được pháp hơn người, có lẽ chúng nó nên về nhà xả của cải bố thí tu tạo các công đức như ta đă làm để vun trồng căn lành chăng?

Biết tâm niệm của Thánh Vương, Đức Phổ Quang Minh Vương Như Lai bảo Sư Tử Tiến Bồ Tát rằng:

Nầy Sư Tử Tiến! Ông hiện sức tự tại thần thông Bồ Tát biến hiện để khắp đại chúng được thấy nghe trừ bỏ tà tâm được chánh tri kiến cũng để hàng phục các ma ngoại đạo.

Vâng lời Đức Phật, Sư Tử Tiến Bồ Tát liền nhập định hiện ra các cảnh tượng như vầy:

Cả Đại Thiên thế giới Đại Vân Trang Nghiêm chấn động sáu cách, trên không mưa xuống các thứ vật vi diệu, những là các thứ hoa hương, hương bột, hương xoa, lọng lụa, tràng phan, trổi các thứ kỹ nhạc. Những món ăn uống ngon lành, những y phục đẹp quí, những chuỗi ngọc, những trân bửu đều từ trên không mưa xuống. Mưa châu báu như vậy đầy cả cơi Đại Thiên. Tất cả chúng sanh được sự chưa từng có đều rất vui mừng. Địa thần chư Thiên đến Trời Sắc Cứu Cánh hớn hở mừng vui đồng thanh xướng rằng:

Đại Bồ Tát nầy nên gọi tên là Hư Không Tạng. Tại sao, v́ từ trên không có thể mưa xuống vô lượng trân bửu sung túc khắp tất cả.

Đức Phổ Quang Minh Vương Như Lai liền ấn khả lời xướng của chư Thiên gọi Sư Tử Tiến là Hư Không Tạng.

Thánh Vương Công Đức Trang Nghiêm thấy Sư Tử Tiến hiện vô lượng thần biến như vậy trong ḷng kính tin thanh tịnh vui mừng hớn hở chưa từng có bỏ tâm kiêu mạn chắp tay hướng lên Đức Phật bạch rằng:

Bạch Đức Thế Tôn! Bồ Tát công đức trí huệ bèn có thể như vậy, tự nhiên mà mưa vô lượng trân bửu sung túc khắp tất cả trọn không cùng tận.

Bạch Đức Thế Tôn! Người tại gia bố thí lợi ích không bao nhiêu, c̣n người xuất gia dùng sức thần thông bố thí không bờ mé. Người tại gia bố thí chẳng xứng ư người, dầu bố thí mà c̣n lẫn tiếc khổ năo, c̣n người xuất gia bố thí có thể xứng ư người, lợi không có lẫn tiếc chẳng sanh khổ năo.

Lúc ấy Thánh Vương Công Đức Trang Nghiêm trao ngôi vua cho Vương Tử Cát Ư, rồi do tín tâm chơn thiệt cạo bỏ râu tóc ở trong Phật pháp xuất gia tu hành, v́ tăng trưởng pháp lành nên vua chuyên cần tinh tiến, chẳng bao lâu vua tu được tứ thiền tứ vô lượng tâm và được ngũ thần thông. C̣n Cát Ư Vương dùng chánh pháp trị nước toàn thể nhơn dân đều mến đức, vua cũng tinh tiến chẳng bỏ việc cúng dường Đức Phật Phổ Quang Minh Vương và đại chúng.

Nầy Tốc Biện! Thuở xa xưa ấy, Thánh Vương Công Đức Trang Nghiêm là Câu Lưu Tôn Như Lai Đức Thế Tôn thứ nhất trong Hiền kiếp này, c̣n Sư Tử Bồ Tát chính là thân ta Phật Thích Ca Mâu Ni, Sư Tử Tiến Bồ Tát là Hư Không Tạng Bồ Tát, v́ nhơn duyên hiện thần lực từ trên không mưa xuống các loại trân báu sung túc khắp nơi nên từ thuở ấy luôn được tên là Hư Không Tạng. C̣n Cát Ư Vương th́ nay là Di Lặc Bồ Tát. Hai vạn Vương Tử theo Phật xuất gia thuở ấy nay là chúng Bồ Tát cùng chung với Hư Không Tạng hiện đang nghe pháp đây vậy. C̣n vô lượng chúng sanh được Thánh Vương cùng các Vương Tử và quyến thuộc sau khi xuất gia giáo hóa, th́ hiện nay là chư Bồ Tát hành Bồ Tát đạo tại mười phương thế giới vậy.

Nầy Tốc Biện! Chư Bồ Tát phải thường thanh tịnh giới tụ tăng trưởng bổn nguyện, do đây mà tùy muốn làm việc ǵ đều có thể hoàn thành cả".

Lúc bấy giờ đại hội Bồ Tát chúng khát ngưỡng muốn được thấy thần lực của Hư Không Tạng Bồ Tát và tướng mạo của Bồ Tát Hư Không Tạng thế nào.

Đức Phật biết tâm niệm của đại chúng liền bảo Hư Không Tạng Bồ Tát rằng: "Nầy Hư Không Tạng! Ông nên hiện tướng thần biến hư không tạng! ".

Hư Không Tạng Bồ Tát liền nhập Xứng Nhứt Thiết Chúng Sanh Ư tam muội.

Do sức tam muội ấy, khắp hư không trên Diệu Bửu Trang Nghiêm Đường mưa xuống các thứ vật vi diệu, tùy chỗ chúng sanh muốn đều cung cấp đủ cả. Đó là cần hoa th́ mưa hoa, cần tràng hoa th́ mưa tràng hoa, cần hương bột hương xoa th́ mưa hương bột hương xoa, cần lọng lụa, cần tràng phan, cần các thứ âm nhạc, cần món trang sức, cần những chuỗi ngọc y phục, cần món uống ăn ngon, cần xe cộ kẻ tùy tùng, cần vàng bạc bảy báu v.v...tất cả đều tùy ư muốn cần dùng của mọi người mà mưa xuống thứ ấy.

Có những người cần pháp muốn pháp thích pháp, tùy theo chỗ muốn nghe, trên không phát ra các pháp âm vi diệu làm vui đẹp nhĩ căn: Những là diệu âm tu đa la, kỳ dạ, thọ kư, già đà, ưu đà na, ni đà na, a ba đà na, y đế mục đa già, xà đà già, tỳ phật lược, a phù đà, đạt ma, ưu ba đề xá. Người cần nghe những kinh ấy th́ hư không đều phát âm ứng đó. Người cần na la đẳng biến âm, người cần xảo ngôn ngữ âm, người cần các thứ tạp âm, người cần thậm thâm âm, người cần phương tiện thiển âm, trên không đều phát âm ứng đó.

Người cần Thanh Văn thừa được độ th́ phát tiếng pháp Tứ đế ứng đó, người cần Duyên Giác thừa được độ th́ phát tiếng pháp thậm thâm Thập nhị nhơn duyên ứng đó. Người cần đại thừa được độ th́ hư không phát ra tiếng pháp Lục Ba la mật tiếng pháp bất thối chuyển ứng đó.

Trong hư không c̣n phát ra tiếng diệu kệ rằng:

Các pháp tánh với hư không đồng
Nay nói môn ấy đại chúng nghe
Như hư không không cao không hạ
Không cao hạ nên không thể tánh
Như hư không vô sanh vô diệt
Không sanh diệt nên tánh chẳng hư
Như hư không không tăng không giảm
Không tăng giảm nên đồng pháp tướng
Như hư không không sáng không tối
Không sáng tối tâm tánh cũng vậy
Như mặt nhựt chiếu sáng hư không
Hư không cũng không có vui mừng
Chẳng chiếu sáng hư không chẳng buồn
Người trí học đạo cũng như vậy
Như mâu, tên đâm bắn hư không
Không làm thương tổn hư không được
Người hành đạo tu tập quán không
Cũng không ǵ làm tổn thương được
Như hư không được nước nhuần thấm
Hư không không hề có vui mừng
Người trí được khen được lợi lộc
Vẫn không mừng vui cũng như vậy
Như hư không bị chê được khen
Hư không không hề có phân biệt
Người trí bị chê hoặc được khen
Không có phân biệt cũng như vậy
Như cả đại địa đều rúng động
Hư không không hề có động lay
Người trí vô y vô sở đắc
Chẳng động pháp tánh cũng như vậy
Như hư không lửa chẳng cháy được
Phiền năo chẳng cháy được người trí
Như hư không thường trụ chẳng hoại
Pháp giới thường trụ cũng như vậy
Như hư không thọ tất cả sắc
Pháp giới cũng thọ tất cả pháp
Như hư không không có sắc thấy
Tâm tánh vô tướng đồng hư không
Hư không giả danh không h́nh mạo
Tâm ư thức cũng là giả danh
Hư không vô biên chẳng lấy được
Thánh trí vô biên đồng hư không
Như chim bay không chẳng dấu vết
Hành Bồ Đề chẳng thấy được hành
Thân mất quá khứ đồng hư không
Hiện tại ngũ ấm đồng hư không
Tứ đại cũng vậy đồng hư không
Như sau tam tai không tướng khác
Tất cả chúng sanh không biết đủ
Phàm phu ngũ dục không hề đầy
Người có thánh trí biết các pháp
Biết đủ chẳng cầu ĺa tham trước
Hư không rộng lớn không bờ mé
Phật pháp rộng lớn cũng như vậy
Người biết pháp tánh là Phật pháp
Chẳng dựa lấy vật chẳng bỏ vật
Biết vật chẳng vật trụ thiệt tế
Nơi vật chẳng vật không hai tướng
Tiếng rơ không không chẳng phải tiếng
Không âm thanh gọi là hư không
Phật dầu nói không trọn không nói
Tánh chẳng nói được gọi là không
Huyễn hóa mộng dă mă bóng vang
Chư Phật thuyết pháp cũng như vậy
V́ dắt chúng sanh nói những dụ
Nghĩa chơn tịnh không ví dụ được
Pháp không tướng dùng tướng để nói
Tướng không tướng pháp tánh đều không
Tướng không rỗng không không có tướng
Biết được tướng nầy là Bồ Tát
Không trệ ngại không hí không động
Không thỉ không chung là Bồ Tát
Chẳng rời chúng sanh chẳng chúng sanh
Như chúng sanh tánh là Bồ Tát
Như ảo sư giết các người ảo
Không ai chết được độ cũng vậy
Ảo chúng sanh Niết Bàn Phật pháp
Biết đồng một tánh không tánh tướng
Đại Sĩ được tạng không vô tận
Ban đủ tất cả không cùng tận
Xưa trồng công đức được tạng nầy
Chẳng tham chứa mới được như vậy
Biết được các pháp nhơn duyên sanh
Tạng ấy vô tận chẳng nghĩ bàn
Đấng cứu đời nói bốn vô tận
Không, đạo tâm, chúng sanh, Phật pháp
Nếu các của cải là có thiệt
Th́ mới có thể chức nhóm được
Chẳng phải thiệt có nên vô cùng
V́ chẳng phải thiệt nên vô tận
Pháp không cứu cánh tận vô tận
Vô tận chẳng tận là vô tận
Biết pháp môn nầy gần Bồ Đề
Trụ môn này mau thành Bồ Đề.

Do thần lực của Hư Không Tạng Bồ Tát nên từ hư không vang ra những pháp âm vi diệu như vậy và tất cả của cải vật báu làm sung túc tất cả chúng sanh. Làm cho tất cả chúng sanh khắp cơi Đại Thiên được vô lượng bất tư nghị khoái lạc thỏa măn sở nguyện. Chúng sanh bịnh khổ được thuốc chữa lành. Chúng sanh nghèo cùng được vô lượng trân bửu. Chúng sanh bị trói nhốt được cởi mở giải thoát. Chúng sanh chẳng đủ các căn th́ được đủ các căn. Chúng sanh đáng bị tử h́nh th́ trên không rơi hóa nhơn thay thế họ. Người thân yêu ly biệt từ lâu nay được đoàn tụ. Chúng sanh lo rầu nay đều hết lo. Chúng sanh đọa tam đồ được ánh sáng ấy chạm thân trừ tất cả khổ năo thân tâm an lạc.

Lúc bấy giờ trong Đại Thiên thế giới, chúng sanh ăn uống no đủ vui vẻ dạo chơi đầy đủ ngũ dục. Hoặc có kẻ làm bố thí tạo các công đức. Chúng sanh có đủ trọn vẹn những sự an lạc như vậy, họ đều nói rằng: Mới được bực Đại Sĩ này có thể ban vui cho đời, do Bồ Tát Hư Không Tạng xuất thế nên thế gian được ban bố cam lộ. Đại Sĩ nầy mới có thể thường siêng tinh tiến, v́ ban vui cho tất cả chúng sanh không hề mỏi mệt vậy.

Hư Không Tạng Bồ Tát hiện những thần biến như vậy làm vui đẹp tất cả chúng sanh tánh, thị hiện Bồ Tát thần lực dùng tài thí và pháp thí để nhiếp thủ chúng sanh, khiến vô lượng a tăng kỳ chúng sanh phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, làm cho vô lượng Bồ Tát được Vô sanh Pháp nhẫn. C̣n làm cho vô lượng a tăng kỳ bất khả thuyết bất khả thuyết Bồ Tát phát cần tinh tiến được thành tựu các môn tam muội, các môn đà la ni, các môn thần thông du hí.

Trong pháp hội có một Bồ Tát tên là Sanh Nghi tự nghĩ rằng: Việc này là bất tư nghị vị tằng hữu. Bồ Tát Hư Không Tạng chỉ hiển hiện thần thông lực ở Ta Bà thế giới nầy, hay là cũng hiển hiện thần thông nơi thế giới phương khác.

Biết tâm niệm của Sanh Nghi Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát từ nơi thân phóng ánh sáng lớn chiếu khắp mười phương chư Phật thế giới.

Sanh Nghi Bồ Tát cùng chư Bồ Tát đều thấy thần lực của Hư Không Tạng Bồ Tát ở nơi mười phương vô lượng vô biên bất khả tư nghị chư Phật thế giới ứng hóa chúng sanh cũng đồng như tại thế giới Ta Bà nầy.

Thấy thần biến như vậy rồi, Sanh Nghi Bồ Tát cung kính lễ Hư Không Tạng Bồ Tát rồi chắp tay bạch rằng: "Hi hữu thay Đại Sĩ có thể đặt tạng báu vô tận ở hư không mưa đầy đủ khắp vô lượng thế giới mà vẫn không hết. Đại Sĩ đặt tạng ấy ở trong hư không đă được bao lâu rồi?".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "Từ lúc tôi phát tâm Vô Thượng Bồ Đề th́ tạng báu ấy thường ở trong hư không".

Sanh Nghi Bồ Tát lại hỏi: "Đại Sĩ phát tâm Vô Thượng Bồ Đề từ lúc nào?".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "Đức Thế Tôn biết rơ, Đại Sĩ nên bạch hỏi".

Sanh Nghi Bồ Tát bạch Đức Phật: "Bạch Đức Thế Tôn! Hư Không Tạng Bồ Tát phát tâm Vô Thượng Bồ Đề từ lúc nào, mong được Thế Tôn nói cho chúng tôi hết nghi".

Đức Phật nói: "Nầy Sanh Nghi! Sự ấy lâu xa thậm thâm khó biết. Nếu nói đó th́ sẽ làm cho hàng thiên nhơn đều sanh nghi hoặc chẳng tin lời Phật. V́ chẳng tin họ mắc vô lượng tội".

Sanh Nghi Bồ Tát lại bạch rằng: "Ngưỡng mong Đức Thế Tôn nói đó. Nếu có người từ lâu đă trồng căn lành quyết sẽ tin thọ".

Đức Phật nói: "Nầy Sanh Nghi! Ông đă ân cần cầu thỉnh, đâu được chẳng nói. Lắng nghe, lắng nghe, khéo suy nghĩ, Phật sẽ v́ ông mà phân biệt giải nói, để người có căn lành kiên cố đă lâu trồng cội công đức sanh ḷng vui mừng.

Nầy Sanh Nghi! Như những hằng hà bằng số cát một hằng hà, số cát trong tất cả những hằng hà ấy, cứ một hột cát là một Phật thế giới, nghiền nhỏ tất cả hằng hà sa số thế giới ấy thành vi trần rồi tụ lại một chỗ. Có một người trường thọ cứ một kiếp mới lượm lấy một vi trần trong đống vi trần ấy măi đến lúc lấy hết số vi trần. Thời gian Hư Không Tạng Bồ Tát phát tâm Vô Thượng Bồ Đề đến nay số kiếp c̣n quá hơn số kiếp vi trần kia chẳng phải toán số biết được.

Nầy Sanh Nghi! Nên đem đây để so sánh biết thời gian phát tâm Vô Thượng Bồ Đề của Hư Không Tạng đến nay bao lâu vậy.

Lại nầy Sanh Nghi! Về quá khứ, quá số cát những sông Hằng bằng số cát sông Hằng, lấy số cát này một hột cát là một Phật độ, nghiền tất cả quốc độ này thành vi trần, một vi trần là một kiếp, lại quá số này trăm ngàn muôn kiếp, lúc bấy giờ có Phật hiệu là Tịnh Nhứt Thiết Nguyện Oai Đức Thắng Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn, thế giới ấy tên là Hiện Vô Lượng Chư Phật Sát Độ, kiếp ấy tên là Chúng Bửu Trang Nghiêm.

Tại sao thế giới ấy có tên là Hiện Vô Lượng Chư Phật Sát Độ?

Nầy Sanh Nghi! V́ cơi nước ấy chơn tịnh có thể hiện mười phương chư Phật sát độ, như mặt trăng tṛn sáng không bị che chướng hiện bóng trong nước trong. V́ vậy nên mười phương vô lượng a tăng kỳ chư Phật quốc độ và chư Phật ấy cùng ṭa sư tử cả việc làm của chúng sanh đều hiện rơ trong thế giới Hiện Vô Lượng Chư Phật Sát Độ ấy. Thế giới ấy bằng một trăm ức Đại Thiên thế giới. Thế giới ấy rộng răi trang nghiêm thanh tịnh giàu dư an ổn, trời người đông đúc, mặt đất bằng phẳng không có g̣ nổng cao lơm dơ dáy hôi thúi. Có nhiều loại trân bửu xen tạp làm thành xinh đẹp đáng thích, khắp nơi treo những lụa màu tràng phan lọng tốt trang nghiêm, đốt các thứ hương tốt như chiên đàn trầm thủy, phía trên th́ giăng màn kiếp ba nhiều màu, dưới th́ trải đầy những hoa tươi đẹp. Khắp mọi nơi mọc những cây hoa báu, cây quả trái, cây y phục, cây chuỗi ngọc, cây kỹ nhạc, cây bửu khí, cây hương, cây đèn đuốc, cây thuốc men, khắp nơi trang nghiêm làm ranh tám hướng đường sá bằng thẳng phân minh. Những chuỗi ngọc chơn châu, lưới báu trang nghiêm làm người xem không nhàm chán. Trong thế giới ấy chẳng nhờ ánh sáng mặt nhựt mặt nguyệt, dùng những cây đèn đuốc và cây báu ma ni phát ánh sáng mát lành chiếu khắp mọi nơi và luôn sáng không có ngày đêm, chỉ lấy bửu hoa lúc nở lúc búp để biết thời tiết. Chúng sanh trong cơi ấy không có tàn tật, đui mù, câm điếc, què thọt, lùn xấu, không có thân thể chẳng toàn vẹn dung mạo xấu ác. Tất cả mọi chúng sanh đều thành tựu ba mươi hai tướng tốt trang nghiêm thân thể. Trong thế giới ấy nhẫn đến không có tên ác xấu tam đồ bát nạn, cũng chẳng nghe tiếng tăm ngoại đạo các dị học, tất cả chúng sanh đều quyết định Vô Thượng Bồ Đề, cũng không có tên hiệu Thanh Văn, Bích Chi Phật. Đức Phật Tịnh Nhứt Thiết Nguyện Oai Đức Thắng Vương Như Lai thuần nói pháp Đại thừa Bồ Tát. Trong cơi ấy không có nữ nhơn và thai sanh, tất cả chúng sanh đều tự nhiên hóa sanh, lúc hóa sanh đều ngồi kiết già đoan nghiêm, không có già cùng bịnh tật trọn cả thọ mạng. Lúc sau khi mạng chung đều sanh về Tịnh độ phương khác hoặc sanh trở lại bổn quốc. Thế giới Hiện Vô Lượng Chư Phật Sát Độ ấy thành tựu vô lượng vô biên bất khả tư nghị công đức như vậy, nếu ta ở trong thời gian một kiếp hoặc dưới một kiếp nói cũng chẳng hết được.

Nầy Sanh Nghi! Lúc ấy trong quốc độ Hiện Vô Lượng Chư Phật Sát Độ có một Chuyển Luân Thánh Vương tên là Chúng Thiên Quán Đảnh thống lănh cả cơi Đại Thiên. Thánh Vương ấy ở chỗ chư Phật đă từ lâu vun trồng cội công đức, thành tựu lợi căn trí huệ oai đức, có ba vạn sáu ngàn Vương Tử tất cả đều hóa sanh ngồi kiết già trong hoa sen, cũng từ lâu trồng căn lành ở chỗ chư Phật quá khứ.

Bấy giờ Đức Phật Tịnh Nhứt Thiết Nguyện Oai Đức Thắng Vương Như Lai cùng hàng trời người đại chúng vi nhiễu đi đến chỗ ở của Thánh Vương.

Có chúng Bồ Tát vô lượng vô số chẳng phải các toán sư và đệ tử của toán sư mà có thể tính biết.

Đức Phật ấy thọ một trăm ngàn kiếp, mỗi kiếp thời gian dài ngắn như kiếp Hiền ở đây. Chúng sanh cơi ấy trải qua ngần ấy kiếp số mà gọi là một kiếp.

Thánh Vương Chúng Thiên Quán Đảnh thỉnh Đức Phật Tịnh Nhứt Thiết Nguyện Oai Đức Thắng Vương Như Lai và chư Bồ Tát Tăng trong bốn mươi trung kiếp, mỗi trung kiếp ấy thời gian dài ngắn như một trung kiếp tại đây, thọ sự cúng dường thích ư những món ăn uống ngon lành, những y phục, ngọa cụ, pḥng nhà, đền đài, vườn tược, rừng cây, ao tắm v.v...tất cả món cần dùng.

Để cúng dường Đức Phật, Thánh Vương Chúng Thiên Quán Đảnh trang nghiêm một Tiểu Thiên thế giới làm ngôi nhà đẹp, đất toàn bằng lưu ly bửu, tường thành bao quanh bằng các thứ báu hiệp thành. Cột nhà ấy bằng gỗ xích chiên đàn và gỗ ưu đà la sa la chiên đàn xen chạm cẩn với báu xa cừ. Ngôi nhà báu đẹp trang nghiêm dường ấy rất đáng ưa thích.

Đức Phật Tịnh Nhứt Thiết Nguyện Oai Đức Thắng Vương Như Lai sau giờ ăn giữa ngày, từ tam muội dậy, ở trong ngôi nhà ấy v́ đại chúng thuyết pháp.

Thánh Vương ấy c̣n trang nghiêm một ngôi nhà lớn rộng bằng một tứ thiên hạ, muốn Đức Thế Tôn và chư Bồ Tát Tăng thọ thực trong đó, mỗi ngày cần dùng vật thực giá trị bằng khối trân bửu như ṭa núi lớn.

Trong thời gian bốn mươi trung kiếp cúng dường Phật và Bồ Tát Tăng, Thánh Vương Chúng Thiên Quán Đảnh thường chuyên nhứt niệm chưa từng phóng dật chẳng làm việc ǵ khác, thường dùng tất cả món thích dùng để cúng dường Phật và Tăng. Làm công đức trong thời gian ấy, Thánh Vương cũng chẳng phát nguyện chẳng cầu mong sự ǵ cả. Măn bốn mươi trung kiếp ở ngày sau rốt, Thánh Vương đem ba y vô giá cúng dường Phật và Bồ Tát Tăng. Ngày ấy sau giờ ăn giữa ngày, Đức Thế Tôn ấy v́ đại chúng nói rộng diệu pháp. Lúc ấy v́ nghe pháp, Thánh Vương và hàng thị tùng cùng đến chỗ Đức Phật.

Đức Phật Tịnh Nhứt Thiết Nguyện Oai Đức Thắng Vương Như Lai biết Thánh Vương công đức thuần thục kham nghiệm hữu dụng, Đức Phật ngồi yên bất động trên ṭa sư tử suốt bảy ngày bảy đêm không có ư tưởng ăn uống nói kinh Đại thừa tên là Nhiếp Bồ Tát Tịnh Hạnh Bất Thối Chuyển Luân Phương Tiện Thánh Vương Chúng Thiên Quán Đảnh và hàng đại chúng trong bảy ngày bảy đêm nghe pháp cũng không có ư tưởng ăn uống.

Đức Thế Tôn ấy nói pháp như vậy muốn cho đại chúng nghe thọ tŕ hết chẳng quên mất.

Trong bảy ngày đêm Thánh Vương Chúng Thiên Quán Đảnh tâm chẳng phân tán theo Phật nghe pháp vui mừng hớn hở thân tâm vui thích, đứng dậy lễ chưn Phật hữu nhiễu bảy ṿng rồi gối hữu chấm đất chắp tay hướng lên Phật thâm tâm thuần chí phát tâm Vô Thượng Bồ Đề nói kệ rằng:

Tôi phát tâm Vô thượng
Thỉnh triệu các quần sanh
Người không cứu tôi cứu
Đời tối tôi khai sáng
Chẳng v́ một pháp hành
Chẳng v́ cúng một Phật
Chẳng v́ một chúng sanh
Tôi nguyện độ không thừa
Khổ sanh già bịnh chết
Kẻ bị khổ bức năo
Tất cả chớ sầu lo
Tôi thề sẽ độ họ
Tham sân si mạn trùm
Thất đạo tạo nghiệp ác
Chánh pháp trừ tà nghiệp
Dẫn đến thành vô úy
Chúng sanh đọa tam đồ
Chỗ nạn chịu các khổ
Bền chí chớ lo sợ
Tôi đến ban vô úy
Bị vô minh si che
Chẳng biết môn giải thoát
V́ họ tôi đốt đuốc
Được sáng đến Niết Bàn
Bị bốn ḍng cuốn trôi
Ch́m đắm chẳng được bờ
Tôi tạo thuyền thắng pháp
Cho họ khỏi các ḍng
Ở sanh tử đói khát
Ăn hết phước lành trước
V́ họ làm Đạo Sư
Sẽ khiến đến an vui.

Thánh Vương Chúng Thiên Quán Đảnh nói kệ xong, thế giới Hiện Vô Lượng Chư Phật Sát Độ liền chấn động sáu cách, có ánh sáng chiếu khắp nơi. Thánh Vương phát đạo tâm rồi được Bồ Tát tam muội tên là bất thối Bồ Đề tâm, do sức tam muội ấy nên thường được thấy chư Phật vô ngại, cho đến trong chiêm bao các phiền năo cũng chẳng hiện hành, từ đó về sau, tâm Thánh Vương chẳng cùng chung với tật đố, chẳng cùng chung với phá giới, chẳng cùng chung với sân hận, chẳng cùng chung với giải đăi, chẳng cùng chung với tán loạn, chẳng cùng chung với ngu si. V́ nghe pháp nên trọn đời Thánh Vương thường hầu hai bên Đức Thế Tôn, cũng thường giáo hóa ba vạn sáu ngàn Vương Tử khiến phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, cũng giáo hóa vô lượng vô biên chúng sanh khác khiến họ phát Bồ Đề tâm.

Nầy Sanh Nghi! Thánh Vương Chúng Thiên Quán Đảnh thuở xa xưa ấy nay chính là Bồ Tát Hư Không Tạng vậy. C̣n chư Vương Tử và đại chúng được Thánh Vương giáo hóa khiến phát Bồ Đề tâm ấy th́ nay là chư đại Bồ Tát đại lực tinh tiến đại trí huệ đang nghe pháp đây vậy.

Nầy Sanh Nghi! Hư Không Tạng từ lúc phát tâm đến nay trải qua vô lượng a tăng kỳ kiếp hành Bồ Tát đạo. Hư Không Tạng Bồ Tát từ lúc phát tâm về sau chưa từng mất tâm Bồ Đề, chưa từng thai sanh, thường gặp chư Phật nghe pháp và cúng dường chúng Tăng, ở chỗ chư Phật thọ tŕ chánh pháp nhiếp thủ kiên tŕ chưa từng thất niệm, hay khéo phân biệt thật hành đầy đủ. Lúc sơ phát tâm rồi được bực thậm thâm nan giải Bồ Tát sơ địa, hay làm các sự bố thí thành tựu đại bi, được không hí luận phát siêng tinh tiến không hề nhàm mỏi, học tất cả các sách luận, biết tất cả thế pháp, thành tựu đức tàm quí, được niệm lực kiên cố. Bồ Tát ấy trụ bực Sơ địa trong vô lượng a tăng kỳ bất khả xưng, bất khả lượng, bất khả tư nghị, bất khả thuyết bất khả thuyết a tăng kỳ kiếp hay thanh tịnh thuần chí đầy đủ hành Đàn Ba la mật, với các chúng sanh thường hành đại bi, siêng tu pháp tứ nhiếp tất cả Ba la mật và các pháp trợ đạo, thành tựu dục tinh tiến bất phóng dật đều tùy thuận Đàn Ba la mật. Bồ Tát ấy trụ bực Sơ địa thường siêng hầu hạ cúng dường chư Phật siêng cầu phương tiện giáo hóa chúng sanh tịnh Phật quốc độ. Bồ Tát ấy trụ bực Sơ địa được nhập tất cả các bực địa trí huệ quang minh mà chẳng quá Sơ địa, sau đó mới thành tựu vô lượng công đức trí huệ tư lương, được Như Lai lực tŕ bất thối thần thông đă ĺa các chướng ngại của chư địa. Rời từ bực Sơ địa nhập Bồ Tát đệ Nhị địa, trụ vô lượng a tăng kỳ kiếp thanh tịnh bực Nhị địa tu Thi la Ba la mật. Nhẫn đến Bồ Tát đệ Thập địa v́ tất cả chúng sanh, mỗi địa trải qua kiếp số cũng như vậy. Trong mỗi mỗi địa quá vô lượng a tăng kỳ kiếp thành tựu Bồ Tát hạnh, v́ các chúng sanh hiện làm Phật sự mà chẳng bỏ Bồ Tát sơ hành.

Nầy Sanh Nghi! Ít có Bồ Tát nào có thể thật hành thậm thâm bất tư nghị thù thắng bất tán loạn thuần chí siêng tu tinh tiến như Hư Không Tạng Bồ Tát đă thật hành thành tựu như vậy".

Sanh Nghi Bồ Tát nói với Hư Không Tạng Bồ Tát: "Hy hữu Đại Sĩ bèn có thể hoằng thệ nguyện như vậy ở trong Đại thừa, trụ lâu nơi sanh tử không có mỏi mệt".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói với Sanh Nghi Bồ Tát: "Thưa Đại Sĩ! Như đại địa này chuyên chở núi sông đá vách cây cối lùm rừng tất cả thảo mộc trăm thứ lúa đậu và các loại chúng sanh, nó có mỏi mệt chăng?".

Sanh Nghi Bồ Tát đáp rằng: "Không hề có mỏi mệt, thưa Đại Sĩ".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "Tâm của chư Bồ Tát như đại địa, v́ thuần chí thành tựu nên thật hành Bồ Tát hạnh không hề có mỏi mệt. Như đại địa, đại thuỷ, đại phong thường làm tất cả phận sự vẫn không hề mỏi mệt, như hư không chứa tŕ tất cả đại địa, đại thủy, đại phong, hư không không có y chỉ không có chướng ngại cũng không có mỏi mệt. Tâm của chư Bồ Tát như hư không, do sức Bát Nhă Ba la mật tập họp tất cả Phật pháp không hề có lười bỏ mỏi mệt cũng như vậy. Tại sao? V́ Bồ Tát biết tất cả các pháp tướng mà được thành tựu không có ai sanh ai làm ai thọ. Do nhơn duyên hiệp lại mà có làm ra. Các pháp được làm ra cũng không có thiệt, v́ bổn tế rỗng không, v́ bổn tế rời ĺa vậy nên thiệt không có thành tựu, v́ tự tánh rỗng không nên không có sanh không có diệt. V́ biết tất cả pháp tánh tướng như vậy nên không thấy có pháp ǵ là có thể sanh ra sự mỏi mệt và cũng không có ai là người mỏi mệt. Tại sao? V́ Bồ Tát biết tất cả các pháp không có hai, biết tánh sanh tử b́nh đẳng với tánh Niết Bàn, biết tánh Niết Bàn b́nh đẳng với tánh tất cả các pháp, biết tánh tất cả các pháp b́nh đẳng với vô tánh, cũng chẳng dựa cậy chẳng trụ trước. Biết tất cả pháp quá khứ và vị lai đều không có tự tánh, Bồ Tát do định lực và nguyện lực nên chẳng khởi định mà có thể hiện tất cả việc làm".

Sanh Nghi Bồ Tát nói với Hư Không Tạng Bồ Tát: "Ngưỡng mong Đại Sĩ nói rơ tam muội hành nghiệp của chư Bồ Tát. Sao gọi là tam muội? Sao gọi là hành tam muội nghiệp?".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "Có tám vạn bốn ngàn môn tam muội. Các môn tam muội nầy có thể tổng nhiếp tất cả môn tam muội khác. Những ǵ là tám vạn bốn ngàn môn tam muội?

Bồ Tát có tam muội tên là Bất Vong (Chẳng Mất) Bồ Đề tâm, hay thành tựu hạnh chẳng tán loạn.

Có tam muội tên Hàng Phục, hay thanh tịnh thuần chí.

Có tam muội tên Bất Hiển Hành, hay cứu cánh thành tựu bất thối việc được làm.

Có tam muội tên Vô Y, hay tăng tiến thành tựu cứu cánh.

Có tam muội tên Vô Cấu, hay thành tựu tự tâm.

Có tam muội tên Chiếu Diệu, hay khai thị thiện pháp.

Có tam muội tên Chơn Tịnh, hay quá tất cả ma nghiệp.

Có tam muội tên Dũng Xuất, trọn chẳng bị các luận thuyết ngoại đạo chế phục.

Có tam muội tên Xả Ly, hay điều phục tất cả phiền năo kiết sử.

Có tam muội tên Hồi Phục, hay khiến tất cả nhập vào đạo chơn thiệt.

Có tam muội tên Chuyển Tiến, hay ĺa Thanh Văn địa và Bích Chi Phật Địa.

Có tam muội tên là Lạc Du, hay chẳng nhàm sanh tử.

Có tam muội tên Xu Hướng, hay từ một địa đến một địa.

Có tam muội tên Di Dịch, hay thành tựu vui đẹp đại chúng.

Có tam muội tên Vô Ngại Quang, hay khiến tất cả chúng sanh thành tựu tâm b́nh đẳng.

Có tam muội tên Tri Sở Tác, hay thuận tất cả sở tác không trái nghịch.

Có tam muội tên Sư Tử Tướng, hay thành tựu đại chúng vô sở úy.

Có tam muội tên Tâm Dũng, hay hàng phục tứ ma.

Có tam muội tên Liên Hoa Trang Nghiêm, hay thành tựu chẳng nhiễm thế pháp.

Có tam muội tên Quang Trang Nghiêm, hay chiếu khắp chư Phật thế giới.

Có tam muội tên Thanh Lương, hay dứt ĺa tắng ái.

Có tam muội tên Tràng Tướng, hay thành tựu tất cả Phật pháp quang minh.

Có tam muội tên Cự Vương, hay thành tựu đại trí huệ quang minh.

Có tam muội tên Nhựt Quang, hay thành tựu đoạn trừ vô minh tối tăm.

Có tam muội tên Tập Đức, hay thành tựu biện từ vô tận.

Có tam muội tên Na La Diên, hay thành tựu thân kim cương.

Có tam muội tên Kiên Cố, hay thành tựu tâm chẳng điệu động.

Có tam muội tên Di Lâu Tràng, hay thành tựu vô kiến đảnh tướng.

Có tam muội tên Kiên Tự Tại, hay thành tựu cứu cánh bổn nguyện.

Có tam muội tên Kim Cương Thổ, hay thành tựu bất thối thần thông.

Có tam muội tên Kim Cương Tràng, hay thành tựu thăng lên đạo tràng.

Có tam muội tên Dụ Như Kim Cương, khéo hay soi suốt tất cả các pháp.

Có tam muội tên Hành Vương, hay thấy biết tâm hành tất cả chúng sanh.

Có tam muội tên Huệ Vương, hay thành tựu thắng trí biết các căn đầy đủ hoặc chưa đầy đủ.

Có tam muội tên Tùy Loại, hay thành tựu tùy chúng sanh tánh mà v́ họ thuyết pháp.

Có tam muội tên Tu Nhứt Thiết Thân, hay thành tựu pháp thân.

Có tam muội tên Bất Thuấn, hay thành tựu vô ngại thấy chư Như Lai.

Có tam muội tên Vô Tranh, hay được phân biệt tất cả nhơn duyên.

Có tam muội tên Vô Cấu Luân, hay thành tựu chuyển diệu pháp luân.

Có tam muội tên Điện Quang, hay biết được nhơn duyên các pháp.

Có tam muội tên Thiện Phân Biệt, hay biết các giới đều đồng một giới.

Có tam muội tên Trang Nghiêm Vương, hay thành tựu các tướng hảo.

Có tam muội tên Tùy Giải Vương, hay dùng một âm thanh đáp tất cả.

Có tam muội tên Bất Phân Biệt Pháp Giới, hay biết tất cả tam muội đồng một tam muội.

Có tam muội tên Kiên Cố, hay được bất thối nơi các pháp tánh.

Có tam muội tên Bất Khả Hoại, hay biết các pháp đồng với pháp tánh.

Có tam muội tên Vô Chung, hay biết bổn tế chẳng phải tế.

Có tam muội tên Vô Tác, hay thành tựu như như không có biến đổi.

Có tam muội tên Vô Động, hay biết các pháp b́nh đẳng như hư không.

Có tam muội tên Tịnh Trụ, hay thành tựu các Ba la mật.

Có tam muội tên Thiện Nhiếp, hay thành tựu tứ nhiếp pháp.

Có tam muội tên Đẳng Hạnh, hay thành tựu bốn phạm hạnh.

Có tam muội tên Vô Ngại Quán, hay thành tựu các pháp trợ đạo.

Có tam muội tên Hải Ấn, hay tổng tŕ tất cả pháp được chư Phật nói.

Có tam muội tên là Không, hay dứt trừ tất cả kiến chấp.

Có tam muội tên Vô Tướng, hay dứt trừ tất cả giác quán.

Có tam muội tên Vô Nguyện, hay thành tựu tất cả tịnh nguyện.

Có tam muội tên Quyết Liễu, hay được thành tựu vô sanh pháp nhẫn.

Có tam muội tên Bất Thoát, hay được thành tựu chẳng mất pháp đă được nghe.

Có tam muội tên Vô Ế, hay dùng thiện thuyết làm vui đẹp chúng sanh.

Có tam muội tên Đắc Phong, hay được thành tựu bửu thủ.

Có tam muội tên Pháp Vân, hay mưa tất cả các pháp môn.

Có tam muội tên Bửu Trang Nghiêm, hay được thành tựu chẳng dứt Tam bửu thắng chủng.

Có tam muội tên Vô Tỉ, hay thành tựu các sự nghiệp do trí làm ra.

Có tam muội tên Hư Không Môn, hay được rời ĺa tất cả chướng ngại.

Có tam muội tên Trí Ấn, hay được biết khắp tất cả các pháp.

Có tam muội tên Hiện Kiến Chư Phật, hay được thành tựu Như Lai công đức.

Có tam muội tên Tuyển Trạch Tịch Tĩnh Như Ư, hay được thành tựu rời ĺa nơi bổn tế.

Có tam muội tên Phân Biệt Nhứt Tướng Pháp Môn, hay được thành tựu đời vị lai nói pháp môn nhứt tướng.

Có tam muội tên Liễu Tri Nhứt Thiết Pháp B́nh Đẳng Tánh, hay được thành tựu hiểu rơ tất cả kinh sách.

Có tam muội tên Tập Chư Công Đức, hay được nhuận ích tất cả chúng sanh.

Có tam muội tên Du Hí Thần Thông, hay được thành tựu bất tư nghị giải thoát.

Có tam muội tên Tự Giác, hay nhập vào tạng bí mật của Như Lai.

Có tam muội tên Thủ Lăng Nghiêm, có thể ở trong Bồ Tát địa cho đến thị hiện đại Niết Bàn.

Có tam muội tên Biến Chí, hay được thành tựu thị hiện thọ sanh các nơi các xứ.

Có tam muội tên Quán Đảnh Vương, hay được thành tựu Bồ Tát sở hành không c̣n dư.

Có tam muội tên Vô Thắng, hay được thành tựu Như Lai thập lực.

Có tam muội tên Vô Tận, hay được thành tựu tứ vô sở úy.

Có tam muội tên Vô Đẳng Đẳng, hay được thành tựu Phật bất cộng pháp.

Có tam muội tên Nguyện Vương, hay được thành tựu pháp Thanh Văn tự lợi lợi tha công chẳng luống uổng.

Có tam muội tên Vô Cấu Ấn, hay được hiền tiền giác liễu chư Phật pháp.

Có tam muội tên Thiện Tri Giác, hay thành tựu Nhứt thiết trí không có sót dư.

Có tam muội tên Tận Vô Biên, hay thành tựu tất cả Phật sự thọ hành không dư thừa.

Các tam muội được nói ở trên làm đầu cho tám vạn bốn ngàn môn tam muội. Mỗi mỗi tam muội dùng vô lượng a tăng kỳ trăm ngàn vạn ức tam muội là quyến thuộc.

Thưa Sanh Nghi Đại Sĩ, các tam muội ấy hay biết rơ các pháp sở hành của tám vạn bốn ngàn loại chúng sanh, cũng hay hiển hiện tám vạn bốn ngàn pháp tụ. Đây là lược nói Bồ Tát hạnh và phần ít pháp tạng của chư Phật. Nhưng Bồ Tát hạnh có vô lượng vô biên và pháp tạng của chư Phật th́ bất khả tư nghị vậy".

Lúc Hư Không Tạng Bồ Tát nói pháp ấy, có một vạn sáu ngàn Bồ Tát được nhu thuận nhẫn và vô lượng tam muội hiện ra. C̣n có tám vạn bốn ngàn chúng sanh phát tâm Vô Thượng Bồ Đề.

Đức Thế Tôn khen rằng: "Lành thay, lành thay! Hư Không Tạng khéo nói pháp môn tam muội ấy, khéo nói thắng trí Như Lai. Như chính thân ông được chứng được hiện hành, pháp ấy chẳng từ người mà được".

Sanh Nghi Bồ Tát chắp tay hướng về Hư Không Tạng Bồ Tát mà bạch rằng: "Hi hữu Đại Sĩ có thể thành tựu công đức bất khả tư nghị như vậy, chẳng từ người khác mà được nhập vào cảnh giới thắng trí Như Lai. Tôi cũng nguyện thích muốn làm cho tất cả chúng sanh được pháp giới Như Lai bất khả tư nghị ấy".

Lúc bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi Sanh Nghi Bồ Tát: "Thưa Đại Sĩ! Ai v́ Ngài mà đặt cho tên Sanh Nghi ấy?".

Sanh Nghi Bồ Tát nói: "Thưa Đại Đức Xá Lợi Phất! Chính Bồ Đề tâm đặt tên Sanh Nghi cho tôi. Tại sao như vậy? V́ người chẳng phát Bồ Đề tâm th́ ở trong Phật pháp trọn chẳng sanh nghi. Người mà phát tâm Vô Thượng Bồ Đề th́ đối với tất cả Phật pháp sanh nghi hoặc. Tại sao? V́ người ấy muốn được biết rơ hiện tiền tất cả Phật pháp.

Ví như Thái Tử của vua Quán Đảnh Sát Đế Lợi thành tựu tướng vua đáng nên làm quốc vương, kế sau vua cha phải nối ngôi vua, v́ vậy mà Thái Tử ấy luôn luôn thường hỏi pháp trị nước, như là tôi sẽ làm thế nào giám lănh quốc sự. Cũng vậy, đại Bồ Tát cứu cánh tâm Vô Thượng Bồ Đề, kế sau Đức Như Lai cũng phải nối ngôi tôn quí Vô Thượng Pháp Vương, cũng luôn luôn thường suy nghĩ hỏi han những pháp tương ưng Nhứt thiết trí, như là tôi sẽ phải thế nào thọ tŕ pháp Phật vô thượng, v́ vậy mà ở nơi Phật pháp thường sanh nghi. V́ nhơn duyên ấy nên do nơi Bồ Đề tâm mà lập nên tên Sanh Nghi nầy vậy.

Thưa Đại Đức Xá Lợi Phất! Tôi từ xưa đến nay chẳng nhớ có lúc nào gặp chư Phật, chư Bồ Tát, chư thiện tri thức mà chẳng thưa hỏi Phật pháp vi diệu, thế nên tôi chơn thiệt tên là Sanh Nghi vậy".

Lúc bấy giờ Hư Không Tạng đại Bồ Tát bạch Đức Phật: "Bạch Đức Thế Tôn! Cảnh giới chư Phật bất khả tư nghị, những pháp nên làm của chư Bồ Tát cũng vô lượng. V́ vậy nên pháp hành ấy chẳng thể dùng ít thệ trang nghiêm được, chẳng thể dùng ít ngôn thuyết để nói được, chẳng thể dùng Tiểu thừa đạo mà thành tựu được.

Lành thay Đức Thế Tôn! Ngưỡng mong Như Lai nói Bồ Tát đại thệ trang nghiêm và đạo trang nghiêm. Bồ Tát do đại thệ trang nghiêm và đạo trang nghiêm mà có thể thừa đại thừa hành chơn thiệt tối thượng xuất thế đạo. V́ sẽ được xuất thế Đại thừa vô thượng thành tựu nhứt thiết tự nhiên đại trí, dầu chưa thành Nhứt thiết trí mà có thể làm Phật sự lợi ích chúng sanh".

Đức Phật nói: "Lành thay, lành thay! Nầy Hư Không Tạng! Lắng nghe, lắng nghe, khéo suy nghĩ đó, Phật sẽ v́ ông mà phân biệt giải nói chư Bồ Tát đại thệ trang nghiêm thừa trang nghiêm và đạo trang nghiêm.

Nầy Hư Không Tạng! Bồ Tát có hai mươi pháp trang nghiêm để tự trang nghiêm, Bồ Tát trang nghiêm rồi có thể thừa đại thừa.

Những ǵ là hai mươi pháp?

Nếu có Bồ Tát cứu cánh phát tâm Vô Thượng Bồ Đề với tất cả chúng sanh phát tối thắng đại bi, sanh ḷng lợi ích chúng sanh. Sanh ḷng lợi ích chúng sanh rồi th́ có thể trang nghiêm vô thượng đại thệ.

Sao gọi là đại thệ trang nghiêm?

V́ độ người chưa được độ mà đại thệ trang nghiêm ngồi ghe thuyền lớn vậy.

V́ giải rơ cho người chưa được rơ mà đại thệ trang nghiêm thoát hư vọng điên đảo vậy.

V́ an ổn người chưa an mà đại thệ trang nghiêm an ở vô úy đạo vậy.

V́ người chưa được Niết Bàn khiến họ được Niết Bàn mà đại thệ trang nghiêm xả bỏ ngũ ấm gánh nặng vậy.

V́ siêng thường cung cấp đủ cho chúng sanh mà đại thệ trang nghiêm tinh tiến chẳng giải đăi vậy.

V́ chẳng bỏ vô lượng sanh tử mà đại thệ trang nghiêm chẳng mỏi nhàm vậy.

V́ vui đẹp tất cả chư Phật mà đại thệ trang nghiêm hiện tiền cúng dường cung kính vậy.

V́ thọ tŕ tất cả Phật pháp mà đại thệ trang nghiêm chẳng dứt giống Tam bửu vậy.

V́ thọ tŕ chẳng quên pháp được nghe mà đại thệ trang nghiêm được đà la ni tổng tŕ vậy.

V́ khéo thuyết pháp vui đẹp tất cả chúng sanh mà đại thệ trang nghiêm được biện tài vô ngại vậy.

V́ tập họp vô lượng công đức tư lương mà đại thệ trang nghiêm thành tựu tướng hảo vậy.

V́ vui đẹp tất cả thiện tri thức mà đại thệ trang nghiêm kiên cố sở hành vậy.

V́ ngăn tâm tán động mà đại thệ trang nghiêm sanh các thiền giải thoát tam muội vậy.

V́ ở chỗ a lan nhă xả ly thân mạng mà đại thệ trang nghiêm được lục thần thông vậy.

V́ muốn đại sư tử hống không có kinh sợ mà đại thệ trang nghiêm hiện tiền được vô ngă pháp vậy.

V́ muốn đến tất cả thế giới mà đại thệ trang nghiêm muốn biết tất cả pháp như ảo huyễn như chiêm bao như bóng tượng vậy.

V́ chiếu khắp nghiêm sức tất cả thế giới mà đại thệ trang nghiêm thanh tịnh cấm giới thọ tŕ thành tựu lực dụng vậy.

V́ thành tựu Như Lai thập lực mà đại thệ trang nghiêm đầy đủ các Ba la mật vậy.

V́ thành tựu tứ vô sở úy mà đại thệ trang nghiêm như sở thuyết hành vậy.

V́ được trọn đủ mười tám pháp bất cộng mà đại thệ trang nghiêm như pháp Bồ Tát địa được nghe chẳng hí luận vậy.

Đây là hai mươi pháp Bồ Tát đại thệ trang nghiêm. Do sức trang nghiêm ấy nên có thể thừa Đại thừa. Bồ Tát dùng sức tự trang nghiêm ấy dứt nhơn duyên ác đạo, đây gọi là trang nghiêm. Đầy đủ thiện pháp được chư Phật hộ tŕ, đây gọi là trang nghiêm. Tùy chỗ nào muốn đến liền được văng sanh, đây gọi là trang nghiêm. Xả bỏ tất cả bào thai hay hóa sanh trước chư Phật, đây gọi là trang nghiêm. Hay được thân khẩu ư ba nghiệp vô tranh, đây gọi là trang nghiêm. Trụ hạnh bất phóng dật được chư Thiên và thế nhơn cung kính, đây gọi là trang nghiêm. Khéo thông đạt ba môn giải thoát mà chẳng chứng thiệt tế, đây gọi là trang nghiêm. Tất cả vô ngă pháp đều được hiện tiền mà vẫn chẳng bỏ đại thệ trang nghiêm, đây gọi là trang nghiêm. Đây là Bồ Tát đầy đủ đại thệ trang nghiêm.

Thế nào gọi là trang nghiêm Bồ Tát thừa?

Nầy Hư Không Tạng! Thừa là nói vô lượng vậy, là vô biên vậy, là khắp cùng tất cả như hư không rộng lớn dung thọ tất cả chúng sanh vậy. Chẳng cùng chung với Thanh Văn, Bích Chi Phật nên gọi là Đại thừa.

C̣n nữa, thừa ấy dùng chánh an trụ tứ nhiếp pháp làm vành, dùng chơn tịnh thập thiện nghiệp làm căm, dùng tịnh công đức tư lương làm cốt, dùng kiên cố thuần chí cứu cánh làm chốt ốc, dùng thiện thành tựu các thiền giải thoát tam muội làm trục càng thùng xe, dùng tứ vô lượng tâm làm khéo đẩy xe, dùng thiện tri thức làm người ngự xe, dùng biết thời biết phi thời làm phát động, dùng tiếng vô thường khổ không vô ngă là sách tiến, dùng dây báu thất giác làm cương, dùng tịnh ngũ căn làm dây chằng cột, dùng đại bi ngay thẳng làm tràng, dùng Tứ chánh cần làm trục, dùng Tứ niệm xứ làm an lành, dùng Tứ thần túc làm tiến mau, dùng thắng Ngũ lực làm giám trận, dùng Bát chánh đạo làm tiến thẳng, với tất cả chúng sanh vô ngại huệ minh làm hiên mui, dùng vô trụ lục Ba la mật hồi hướng Nhứt thiết trí, dùng vô ngại tứ đế vượt đến bờ kia, đây là Đại thừa vậy.

Thừa nầy là sở thọ của chư Phật, là sở quán của Thanh Văn và Bích Chi Phật, là sở thừa của tất cả Bồ Tát, là chỗ đáng được kính lễ của Thiên Đế Thích, Phạm Thiên và Hộ Thế Tứ Thiên Vương, là chỗ đáng cúng dường của tất cả chúng sanh, là chỗ đáng ngợi khen của tất cả người trí, là chỗ đáng hướng về của tất cả thế gian, tất cả kẻ oán ghét chẳng thể khinh chê được, tất cả các ma chẳng thể phá hoại được, tất cả ngoại đạo chẳng thể trắc lượng được, tất cả thế trí chẳng thể tranh được, thừa nầy thù thắng không có ǵ hơn được, được các hiền thánh thủ hộ, thừa nầy tùy nguyện có thể đến tất cả Phật giới, v́ vậy mà thừa nầy chiếu sáng khắp nơi v́ có thể phóng màn lưới quang minh, thừa nầy có tiếng lớn tăm v́ hay xuất sanh các pháp môn, thừa nầy chí ư mạnh cứng v́ chẳng thối hườn, thừa nầy bền vững v́ chẳng biếng trễ, thừa nầy đứng thẳng v́ chẳng khuynh động, thừa nầy các sự việc đều đủ v́ hay thỏa măn tất cả nguyện lành, đây gọi là Đại thừa các đại thệ trang nghiêm vậy.

Bồ Tát thừa Đại thừa nầy rồi th́ có thể từ một bực địa đến một bực địa, đây là sự trang nghiêm của thừa nầy. Có thể xả bỏ lỗi hoạn của các địa, đây là sự trang nghiêm của thừa nầy. Có thể xả bỏ các ma nghiệp, đây là sự trang nghiêm của thừa nầy. Có thể hóa độ các chúng sanh, đây là sự trang nghiêm của thừa nầy. Có thể tịnh Phật thế giới, đây là sự trang nghiêm của thừa nầy. Có thể hiện Bồ Tát thần biến, đây là sự trang nghiêm của thừa nầy. Có thể độ sanh tử khát lớn, đây là sự trang nghiêm của thừa nầy. Có thể nhập vào cảnh giới Như Lai, đây là sự trang nghiêm của thừa nầy.

Nầy Hư Không Tạng! Thế nào là Bồ Tát trang nghiêm đạo?

Bồ Tát đại thệ trang nghiêm và thừa Đại thừa rồi xả bỏ tất cả tà đạo. Xả bỏ tà đạo rồi hướng đến chánh đạo chơn thiệt đến Nhứt thiết trí.

Sao gọi là chánh đạo? Đó là chẳng bỏ thiện pháp vậy, là hành đại nguyện chẳng thối chuyển Bồ Đề đạo vậy, là siêng tu tinh tiến căn lành chẳng mất vậy, là hành bất phóng dật bất động thuần chí, chẳng ch́m nơi sở tác quyết có thể cứu cánh ngưỡng nắm lấy pháp trên, cầu công đức tư lương chẳng hề cho là đầy đủ, cầu trí huệ tư lương trọn chẳng phế bỏ, đây là Bồ Tát chánh đạo vậy.

C̣n nữa, nầy Hư Không Tạng! Bồ Tát đạo ấy là Tứ thiền, Tứ vô lượng tâm, Tứ không định, Ngũ thần thông, Tam phước nghiệp, Tam học, Lục ưng kính, Lục niệm, Tứ nhiếp pháp, Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ thần túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác phần, Bát thánh đạo phần, Tam giải thoát môn, biết Ấm phương tiện, biết giới phương tiện, biết Nhập phương tiện, biết Tứ đế phương tiện, biết Nhơn duyên phương tiện, đây gọi là đạo.

Bồ Tát thành tựu đạo phương tiện nầy đều có thể tùy thuận nhập vào Lục Ba la mật đạo. Tại sao, v́ Bồ Tát Lục Ba la mật đạo chẳng cùng chung với Thanh Văn, Bích Chi Phật. Đạo nầy là chỗ được khen ngợi của tất cả chư Phật, từ miệng Như Lai phát ra thành tựu phương tiện.

Bồ Tát biết được thiệt tánh tất cả pháp th́ có thể trụ xuất thế gian Lục Ba la mật thánh đạo.

Thế nào là trụ?

Nếu có Bồ Tát thành tựu tự nhiên huệ phương tiện mà cầu Bồ Đề, ở trong thân ngũ thọ ấm nầy v́ như thiệt giác tri mà cầu Bồ Đề, Bồ Tát nầy biết sắc vô thường mà hành bố thí, biết sắc khổ, biết sắc vô ngă, biết độn, biết sắc vô trí, biết sắc như huyễn ảo, biết sắc như thủy nguyệt, biết sắc như mộng, biết sắc như bóng, biết sắc như vang, biết sắc như ṿng lửa quay, biết sắc không có tướng ngă, tướng nhơn, tướng chúng sanh, tướng thọ mạng, biết sắc không có chủ không có dưỡng dục, biết sắc là rỗng không, là vô tướng, là vô nguyện, biết sắc là vô tác, là vô sanh, là vô khởi, là vô xuất, biết sắc là vô h́nh, là tịch tĩnh, là ly, là vô chung, là không có thành tựu đồng với hư không, biết sắc như tánh Niết Bàn, Bồ Tát biết sắc uẩn như vậy mà hành bố thí.

Lúc hành bố thí như vậy, v́ thí ly nên Bồ Tát biết sắc cũng ly, v́ sắc ly nên bố thí cũng ly. V́ sắc và thí đều ly nên biết nguyện cũng ly, v́ nguyện ly nên biết sắc và thí cũng ly. V́ sắc thí và nguyện ly nên biết Bồ Đề cũng ly, v́ Bồ Đề ly nên biết sắc thí và nguyện cũng ly, do đó mà biết tất cả pháp đồng tánh Bồ Đề. Đây là Bồ Tát xuất thế gian đàn Ba la mật vậy.

Như với sắc uẩn, với thọ, tưởng và hành uẩn cũng vậy.

Bồ Tát biết thức vô thường nên hành bố thí, biết thức khổ, vô ngă, là độn, là vô trí, như huyễn ảo, như dă mă, như thủy nguyệt, như mộng, như bóng, như vang, như ṿng lửa quay, không có tướng ngă, nhơn, chúng sanh, thọ mạng, không có chủ, không có dưỡng dục, biết thức rỗng không, không có tướng, không có nguyện, là vô tác, vô sanh, vô khởi, vô xuất, biết thức không có h́nh, là tịch tĩnh, là ly, biết thức không có chung, không có thành tựu cùng hư không b́nh đẳng, biết thức đồng tánh Niết Bàn, Bồ Tát biết thức uẩn như vậy mà hành bố thí.

Bồ Tát lúc hành bố thí như vậy, v́ thí ly nên biết thức cũng ly, v́ thức ly nên biết thí cũng ly, v́ thức và thí ly nên biết nguyện cũng ly, v́ nguyện ly nên biết thức và thí cũng ly, v́ thức thí nguyện ly nên biết Bồ Đề cũng ly, v́ Bồ Đề ly nên biết thức thí và nguyện cũng ly, mà biết tất cả pháp đồng tánh Bồ Đề. Đây là Bồ Tát xuất thế gian đàn Ba la mật vậy.

C̣n nữa, nầy Hư Không Tạng! Bồ Tát biết sắc vô thường mà hộ nơi cấm giới, nhẫn đến biết sắc như tánh Niết Bàn mà hộ nơi cấm giới.

Như sắc với uẩn, với thọ, tưởng và hành uẩn cũng vậy.

Bồ Tát biết thức vô thường mà hộ cấm giới, nhẫn đến biết thức uẩn như Niết Bàn tánh mà hộ nơi cấm giới.

V́ giới ly nên Bồ Tát biết thức cũng ly, v́ thức ly nên biết giới cũng ly, nhẫn đến biết tất cả pháp đồng Bồ Đề tánh. Đây là Bồ Tát xuất thế gian Thi Ba la mật vậy.

Như Đàn và Thi Ba la mật, Sằn đề, Tỳ lê gia, Thiền Ba la mật cũng vậy.

Bồ Tát biết sắc vô thường mà hành Bát Nhă, nhẫn đến biết sắc uẩn như Niết Bàn tánh mà hành Bát Nhă.

Như sắc với uẩn, với thọ, tưởng và hành uẩn cũng vậy.

Bồ Tát biết thức vô thường mà hành Bát Nhă, nhẫn đến biết thức uẩn như Niết Bàn tánh mà hành Bát Nhă.

V́ Bát Nhă b́nh đẳng nên Bồ Tát biết thức b́nh đẳng, v́ thức b́nh đẳng nên biết Bát Nhă b́nh đẳng, v́ Bát Nhă và thức b́nh đẳng nên biết nguyện b́nh đẳng, v́ nguyện b́nh đẳng nên biết Bát Nhă và thức b́nh đẳng, v́ biết Bát Nhă thức và nguyện b́nh đẳng nên biết Bồ Đề b́nh đẳng. V́ biết Bồ Đề b́nh đẳng nên biết Bát Nhă thức và nguyện cũng b́nh đẳng. Do đây mà biết tất cả pháp đồng tánh Bồ Đề. Đây là Bồ Tát xuất thế gian Bát Nhă Ba la mật vậy.

Bồ Tát xuất thế gian Ba la mật đạo nầy đều có thể nhiếp thủ tất cả các đạo, nên phải biết rằng tất cả các đạo đều nhiếp vào trong ấy cả.

Tại sao gọi đó là xuất thế gian ư?

Nầy Hư Không Tạng! Ngũ thọ ấm gọi là thế gian. Bồ Tát khéo phân biệt ngũ ấm, quán nó vô thường nhẫn đến như tánh Niết Bàn rồi, biết trong đạo ấy không có thế gian và pháp thế gian, biết đạo ấy là vô lậu là xuất thế gian không có buộc dính, đây gọi là xuất thế gian. Đây gọi là Bồ Tát đạo vậy.

C̣n nữa, nầy Hư Không Tạng! Đạo ấy, đó là như thiệt cầu tất cả các pháp phân biệt lựa chọn chẳng thấy tất cả các pháp nối nhau chứa nhóm, không có hai không có khác, nên gọi là đạo. Mà đạo ấy th́ không có ghét thương, v́ không có ghét thương nên gọi là b́nh đẳng, v́ tư duy quan sát các thừa khác nên gọi là rộng lớn, v́ bỏ ĺa siểm khúc nên gọi là ngay thẳng, v́ bỏ ĺa tâm vạy ṿ nên gọi là không có gian, v́ dứt trừ các cái chướng nên gọi là không có buộc trói trệ ngại, v́ bỏ ĺa quan niệm dục tham sân hại nên gọi là không có bụi dơ, v́ chẳng thọ nhận sắc, thanh, hương, vị, xúc nên gọi là an vui, v́ bỏ ĺa các ma sự nên gọi là thanh hương, v́ bỏ ĺa phiền năo chúng giặc nên gọi là vô úy, v́ có thể đến Niết Bàn nên gọi là xuất yếu, v́ thành tựu định tịch tĩnh nên gọi là thanh tịnh thủy huệ, v́ khéo hiểu biết nên gọi là thường sáng, v́ khéo tu tâm từ nên gọi là vui mát, v́ chẳng bỏ đại bi nên gọi là tiến không nhàm, v́ thường hành hỉ nên gọi là vui vẻ, v́ thành tựu tâm xả nên gọi là không có lầm lỗi, v́ thuận pháp tứ nhiếp nên gọi là giàu lớn, v́ thành tựu sức thí món ăn Ba la mật nên được Nhứt thiết trí biện tài, v́ được chư Phật khéo hộ tŕ nên gọi là qua khỏi pháp hành tứ ma, v́ chẳng bỏ bổn nguyện nên gọi là tiến không trệ ngại, v́ vượt qua ḍng các phiền năo nên gọi là vô thượng, v́ tất cả thế gian không ǵ có khả năng hàng phục được nên gọi là không có đáp đối.

Đạo ấy thành tựu các công đức như vậy và vô lượng công đức khác. Tất cả Bồ Tát Đại Sĩ do thừa đạo ấy nên có thể qua lại giáo hóa vô lượng chúng sanh, đây là trang nghiêm. Không có phiền năo mà hiện vào phiền năo, đây là trang nghiêm. Quán vô sanh mà chẳng chứng thiệt tế, đến môn không vô tướng vô tác mà hay giáo hóa những chúng sanh hành các kiến, các tướng, các nguyện, đây là trang nghiêm. Hiện nhập Thanh Văn, Duyên Giác Niết Bàn mà chẳng bỏ sanh tử, đây là trang nghiêm. Hiện thọ sanh các loài mà chẳng động pháp tánh, hiện nói tất cả ngôn giáo mà chẳng động vô ngôn, đây là trang nghiêm. Hay hiện tất cả Phật sự mà chẳng bỏ Bồ Tát hạnh, đây là trang nghiêm.

Đây là Bồ Tát đại thệ trang nghiêm, đại thừa trang nghiêm và đạo trang nghiêm vậy.

Bồ Tát dùng đại thệ trang nghiêm để tự trang nghiêm nên có thể thừa Đại thừa thuận xuất thế gian thánh đạo, dầu chưa được Nhứt thiết trí mà v́ chúng sanh có thể hiện làm Phật sự".

Lúc ấy trong đại chúng có một Bồ Tát tên là Bửu Đức hỏi Hư Không Tạng Bồ Tát: "Bạch Đại Sĩ! Ngài Đă tu xuất thế gian thành đạo nầy rồi chăng?".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "Đă tu, thưa Đại Sĩ".

Bửu Đức Bồ Tát hỏi: "Ngài tu thế nào?".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "Như được thanh tịnh đạo, tôi tu như vậy".

Bửu Đức Bồ Tát hỏi: "Thế nào là thanh tịnh đạo?".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "Thưa Đại Sĩ! V́ ngă tịnh nên đạo tịnh".

Bửu Đức Bồ Tát hỏi: "Thế nào là ngă tịnh?".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "Như tam thế tịnh".

Bửu Đức Bồ Tát hỏi: "Thế nào là tam thế tịnh?".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "Sắc thuở quá khứ tịnh v́ sắc bổn tế không có đến vậy. Sắc thuở vị lai cũng tịnh v́ sắc vị lai không có đi vậy. Sắc thuở hiện tại cũng tịnh v́ sắc hiện tại không trụ vậy. Đây là tam thế tịnh.

Thọ tưởng hành nhẫn đến thức cũng như vậy.

Nầy Đại Sĩ ! V́ thế trong tam thế tịnh nên ngă tịnh. V́ ngă tịnh nên gọi là đạo tịnh".

Bửu Đức Bồ Tát hỏi: "Thưa Đại Sĩ! Đạo tịnh như vậy hay làm được ǵ?".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "Hay làm đại trí huệ quang minh. Do sức trí huệ minh ấy nên có thể biết tất cả pháp quá khứ và vị lai tế".

Bửu Đức Bồ Tát lại hỏi: "Sao gọi là pháp quá khứ vị lai tế?".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "Tất cả pháp quá khứ tế vô sanh, nơi vị lai tế vô diệt, đây gọi là biết pháp quá khứ vị lai tế".

Bửu Đức Bồ Tát hỏi: "Nếu thấy pháp quá khứ vị lai tế là thấy những ǵ?".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "Thấy hai đều ly".

Bửu Đức Bồ Tát hỏi: "Sao gọi là hai đều ly?".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "Là ly đoạn và ly thường. Nầy Đại Sĩ! Nếu có thấy pháp sanh và trụ trước nơi pháp th́ là đoạn kiến và thường kiến. V́ có sanh th́ có diệt. Có sanh có diệt th́ là kiến chấp đoạn thường.

Nếu chẳng thấy có pháp từ tự tánh tha tánh sanh th́ thấy nhơn duyên. Nếu thấy nhơn duyên th́ thấy pháp. Nếu thấy pháp th́ thấy Như Lai. Nếu thấy Như Lai th́ thấy Như. Nếu thấy như th́ chẳng trệ nói đoạn cũng chẳng chấp thường. Nếu chẳng thường chẳng đoạn th́ không có sanh không có diệt".

Bửu Đức Bồ Tát lại hỏi: "Bạch Đại Sĩ! Nếu vô sanh vô diệt th́ sao lại có danh số?".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "V́ giả ngôn thuyết mà gọi đó là pháp vậy. Như do có không rỗng nên có tên sắc sai biệt, đó là những màu sắc xanh vàng đỏ trắng, màu tím, màu pha lê, màu lưu ly, màu thô, màu tế và những h́nh sắc dài vắn vuông tṛn. Hư không chẳng bị những sắc h́nh ấy làm nhiễm, mà tất cả sắc h́nh ấy tự tánh cũng rỗng không. Tất cả các pháp cũng như vậy đồng tánh hư không, chỉ giả ngôn thuyết mà có danh số thôi. Những là thiện pháp, bất thiện pháp, thế gian pháp, xuất thế pháp, pháp nên làm, pháp chẳng nên làm, pháp hữu lậu, pháp vô lậu, pháp hữu vi, pháp vô vi. Nhưng Bồ Tát chẳng làm những việc phi phước. Việc phước được làm đều là hư dối chẳng phải chơn thiệt chẳng phải kiên cố.

Bồ Tát ấy biết tất cả hạnh và phi hạnh b́nh đẳng, bỏ ĺa tất cả tướng. V́ thành tựu sức Bát Nhă Ba la mật nên hồi hướng Bồ Đề, mà cũng chẳng thấy Bồ Đề có tăng có giảm. Bồ Tát ấy chẳng ở trong sắc cầu Bồ Đề, cũng chẳng ở trong thọ, tưởng, hành, thức cầu Bồ Đề. Bồ Tát v́ không cầu nên trụ trong khối thanh tịnh giới, tu vô nguyện giải thoát môn đầy đủ tất cả nguyện, biết tánh sanh tử đồng tánh Niết Bàn. Bồ Tát ấy dầu nhập cứu cánh Niết Bàn mà v́ đoạn trừ chúng sanh hư vọng điên đảo nên hành Bồ Tát hạnh nhưng cũng không có hành pháp được hành. Bồ Tát như vậy nhập vào nơi Niết Bàn hạnh Bồ Tát hạnh.

Nầy Đại Sĩ! Phàm có sở tác đều là sanh tử, không có sở tác đây gọi là Niết Bàn. Bồ Tát sở hành là không có sở tác. V́ vậy mà Bồ Tát gọi là nhập vào Niết Bàn hạnh Bồ Tát hạnh.

Nầy Đại Sĩ! Phàm có nhiễm trước y dựa vọng tưởng hí luận lấy tướng đây gọi là sanh tử. Không có nhiễm trước không y dựa không vọng tưởng không hí luận không lấy tướng, đây gọi là Niết Bàn. Bồ Tát do tu không nhiễm trước y dựa vọng tưởng hí luận thủ tướng hành Bồ Tát hạnh đây gọi là Bồ Tát nhập Niết Bàn hạnh Bồ Tát hạnh".

Lúc Hư Không Tạng Bồ Tát nói pháp ấy, có năm trăm Bồ Tát được Vô sanh Pháp nhẫn.

Đức Phật khen rằng: "Lành thay, lành thay! Hư Không Tạng Bồ Tát khéo nói pháp tánh xứng với Bồ Tát hạnh chơn thiệt không có khác".

Hư Không Tạng Bồ Tát bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Đây là sự khéo lành của Đức Thế Tôn, tại sao, v́ do Phật huệ chiếu sáng nên chúng tôi được có phần luận biện này.

Dụ như ánh sáng mặt nhựt chiếu Diêm Phù Đề, do sức sáng mặt nhựt mà người có mắt được thấy các sắc tượng làm những sự nghiệp.

Do sức Đại trí của Phật chiếu tất cả chúng sanh và các thế giới khác cũng như vậy. Chư pháp thiệt tánh chẳng thể ngôn thuyết, các ngôn thuyết tánh đồng với hư không. V́ vậy nên các pháp chẳng thể được danh số. Phàm pháp có danh số th́ có hạn lượng. Phàm có hạn lượng th́ là hữu vi. Phàm là hữu vi th́ biết được dứt được tu được. Phàm là biết được dứt được tu được th́ có đắc có chứng. Nếu ở nơi pháp có danh số mà tư duy tính lường phân biệt chẳng thấy có pháp được biết, được dứt, được tu, được đắc, được chứng th́ không có đắc, tại sao, v́ tất cả pháp không có sanh vậy. Có thể chơn chánh thấy các pháp như vậy th́ ở trong các pháp chẳng sanh ái nhiễm. V́ không có ái nhiễm th́ không có trụ trước. V́ không trụ trước th́ không kề cận. V́ không kề cận th́ không thọ nhận không nắm lấy. Sao gọi là không thọ không lấy? Đó là sắc hoặc thường hoặc vô thường đều không thọ không lấy. Thọ tưởng hành và thức hoặc thường hoặc vô thường đều không thọ không lấy.

Sắc hoặc khổ hoặc lạc, hoặc có ngă hoặc vô ngă, hoặc tịnh hoặc bất tịnh đều không thọ không lấy. Thọ tưởng hành và thức hoặc khổ lạc, hoặc ngă vô ngă, hoặc tịnh bất tịnh đều không thọ không lấy.

Sắc hoặc không phi không đều không thọ không lấy. Thọ tưởng hành và thức hoặc không phi không đều không thọ, không lấy.

Sắc hoặc ly phi ly đều không thọ không lấy. Thọ tưởng hành thức hoặc ly phi ly đều không thọ không lấy.

Bồ Tát do không thọ không lấy nên được Vô Thọ tam muội. Bồ Tát trụ trong tam muội Vô Thọ này rồi, chư Phật Thế Tôn dùng tâm thông vô thượng thọ kư cho Bồ Tát ấy. Bồ Tát ấy dầu nhập Niết Bàn thấy tất cả chúng sanh cứu cánh đồng tánh Niết Bàn, v́ giáo hóa chúng sanh nên chẳng bỏ đại thệ trang nghiêm và Bồ Tát đại bi. Bồ Tát dùng chánh trí huệ thấy tất cả các hành ly tướng. V́ Bồ Tát dùng pháp nhăn thấy rơ ràng ly tướng nên có thể nói Như Lai trí minh".

Bấy giờ Bửu Đức Bồ Tát hỏi Hư Không Tạng Bồ Tát: "Bạch Đại Sĩ! Sao Ngài cớ ǵ tự ẩn trí của ḿnh mà nói là do trí lực của Như Lai?".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "Nầy Đại Sĩ! Đức Như Lai đâu chẳng dạy rằng nên ẩn lành tốt mà hiển bày dở xấu ư!

Nầy Đại Sĩ! Tôi lại hỏi Ngài tùy ư Ngài đáp.

Nầy Đại Sĩ! Nếu lúc không có Long Vương A Na Bà Đạt Đa th́ ao A Nậu Đạt có thể chảy ra thành bốn con sông để chúng sanh thọ dụng chăng?".

Bửu Đức Bồ Tát nói: "Không có, thưa Đại Sĩ ".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "Nầy Đại Sĩ! Nếu không có Đức Như Lai th́ không có pháp luật, Bồ Tát không do đâu để thành biển đại trí, cũng chẳng thể lợi ích tất cả chúng sanh. Do Đức Như Lai xuất thế mới có pháp luật mà chư Bồ Tát được thành biển đại trí, cũng có thể hóa độ tất cả chúng sanh. V́ thế nên biết rằng tất cả Bồ Tát được biện thuyết có thể dùng đó để lợi ích chúng sanh đều là thần lực của Như Lai".

Bửu Đức Bồ Tát lại hỏi: "Bạch Đại Sĩ! Như Lai biện có thể chuyển đến tâm Bồ Tát chăng?".

Hư Không Tạng Bồ Tát đáp: "Không có".

Bửu Đức Bồ Tát hỏi : "Như vậy th́ thế nào v́ do thần lực Như Lai mà Bồ Tát được biện thuyết ư?"

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "Nầy Đại Sĩ! Ví dụ như khéo trồng cây ăn trái, nhơn duyên ḥa hiệp bèn có trái có hột, nhưng cây chẳng phải là trái, mà trái th́ chẳng rời cây.

Đức Như Lai thuyết pháp, Bồ Tát ở trong pháp ấy v́ khéo thuận hành bèn sanh đại trí minh biện. Nhơn nơi Đức Phật thuyết pháp mà được, cũng không có chuyển".

Bửu Đức Bồ Tát nói: "Thật là hy hữu, thưa Đại Sĩ! Nhơn duyên sanh pháp thậm thâm khó suy lường như vậy".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "Nầy Đại Sĩ! Tất cả các pháp cứu cánh vô sanh".

Bửu Đức Bồ Tát nói: "Nhưng các pháp nói là từ nhơn duyên sanh".

Hư Không Tạng Bồ Tát hỏi: "Nầy Đại sĩ! Các pháp sanh rồi là sanh hay chưa sanh là sanh?".

Bửu Đức Bồ Tát nói: "Sanh rồi th́ chẳng sanh, chưa sanh cũng chẳng sanh".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "V́ vậy nên ĺa vô sanh".

Bửu Đức Bồ Tát hỏi: "Trong duyên có nhơn chăng?".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "Không có".

Bửu Đức Bồ Tát hỏi: "Trong nhơn có duyên chăng?".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "Không có".

Bửu Đức Bồ Tát hỏi: "Ư Đại Sĩ thế nào, hoặc nhơn hoặc duyên tự nó thiệt có tánh chăng?".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "Không có".

Bửu Đức Bồ Tát hỏi: "Ư Đại sĩ thế nào, các pháp không có nhơn duyên sanh ư?".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "Chẳng phải vậy. Nầy Đại Sĩ! V́ thế nên tất cả pháp không có tự tánh, không sanh, không khởi, không xuất. Do v́ duyên chẳng sanh nhơn, nhơn chẳng sanh duyên, tự tánh chẳng sanh tự tánh, tha tánh cũng chẳng sanh tha tánh, tự tánh chẳng sanh tha tánh, tha tánh chẳng sanh tự tánh. V́ vậy nên nói tất cả pháp tự tánh vô sanh. V́ như vô sanh vô diệt nên pháp tánh thiệt tế cũng vô sanh vô diệt. Như như pháp tánh thiệt tế là sở giác của Như Lai. Tất cả các pháp cũng như vậy, vô sanh vô diệt".

Bửu Đức Bồ Tát hỏi: "Thưa Đại Sĩ! Như Lai cũng chẳng xuất thế ư?".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "Việc ấy không nên nói. Tại sao, v́ Đức Như Lai nơi tất cả pháp đều chẳng thể nói được, chẳng nói xuất cũng chẳng được nói chẳng xuất.

Nếu có ai hỏi rằng Đức Như Lai xuất thế ư hay chẳng xuất thế ư? Người trí v́ chẳng hủy báng Như Lai nên thôi chẳng trả lời".

Bửu Đức Bồ Tát lại hỏi: "Nên thôi như thế nào?".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "Như pháp tánh trụ, nên thôi như vậy".

Bửu Đức Bồ Tát hỏi: "Thế nào là pháp tánh trụ?".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "Như hư không tánh trụ, trụ không có sở trụ, pháp tánh cũng trụ như vậy. Như pháp tánh chúng sanh tánh cũng vậy. Như chúng sanh tánh tất cả các pháp cũng vậy. Như tất cả pháp, Như Lai cũng trụ như vậy, trụ không có sở trụ. V́ không có trụ xứ nên không có trụ không có chẳng trụ. V́ vậy nên chẳng được nói là sanh chẳng được nói là diệt".

Bửu Đức Bồ Tát nói: "Thưa Đại Sĩ! Sự xuất thế của Như Lai thiệt là thậm thâm thậm thâm vậy".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "Nầy Đại Sĩ! Nếu có thể như thiệt biết rơ duyên sanh pháp th́ gọi là Phật xuất thế".

Bửu Đức Bồ Tát hỏi: "Thưa Đại Sĩ! Ai sẽ hiểu thuyết nầy?".

Hư không Tạng Bồ Tát nói: "Nầy Đại Sĩ! Nếu là người ở trong tất cả các pháp không được có tăng giảm".

Bửu Đức Bồ Tát hỏi: "Thưa Đại Sĩ! Sao gọi là tăng?".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "Nầy Đại Sĩ! Tăng ấy đó là tăng thượng cú, nghĩa là ở trong không có mà vọng sanh tăng thượng vậy.

Vô tăng thượng cú là b́nh đẳng cú, là vô đẳng cú, là vô văn tự cú, là vô cú, là vô giáo cú.

Trong vô giáo ấy không có cú không có tăng thượng cũng không có tâm ư thức, v́ vậy nên là chẳng phải cú.

Dụ như dấu chim bay trong hư không, cứu cánh đă không có, sẽ không có, mà nói là dấu chim bay. Cũng vậy, ở trong tất cả các pháp không có tự cú. Không có cú mà giả gọi là cú, như không có dấu chim mà giả gọi là dấu chim.

Cũng vậy, Như Lai xuất thế cũng không có xuất mà giả gọi là xuất. V́ vậy mà người trí chẳng nên thủ trước. V́ không thủ trước nên giả gọi là xuất mà thường y chỉ nơi vô xuất. Tại sao, v́ vô sanh là thiệt tánh của tất cả pháp vậy. Vô sanh th́ vô sở hữu, v́ vậy mà gọi tất cả các pháp vô sở hữu là tánh. Vô sở hữu tánh không có trụ xứ. V́ vô trụ xứ nên là vô trụ tế. Tất cả các pháp vô trụ tế tức là thiệt tế. Thiệt tế tức là nhứt thiết pháp tế. V́ vậy nên nói tất cả các pháp với thiệt tế b́nh đẳng.

Nói thiệt tế ấy là ba trường phần đoạn tế, là bất khả hoại tế, là bất đoạn bất thường tế, là như thiệt tế, là tam thế đẳng tế vậy.

Dùng những tế như vậy đều đồng nhứt thiết pháp tế. Tại sao, v́ thiệt tế với ngă tế không hai không khác. V́ thiệt tế với nhơn tế, chúng sanh tế, thọ mạng tế, dưỡng dục tế không hai không khác. Thiệt tế với ngă kiến tế không hai không khác. Ở trong ngă kiến không có thiệt tế. Nếu có thể thiệt biết như vậy th́ không có hai mươi thứ ngă kiến. Tại sao, v́ trong thiệt tế không có một, không có nhiều vậy.

Thiệt tế đồng với b́nh đẳng, không lai không khứ, không tận không diệt, v́ thiệt tế cứu cánh rỗng không vậy. V́ vậy mà nói tất cả các pháp là vô tận môn, là vô tận tế.

Niết Bàn ấy vô tận, nghĩa là rỗng không vậy, là vô tánh vậy. Như Niết Bàn vô tận vô bất tận, tất cả các pháp cũng như vậy. V́ vậy nên nói tất cả pháp đồng với Niết Bàn.

Các pháp vô đẳng vô bất đẳng v́ không không có sánh đôi vậy. Dụ như hư không không có sánh đôi, các pháp cũng như vậy.

Nếu người thấy có sánh đôi nói có Niết Bàn, đă nói có Niết Bàn bèn cầu Niết Bàn th́ trái nghịch với bực Hiền Thánh.

V́ đă nói có Niết Bàn bèn nói: Nầy nên biết, nầy nên dứt, nầy nên chứng, nầy nên tu, nầy nên sanh, nầy nên diệt. Người hành chẳng tṛn đủ như vậy th́ chẳng thể như thiệt biết, chẳng thể như thiệt thấy, th́ chẳng biết chẳng hiểu chẳng thấy. V́ chẳng biết chẳng hiểu tất cả các pháp nên thủ trước nơi văn tự, ở trong các pháp vọng sanh tranh cạnh. Người sanh sự tranh cạnh th́ ở trong Phật pháp là kẻ đáng thương vậy. Tại sao, v́ như Đức Thế Tôn dạy rằng: pháp Sa Môn chẳng nên tranh cạnh".

Bấy giờ Tôn giả A Nan bạch Đức Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn, thật là hi hữu. Đại Sĩ nầy biện tài có thể rất sâu rành rẽ khó hiểu khó lường như vậy. Nơi tất cả pháp chẳng trừ người thọ, như thân tự chứng có thể nói như vậy".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói với Tôn giả A Nan: "Thưa Đại Đức! Tôi đă tự thân chứng biết, v́ vậy nên như chỗ được chứng biết có thể nói như vậy. Tại sao, v́ thân tôi tức là hư không. Do hư không mà chứng biết tất cả các pháp được ấn hư không ấn.

Thưa Đại Đức A Nan! Phàm chư Bồ Tát tu thân khéo hiểu được thân th́ có thể dùng thân ấy làm các Phật sự hiện các loại h́nh tượng mà cũng chẳng thối nơi chơn pháp thân, lại cũng chẳng rời thân do kiết sử nghiệp nhơn sanh, và lại chẳng quá nơi b́nh đẳng pháp tánh biến hiện hoá thân đều được tự tại, ở tất cả Phật quốc độ khắp có thể thị hiện, trọn rồi chẳng ẩn thân ứng hóa. Tất cả việc làm ấy đều có thể gọi đó là thân chứng hành".

Tôn giả A Nan hỏi: "Bạch Đại Sĩ! Ở nơi pháp phải chăng Ngài có chứng ư?".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "Thưa Đại Đức A Nan! Tôi chẳng thấy pháp rời nơi thân, thân rời nơi pháp".

Tôn giả A Nan hỏi: "Nếu Đại Sĩ thân chứng, Đại Sĩ được quả A La Hán ư?".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "Thưa Đại Đức ! Không có được chẳng được, v́ vô sở đắc vậy. Nơi tất cả các pháp không có phiền năo hành v́ ly tham dục sân hận ngu si vậy. Đây gọi là A La Hán".

Tôn giả A Nan hỏi: "Thưa Đại Sĩ! Lúc nào Đại Sĩ sẽ bát Niết Bàn?".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "Thưa Đại Đức! Bực A La Hán không có bát Niết Bàn, v́ biết tất cả các pháp cứu cánh là Niết Bàn, cũng không có quan niệm Niết Bàn.

Hàng phàm ngu có phân biệt hí luận nói rằng: "Đây là sanh tử, đây là Niết Bàn". Bực A La Hán không có hí luận như vậy".

Tôn Giả A Nan nói: "Thưa Đại Sĩ! Như tôi hiểu nghĩa Đại Sĩ nói th́ luận về Bồ Tát chẳng nên nói là phàm phu, cũng chẳng nên nói là hữu học, chẳng nên nói là vô học. Tại sao, v́ bỏ ĺa hai tướng vậy".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "Lành thay, lành thay, thưa Đại Đức A Nan! Do v́ chẳng phải phàm phu, chẳng phải hữu học, chẳng phải vô học, nên các nơi các chỗ đều có thể thị hiện, nơi tất cả chỗ ấy cũng chẳng thủ trước ".

Lúc ấy có năm trăm vị Đại Thanh Văn đồng đem y Uất đa la tăng của ḿnh mặc dâng lên Hư Không Tạng Bồ Tát. Dâng y rồi đồng thanh nói rằng: "Có chúng sanh nào thâm tâm phát Vô Thượng Bồ Đề mau được lợi lành chẳng rơi ra ngoài pháp tạng đại trí như vậy".

Những y Uất đa la tăng được dâng cúng ấy liền chẳng c̣n hiện. Chư đại Thanh Văn hỏi Hư Không Tạng Bồ Tát: "Bạch Đại Sĩ! Những y ấy đến ở đâu vậy?".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "Vào trong tạng của tôi. Đức Như Lai biết đó sao các Ngài chẳng hỏi".

Chư đại Thanh Văn bạch Đức Phật: "Bạch Đức Thế Tôn! Những y ấy đến ở chỗ nào vậy?".

Đức Phật nói: "Nầy chư Tỳ Kheo! Phương Đông quá vô lượng a tăng kỳ chư Phật quốc độ có thế giới tên là Ca Sa Tràng, Phật hiệu Sơn Vương Như Lai. Hư Không Tạng Bồ Tát đă khiến những y ấy đến thế giới đó".

Chư đại Thanh Văn lại nói: "Bạch Đức Thế Tôn! Do nhơn duyên ǵ mà Hư Không Tạng Bồ Tát khiến y đến thế giới đó?".

Đức Phật nói: "Muốn dùng những y ấy ở thế giới kia làm Phật sự. Ở nơi đây Hư Không Tạng Bồ Tát nói pháp môn Như Hư Không Đẳng tam muội. Tam muội nầy ở trong những y ấy sẽ diễn pháp âm đó: Trong thế giới Ca Sa Tràng có vô lượng a tăng kỳ chúng Bồ Tát do nghe pháp âm đó nên được vô sanh pháp nhẫn.

Chư Tỳ Kheo nên biết Bồ Tát làm các thứ phương tiện như vậy lợi ích chúng sanh".

Lúc nói pháp nầy ở trên hư không mưa vô lượng hoa màu hoàng kim, trùm khắp nhà Diệu Bửu Trang Nghiêm Đường. Trong các kim sắc hoa ấy phát xuất pháp âm như vầy:

Có chúng sanh nào tin pháp được Hư Không Tạng Bồ Tát nói, khéo thuận tư duy phân biệt nghĩa ư th́ sẽ được ấn Bất Thối Chuyển Ấn, quyết định được đến đạo tràng Bồ Đề Vô Thượng".

Tôn giả A Nan bạch Đức Phật: "Bạch Đức Thế Tôn! Đây là thoại ứng ǵ, mưa kim sắc hoa ấy phát ra diệu âm như vậy vui đẹp chúng sanh?".

Đức Phật nói: "Nầy A Nan! Có Phạm Thiên tên Quang Minh Trang Nghiêm từ cung trời Phạm Thiên cùng với sáu mươi tám trăm ngàn Phạm chúng đều muốn đến nơi nầy".

Đức Phật nói xong, chúng Phạm Thiên bỗng đến tại Diệu Bửu Trang Nghiêm Đường Đảnh lễ chân Phật hữu nhiễu bảy ṿng rồi đứng một phía chắp tay hướng lên Đức Phật bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Thật là hy hữu, Hư Không Tạng Bồ Tát bất khả tư nghị thanh tịnh giới tụ tịnh tu các thiền định, thiện phân biệt đại trí huệ hay du hí các đại thần thông, khéo hay đầy đủ đại hoằng thệ nguyện, khéo hay thành tựu đại quyền phương tiện, khéo hay trang nghiêm thân khẩu ư, khéo ở trong các pháp thành tựu sức đại tự tại. Thân khẩu và ư của Hư Không Tạng Bồ Tát đây đều không có làm không có phân biệt ức tưởng mà hay hiện thần biến trang nghiêm bất khả tư nghị, lại hay hiển hiện vô lượng trăm ngàn pháp môn, cũng hay xuất nhập trăm ngàn các môn tam muội, từ xưa đến nay thường thích tu tập thành tựu các thiện pháp.

Bạch Đức Thế Tôn! Chư Bồ Tát chẳng nên ở nơi quá khứ xưa tu thiện căn mà chẳng biết nhơn của nó, tập họp các thiện căn cũng nên không nhàm. Tại sao, v́ do thuở trước vun trồng thiện căn quả báo nên hay hiện thần biến bất khả tư nghị như vậy".

Đức Phật nói với Phạm Thiên: "Đúng vậy, đúng vậy, như lời Phạm Thiên nói. Chư Bồ Tát đă thành tựu thiện căn tư lương và xuất yếu trí phương tiện nên có thể hiện những sự công đức trang nghiêm bất khả tư nghị như vậy, không có ức tưởng phân biệt cũng không chẳng phân biệt".

Phạm Thiên bạch Đức Phật: "Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là Bồ Tát tập họp thiện căn tư lương và xuất yếu trí phương tiện?".

Đức Phật bảo Quang Minh Trang Nghiêm Phạm Thiên: "Nầy Phạm Thiên! Thiện căn có ba thứ: Đó là vô tham thiện căn, vô sân thiện căn và vô si thiện căn. Đây gọi là thiện căn.

Tư lương là bỏ tất cả sở hữu tu tâm từ quán các pháp. Đây gọi là tư lương.

Phương tiện là bỏ ĺa phàm phu địa, chẳng mong muốn Thanh Văn địa và Bích Chi Phật địa mà tiến vào chư Bồ Tát địa. Đây gọi là phương tiện.

Trí là trí biết bỏ pháp bất thiện, trí biết tập họp thiện pháp, trí biết hồi hướng Bồ Đề. Đây gọi là trí.

Bồ Tát hay an trụ những chánh hạnh như vậy, đây gọi là xuất yếu.

C̣n nữa, thiện căn là hay phát tâm Vô Thượng Bồ Đề. Tư lương là cầu tất cả thiện pháp. Phương tiện là thiện căn đă làm hay chưa làm trọn chẳng bỏ quên. Trí là biết tâm như ảo huyễn biến hóa. Hiện tiền biết rơ các pháp như vậy, đây gọi là xuất yếu.

C̣n nữa, thiện căn là thuần chí. Tư lương là phát động. Phương tiện là thâm tâm. Trí là không tŕ, không động, không năng. Thực hành các pháp như vậy gọi là xuất yếu.

C̣n nữa, thiện căn là dục thiện pháp. Tư lương là thắng tiến. Phương tiện là an trụ bất phóng dật, trí là xả bỏ tất cả sở y. Nếu hay hành các hạnh như vậy th́ gọi là xuất yếu.

C̣n nữa, thiện căn là chánh tín. Tư lương là chẳng bỏ bổn nguyện. Phương tiện là chẳng bỏ niệm và định. Trí là huệ. Hay chánh trụ các hạnh như vậy th́ gọi là thành tựu thiện căn tư lương trí phương tiện xuất yếu.

C̣n nữa, thiện căn là làm vui đẹp tất cả thiện tri thức. Tư lương là cung cấp vật cần dùng cung kính cúng dường tôn trọng lợi ích. Phương tiện là nơi các thiện tri thức tưởng như Phật. Trí là biết thời và phi thời mà hỏi pháp. Hay chánh trụ các hạnh như vậy th́ gọi là xuất yếu.

C̣n nữa, thiện căn là thiện thuận nghe pháp. Tư lương là thọ tŕ chẳng bỏ quên. Phương tiện là theo pháp được nghe có thể khéo quán. Trí là theo pháp được nghe mà làm. Hay chánh trụ các hạnh như vậy th́ gọi là xuất yếu.

C̣n nữa, thiện căn là gặp Phật vui mừng. Tư lương là hộ tŕ tất cả Ba la mật các nhiếp pháp và các pháp trợ đạo. Phương tiện là hay từ một địa đến một địa. Trí là được vô sanh pháp nhẫn. Bồ Tát hay chánh trụ các hạnh như vậy th́ gọi là xuất yếu".

Quang Minh Trang Nghiêm Phạm Thiên bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Đức Như Lai có thể dùng nghĩa bốn câu mà tổng nói tất cả Bồ Tát hạnh. Bạch Đức Thế Tôn! Tất cả Phật pháp phải nên ở trong đó mà cầu".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói với Phạm Thiên: "Nầy Phạm Thiên! Một câu cũng có thể nhiếp hết tất cả Phật pháp, đó là câu ly dục, tại sao, v́ tất cả Phật pháp đồng với ly dục. Như Phật pháp tất cả pháp cũng vậy.

C̣n nữa, một câu rỗng không tổng nhiếp tất cả Phật pháp. Tại sao, v́ tất cả Phật pháp đồng với rỗng không vậy. Như Phật pháp, tất cả pháp cũng vậy.

C̣n có các một câu tổng nhiếp tất cả Phật pháp, đó là câu vô tướng, là câu vô nguyện, là câu vô tác, là câu vô sanh, là câu vô khởi, là câu như, là câu pháp tánh, là câu chơn tế, là câu ly, là câu diệt, là câu tận, là câu Niết Bàn tổng nhiếp tất cả Phật pháp, tại sao, v́ tất cả Phật pháp đồng với Niết Bàn vậy. Như Phật pháp tất cả các pháp cũng vậy.

Nầy Phạm Thiên! Đó là một câu tổng nhiếp tất cả Phật pháp, tại sao, v́ những câu như vậy đều chẳng phải câu, tất cả Phật pháp chẳng phải câu mà giả danh là câu.

C̣n nữa, nầy Phạm Thiên! Dục là ly dục cú, tại sao, v́ tánh ly dục là dục vậy. Tất cả Phật pháp cũng đồng tánh ấy.

Sân là ly sân cú, tại sao, v́ tánh ly sân là sân vậy. Si là ly si cú, tại sao, v́ tánh ly si là si vậy. Tất cả Phật pháp cũng đồng tánh ấy.

Thân kiến là thiệt tế cú. Tại sao, v́ tánh thiệt tế tức là thân kiến. Tất cả Phật pháp cũng đồng tánh ấy.

Vô minh là minh cú, tại sao, v́ tánh minh là vô minh vậy. Tất cả Phật pháp cũng đồng tánh ấy.

Nhẫn đến khổ năo là ly khổ năo cú, tại sao, v́ tánh ly khổ năo là khổ năo vậy. Tất cả Phật pháp cũng đồng tánh ấy.

Sắc uẩn là hư không cú, tại sao, v́ tánh hư không tức là sắc vậy. Tất cả Phật pháp cũng đồng tánh ấy.

Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn là hư không cú, tại sao, v́ tánh hư không tức là thọ, tưởng, hành, thức vậy. Tất cả Phật pháp cũng đồng tánh ấy.

Sắc đến thức là vô tác cú, tại sao, v́ tánh vô tác tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức vậy. Tất cả Phật pháp cũng đồng tánh ấy.

Địa đại là hư không cú, tại sao, v́ tánh hư không tức là địa đại vậy. Tất cả Phật pháp cũng đồng tánh ấy.

Thủy đại, hỏa đại, phong đại là pháp giới cú, tại sao, v́ tánh pháp giới tức là địa, thủy, hỏa, phong đại vậy. Tất cả Phật pháp cũng đồng tánh ấy.

Nhăn là Niết Bàn cú, tại sao, v́ tánh Niết Bàn tức là nhăn vậy. Tất cả Phật pháp cũng đồng tánh ấy.

Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ư là Niết Bàn cú, tại sao, v́ tánh Niết Bàn tức là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ư vậy. Tất cả Phật pháp cũng đồng tánh ấy.

Nầy Phạm Thiên! Đó là một câu tổng nhiếp tất cả Phật pháp. Bồ Tát nhập vào những môn nhứt nhứt trí như vậy đều thấy tất cả Phật pháp nhập vào một câu.

Nầy Phạm Thiên! Ví dụ như đại hải có thể nuốt hết tất cả các ḍng nước. Trong mỗi mỗi câu tổng nhiếp tất cả Phật pháp cũng như vậy...

Ví như hư không đều có thể bao dung tất cả sắc tướng. Trong mỗi mỗi câu tổng nhiếp tất cả Phật pháp cũng như vậy.

Tất cả Phật pháp như vậy hoặc nhiếp hoặc chẳng nhiếp, hoặc nói hoặc chẳng nói đều bất tăng bất giảm, v́ cứu cánh ly tướng vậy.

Nầy Phạm Thiên! Ví dụ như toán sư luôn luôn lấy thẻ toán bày bố trên bàn toán, nhưng trong bàn không có thẻ, trong thẻ không có bàn, tại sao, v́ cứu cánh chẳng tương ưng vậy, v́ cứu cánh ly vậy.

Ở trong mỗi mỗi câu trên như vậy, v́ giả danh số mà nói tất cả Phật pháp đều nhiếp vào một câu, mà các Phật pháp chẳng thể danh số toán đếm được, tại sao, v́ cứu cánh chẳng tương ưng vậy, v́ cứu cánh ly vậy.

Nầy Phạm Thiên! Như Phật pháp danh số tức là tất cả pháp danh số, tại sao, v́ tất cả các pháp tức là Phật pháp, tại sao, v́ những pháp phi pháp và phi phi pháp ấy tự tánh rỗng không vậy, tự tánh ly vậy, tự tánh cứu cánh vô tánh vậy. Vô tánh tức là hư không, tánh hư không đồng tánh tất cả pháp. Pháp tánh ấy chẳng phải tướng sanh, chẳng phải tướng diệt, chẳng phải tướng hữu xứ, chẳng phải tướng vô xứ. V́ vậy nên tất cả pháp gọi là không có tướng không chẳng tướng".

Lúc Hư Không Tạng đại Bồ Tát nói pháp ấy, trong hàng Phạm chúng có một vạn hai ngàn Phạm Thiên đều phát tâm Vô Thượng Bồ Đề. C̣n có năm trăm Phạm Thiên từ xưa đă trồng gốc lành, được vô sanh pháp nhẫn.

Lúc bấy giờ trong đại chúng có một Bồ Tát tên là Bửu Thủ hỏi Hư Không Tạng Bồ Tát rằng: "Bạch Đại Sĩ! Thật là hy hữu, tất cả các pháp và Phật pháp thậm thâm khó lường chẳng thể nghĩ bàn.

Thưa Đại Sĩ! Sao gọi là đặt căn bổn tất cả Phật pháp?".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "Nầy Bửu Thủ! Bồ Đề tâm là đặt căn bổn tất cả Phật pháp. Tất cả pháp do an trụ tâm Bồ Đề th́ được tăng trưởng".

Bửu Thủ Bồ Tát hỏi: "Thưa Đại Sĩ! Tâm Bồ Đề ấy được pháp nào nhiếp chẳng quên mất có thể mau đến bực bất thối chuyển?".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "Nầy Bửu Thủ! Tâm Bồ Đề ấy được hai pháp nhiếp thủ được chẳng quên mất mau đến bực bất thối chyển. Đó là thuần chí và cứu cánh vậy".

Bửu Thủ Bồ Tát hỏi: "Thưa Đại Sĩ! Hai pháp ấy được bao nhiêu pháp nhiếp ?".

Hư không Tạng Bồ Tát nói: "Hai pháp ấy được bốn pháp nhiếp lấy. Đó là thuần chí th́ được chẳng hư trá và chẳng siểm khúc nhiếp. Cứu cánh th́ được vô ngă và thượng tiến nhiếp. Đây gọi là hai pháp được nhiếp bởi bốn pháp vậy".

Bửu Thủ Bồ Tát lại hỏi: "Thưa Đại Sĩ! Bốn pháp ấy được mấy pháp nhiếp?".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "Bốn pháp ấy được tám pháp nhiếp lấy! Đó là chẳng hư trá th́ được chẳng do dự và thể chơn tịnh nhiếp. Chẳng siểm khúc th́ được chánh trực và chánh trụ nhiếp. Vô ngă th́ được chẳng lui mất và tinh tiến nhiếp. Thượng tiến th́ được công đức tư lương và trí tư lương nhiếp. Đây là bốn pháp được nhiếp bởi tám pháp vậy".

Bửu Thủ Bồ Tát lại hỏi: "Thưa Đại Sĩ! Tám pháp ấy được nhiếp bởi mấy pháp?".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "Tám pháp ấy được mười sáu pháp nhiếp lấy. Đó là chẳng do dự th́ được đại từ và đại bi nhiếp. Thể chơn tịnh th́ được thân điều và tâm điều nhiếp. Chánh trực th́ được nhẫn nhục và nhu ḥa nhiếp. Chánh trụ th́ được chẳng kiêu mạn và không trệ ngại nhiếp. Chẳng lui mất th́ được kiên cố và sức lực nhiếp. Thượng tiến th́ được như sở tác và chánh hạnh nhiếp. Công đức tư lương th́ được thỉ phát và cứu cánh chẳng bỏ nhiếp. Trí tư lương th́ được cầu đa văn và tư duy pháp được nghe nhiếp. Đây là tám pháp được mười sáu pháp nhiếp".

Bửu Thủ Bồ Tát lại hỏi: "Thưa Đại Sĩ! Mười sáu pháp ấy lại được mấy pháp nhiếp?".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "Mười sáu pháp ấy được nhiếp bởi ba mươi hai pháp. Đó là đại từ th́ được vô ngại tâm và tâm b́nh đẳng nơi tất cả chúng sanh nhiếp. Đại bi th́ được không nhàm mỏi và siêng cung cấp đầy đủ tất cả chúng sanh nhiếp. Thân điều th́ được không xúc nhiễu và không gia hại nhiếp. Tâm điều th́ được chánh định và tịch tĩnh nhiếp. Nhẫn nhục th́ được chánh thọ giáo và thuận hành nhiếp. Nhu ḥa th́ được tàm và quí nhiếp. Không kiêu mạn th́ được khiêm ti và kính lễ nhiếp. Không trệ ngại th́ được không nhơ uế và chẳng hung dữ nhiếp. Kiên cố th́ được chẳng sai phạm sở hành và thành tựu bổn nguyện nhiếp. Lực th́ được trụ chánh ư và chẳng điệu động nhiếp. Như sở tác th́ được như thuyết và năng hành nhiếp. Chánh hạnh th́ được chánh pháp và chánh tiến nhiếp. Thỉ pháp th́ được tất thắng và bất thối nhiếp. Bất xả bỏ th́ được thích hơn và thượng cầu nhiếp. Cầu đa văn th́ được thân cận thiện tri thức và vui đẹp thiện tri thức nhiếp. Tư duy pháp được nghe th́ được trí huệ và khéo quán nhiếp. Đây là mười sáu pháp được nhiếp bởi ba mươi hai pháp".

Bửu Thủ Bồ Tát lại hỏi: "Thưa Đại Sĩ! Ba mươi hai pháp ấy lại được bao nhiêu pháp nhiếp?".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "Ba mươi hai pháp ấy được nhiếp bởi sáu mươi bốn pháp. Đó là vô ngại tâm th́ được hộ ngă và hộ bỉ nhiếp. Tâm b́nh đẳng nơi tất cả chúng sanh th́ được vô biệt dị và nhứt vị nhiếp. Không mỏi mệt th́ được quán như mộng và biết sanh tử như ảo huyễn nhiếp. Siêng cung cấp đầy đủ tất cả chúng sanh th́ được thần thông và phương tiện nhiếp. Chẳng xúc nhiễu th́ được hổ thẹn và tin có nghiệp báo nhiếp. Chẳng gia hại th́ đưọc thiểu dục và tri túc nhiếp. Chánh định th́ được không phát năo nhiệt và không tán thất nhiếp. Tịch tĩnh th́ được xả bỏ ngô ngă và ĺa ngă sở nhiếp. Thọ chánh giáo th́ được cầu pháp và thích muốn pháp nhiếp. Thuận hành th́ được kính trọng và b́nh đẳng không mỏi mệt nhiếp. Tàm th́ được nội tâm dứt trừ và ngoài chẳng hành nhiếp. Quí th́ được tin ưa Phật trí và ở chỗ khuất chẳng làm ác nhiếp. Khiêm ti th́ được chẳng ngạo mạn và biết tự hạ ḿnh nhiếp. Lễ kính th́ được thân đoan và tâm trực nhiếp. Không nhơ uế th́ được đủ có định tĩnh và tu tập huệ nhiếp. Chẳng hung dữ th́ được chẳng thô bạo và chẳng lưỡng thiệt nhiếp. Chẳng sai phạm sở hành th́ được chẳng xả bỏ Bồ Đề tâm và niệm đạo tràng nhiếp. Thành tựu bổn nguyện th́ được xả bỏ ma nghiệp và Phật lực hộ tŕ nhiếp. Chánh trụ ư th́ được chẳng khinh tháo và chẳng điệu loạn nhiếp. Chẳng điệu động th́ được như thạch sơn và chẳng di chuyển được nhiếp. Như thuyết th́ được sở tác thiện nghiệp và không nhiệt năo nhiếp. Năng hành th́ được không hư dối và chẳng bỏ chỗ hướng về nhiếp. Chánh phát th́ được ĺa biên kiến và thuận quán thậm thâm nhơn duyên nhiếp.

Chánh tiến th́ được thiện xảo và phương tiện nhiếp. Tất thắng th́ được chẳng giải đăi và dũng mănh nhiếp. Bất thối th́ được đại dục và tăng tiến nhiếp. Thích hơn th́ được thấy Phật và nghe pháp nhiếp. Thượng cầu th́ được bỏ lỗi hoạn của các bực địa và được công đức của các địa nhiếp. Thân cận thiện tri thức th́ được không ghét ganh và tin ưa nhiếp. Vui đẹp thiện tri thức th́ được kính thuận và chẳng trái nghịch lời dạy bảo nhiếp. Trí huệ th́ được vô thường quán và vô ngă quán nhiếp. Thiện quán th́ được tu vô tướng và chẳng dựa Niết Bàn nhiếp. Đây là ba mươi hai pháp được nhiếp bởi sáu mươi bốn pháp".

Bửu Thủ Bồ Tát lại hỏi: "Thưa Đại Sĩ! Sáu mươi bốn pháp ấy c̣n được mấy pháp nhiếp?".

Hư không Tạng Bồ Tát nói: "Sáu mươi bốn pháp ấy được một trăm hai mươi tám pháp nhiếp.

Hộ ngă th́ được dứt tất cả ác và thành tựu tất cả thiện căn nhiếp. Hộ bỉ th́ được nhẫn nhục và nhu ḥa nhiếp. Vô biệt dị th́ được tâm như nước và tâm như gió nhiếp. Nhứt vị th́ được pháp giới quán và như như quán nhiếp. Như mộng quán th́ được vô di chuyển quán và vô chơn thiệt quán nhiếp. Như ảo huyễn th́ được vừa theo tánh và vô tự tánh quán nhiếp. Các thần thông th́ được liễu nghĩa và liễu trí nhiếp. Phương tiện th́ được đại bi và Bát Nhă Ba la mật nhiếp. Hổ thẹn th́ được chẳng che giấu lỗi phạm và hối quá nhiếp. Tin có nghiệp báo th́ được bất phóng dật và sợ ác đạo nhiếp. Thiểu dục th́ được ở trong sách có chừng hạn và ĺa ô uế trước nhiếp. Tri túc th́ được dễ vừa và dễ nuôi nhiếp. Không phát năo th́ được cứu cánh và cứu cánh biên tế nhiếp. Không tán thất th́ được đắc nhẫn và bất thối chuyển địa nhiếp. Xả ngô ngă th́ được chẳng chấp ngă thân và chẳng chấp thọ mạng nhiếp. Ĺa ngă sở th́ được vô tham và vô si nhiếp. Cầu pháp th́ được trí và đoạn nhiếp. Thích muốn pháp th́ được chẳng ham ngũ dục và ĺa phiền năo nhiếp. Kính trọng th́ được sanh ư tưởng là Phật và tưởng cứu lành nhiếp. Không mỏi mệt th́ được thân nhẹ và siêng năng ít ngủ nhiếp. Nội tâm đoạn trừ th́ được thân niệm xứ và thọ niệm xứ nhiếp. Ngoài chẳng hành th́ được tâm niệm xứ và pháp niệm xứ nhiếp. Tin ưa Phật trí th́ được thâm kính trọng và tịnh tín nhiếp. Ở chỗ khuất chẳng làm ác th́ được tự chứng biết và chư Thiên thần chứng biết nhiếp. Chẳng ngạo mạn th́ được chẳng tự khen và chẳng chê người nhiếp. Biết tự hạ ḿnh th́ được chẳng hư xưng và chẳng hiển bày đức tốt của ḿnh nhiếp. Thân đoan th́ được chẳng hành ba nghiệp bất thiện và chẳng phạm cấm giới nhiếp. Tâm trực th́ được thường xét lỗi ḿnh và chẳng nói chỗ dở của người nhiếp. Đủ có định tĩnh th́ được tâm tịch tĩnh và dứt phiền năo nhiếp. Tu trí huệ th́ được tuyển chọn các pháp và biết vô ngă nhiếp. Chẳng thô bạo th́ được thường làm việc lợi ích và thuận nhẫn nhiếp. Chẳng lưỡng thiệt th́ được tự đủ quyến thuộc và ḥa hiệp biệt ly nhiếp. Chẳng bỏ tâm Bồ Đề th́ được chúng sanh và Phật trí nhiếp. Niệm đạo tràng th́ được muốn phá ma chúng và thành chánh giác nhiếp. Bỏ ma sự th́ được chánh giác và chẳng bỏ chí Bồ Đề nhiếp. Phật thần lực gia tŕ th́ được kiên cố hành và thiện thuần chí nhiếp. Chẳng khinh tháo th́ được giữ vững các căn và chẳng bỏ cảnh giới nhiếp. Chẳng điệu loạn th́ được quán khổ và quán không nhiếp. Như thạch sơn th́ được chẳng cao và chẳng hạ nhiếp. Chẳng di chuyển được th́ được dứt ái và trừ sân nhiếp. Sở tác thiện nghiệp th́ được trí sở tác nghiệp và bỏ ma sự nhiếp. Không nhiệt năo th́ được tịnh giới và tịnh định nhiếp. Không hư cuống th́ được thành thiệt ngữ và chẳng mong quả báo nhiếp. Chẳng bỏ chỗ hướng về th́ được thành tựu nghiệp bực hiền và chẳng hành khiếp nhược nhiếp. Ĺa biên kiến th́ được quán vô sanh và quán chẳng bại hoại nhiếp. Thuận quán thậm thâm nhơn duyên th́ được quán nhơn và quán duyên nhiếp. Thiện xảo th́ được đệ nhứt không tranh cạnh và chẳng ngạo mạn nhiếp. Phương tiện th́ được ly phương tiện và vô sanh phương tiện nhiếp. Chẳng giải đăi th́ được thân lực và tâm lực nhiếp. Dũng mănh th́ được tâm thắng tiến và hại oán địch nhiếp. Đại dục th́ được chẳng cầu lợi dưỡng và chẳng tiếc thân mạng nhiếp. Tăng tiến th́ được không ngu tối và chẳng thối hườn nhiếp. Thấy Phật th́ được tu niệm Phật và tịnh tín nhiếp. Nghe pháp th́ được thích đến chỗ giảng dạy và thích thưa hỏi nhiếp. Bỏ lỗi hoạn các địa th́ được chẳng tán loạn hành và bỏ ĺa ác tri thức nhiếp. Được công đức của các địa th́ được phương tiện hồi hướng và chẳng bỏ bổn hành nhiếp. Không ghét ganh th́ được có thể thí cho tất cả và vật vừa ư mà xả bỏ nhiếp. Tin ưa th́ được vô cấu hành và tâm chẳng trược nhiếp. Kính thuận th́ được biết thời biết chỗ hạp nên của thế gian và tùy thuận hành nhiếp. Chẳng trái nghịch lời dạy bảo th́ được bỏ trừ bất tịnh và tịnh chánh hạnh nhiếp. Vô thường quán th́ được quán động chuyển và quán bại hoại nhiếp. Vô ngă quán th́ được chẳng có tác giả và chẳng có thọ giả nhiếp. Tu vô tướng th́ được chẳng duyên cảnh giới và trừ giác quán nhiếp. Chẳng dựa Niết Bàn th́ được trừ bỏ vô minh và dứt ái trước nhiếp. Đây là sáu mươi bốn pháp được một trăm hai mươi tám pháp nhiếp".

Bửu Thủ Bồ Tát nghe Hư Không Tạng Bồ Tát phân biệt những pháp môn như vậy rồi, vui mừng hớn hở được chưa từng có, liền bạch Hư Không Tạng Bồ Tát: "Bạch Đại Sĩ ! Thật là hy hữu, Đại Sĩ có thể thành tựu biện tài nhanh lẹ như vậy và phân biệt biện thuyết rất giỏi. Các sự được hỏi đều hay giải bày được hết.

Như nay tôi hiểu ư nghĩa và văn tự của Đại Sĩ nói, dùng phương tiện như vậy hoặc một kiếp hoặc giảm một kiếp nói chẳng hết được và biện luận cũng chẳng dứt".

Đức Phật bảo Bửu Thủ Bồ Tát: "Đúng vậy, đúng vậy, nầy Bửu Thủ! Đúng như lời ông nói. Bồ Tát Hư Không Tạng ấy nếu diễn nói nghĩa một câu, hoặc một kiếp hay giảm một kiếp nói chẳng hết được, biện cũng chẳng dứt. Hư Không Tạng Bồ Tát có vô lượng vô biên bất khả tư nghị biện tài như vậy".

Bấy giờ Bửu Thủ Bồ Tát dùng bàn tay che trùm khắp nhà Diệu Bửu Trang Nghiêm Đường, trong bàn tay ấy xuất hiện vô lượng hoa hương anh lạc y phục những món trang sức và những tràng phan lọng đẹp, tuôn ra những món cúng dường thượng diệu như vậy để cúng dường Đức Như Lai và Hư Không Tạng Bồ Tát, trên không có trăm ngàn âm nhạc chẳng trỗi mà tự kêu.

Trong tiếng âm nhạc ấy phát ra những bài kệ vi diệu ca ngợi Đức Như Lai:

Ǵn đức dạy đức đủ trăm phước
Tâm ư điều phục niệm chẳng động
Sa Môn Đại Sĩ xuống Trời Người
Mười phương Bồ Tát đều hiện đến
Danh xưng oai đức đấng tự tại
Điều phục chúng sanh trừ si tối
Hay độ trời người đang nổi trôi
Đóng cửa ác đạo khiến thanh tịnh
Đại Thánh khéo nói âm vi diệu
Không sai không lầm âm thanh tịnh
Ba cơi không sánh không ba độc
Thế Tôn nói pháp cho chúng vui
Ư niệm kiên cố ưa tịch tĩnh
Tối thắng thập lực ai cũng phục
Đă bỏ siểm khúc được cam lộ
Không có trần lụy chúng quy ngưỡng
Thế Tôn ở chúng chẳng động chuyển
Mà độ vô lượng chúng mười phương
Tùy chúng sanh hành hay tùy thuận
Phật tử cũng thích tu hạnh ấy
Mặt nhựt không che hay chiếu khắp
Hay khiến các hoa được đua nở
Phật trí huệ quang soi tối tăm
Phật tử được tỏ cũng như vậy
Như gió vô ngại núi chẳng động
Sạch như hư không sáng như nhựt
Phật tử phóng quang mưa cam lộ
V́ vậy tôi lạy Phật Bồ Tát.
Đại Thiên nước biển c̣n lường được
Mười phương hư không c̣n bước được
Tâm các chúng sanh c̣n đồng được
Công đức của Phật chẳng cùng tận.

Trên không âm nhạc vang ra mhững bài kệ vi diệu ấy rồi , ma vương Ba Tuần nghiêm bị bốn binh chủng đến chỗ Đức Phật, hóa thân trưởng giả lễ chưn Đức Phật đứng ở một phía mà bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Thật là hy hữu, các bực Đại Sĩ ấy có thể thành tựu các thứ thần biến bất khả tư nghị c̣n có thể thị hiện mhững sự trang nghiêm bất khả tư nghị như vậy.

Bạch Đức Thế Tôn! Đời vị lai có bao nhiêu chúng sanh nghe thần biến bất khả tư nghị nầy mà được khai ngộ quyết định chẳng nghi?

Đức Phật nói: "Nầy Ba Tuần! Trong đời vị lai ít có chúng sanh hoặc một người hoặc hai người nghe kinh điển thần biến bất tư nghị nầy mà được tin hiểu th́ ít có lắm".

Nầy Ba Tuần! Như một sợi lông chia làm trăm phần, lấy một phần lông chấm lấy một giọt nước biển trong đại hải. Ư của ông nghĩ thế nào, giọt nước được chấm lấy ấy so với nước cả đại hải ít nhiều thế nào?

Ba Tuần bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Được lấy rất ít, số c̣n lại rất nhiều".

Đức Phật nói: "Nầy Ba Tuần! Như nước được lấy rất ít, chúng sanh nghe kinh điển thần biến bất tư nghị nầy mà có thể tin hiểu được th́ rất ít cũng như vậy. Như trong đại hải nước c̣n lại rất nhiều, chúng sanh chẳng tin hiểu được kinh điển thần biến bất tư nghị nầy rất đông nhiều cũng như vậy.

Nầy Ba Tuần! Nếu có một người trong thời gian số kiếp bằng số cát sông Hằng, mỗi ngày đem trân bửu đầy cả Đại Thiên thế giới dùng để bố thí, người nầy được phước chẳng bằng thiện nam tử thiện nữ nhơn nghe kinh điển thần biến bất tư nghị nầy mà có thể tin hiểu được phước nầy rất là nhiều. Tại sao, nếu là người tin hiểu kinh điển nầy, th́ biết người ấy thân từ Thích Ca Mâu Ni Phật nghe kinh điển nầy tin hiểu không nghi. Tại sao, v́ nếu là chúng sanh chưa vun trồng thiện căn nghe kinh điển khó được thế gian tin nầy mà có thể tin được th́ không có lẽ ấy.

Nầy Ba Tuần, sau khi Phật bát Niết Bàn lúc pháp sắp diệt có đông chúng sanh kiêu mạn. Những chúng sanh ấy chấp văn tự của Phật nói v́ chẳng biết phương tiện nên họ riêng sanh tranh cạnh, bỏ pháp tư duy, bỏ chánh hạnh của ḿnh, v́ lợi dưỡng danh dự y phục uống ăn mà tự ràng buộc, thích luận bàn các sự việc thế tục và sách luận văn từ thế tục mà chẳng luận bàn đệ nhứt nghĩa đế, chẳng thích suy gẫm Phật vô thượng đạo, họ lại c̣n hướng đến người khác mà luận chê kinh điển chơn thiệt thâm diệu nầy, đây là phỉ báng chư Phật. Họ chứa họp khối vô lượng khổ năo lớn. Các hạng ma thần ma thiên tá trợ người ấy, v́ lợi dưỡng cung kính và danh dự nên họ lại thêm phóng dật ngạo mạn. Do ngạo mạn mà các người ấy thấy có ai tŕ giới hiền thiện thọ tŕ đọc tụng kinh điển nầy, họ bèn khi dễ ghét ganh hủy báng. Các người ngu si nầy hiện đời phá phạm cấm giới. Trong bọn ấy hoặc v́ sợ khó sanh sống, hoặc v́ hổ thẹn nơi người nên có kẻ giả mặc ca sa, hoặc xả giới hoàn tục. Những kẻ này thân hư mạng chết đọa địa ngục A Tỳ thọ khổ báo.

Nầy Ba Tuần! Trong đời vị lai có chúng sanh cầu Bồ Tát thừa mới phát đạo tâm căn lành cạn ít nắm lấy nhơn duyên chỉ chấp văn tự chẳng rơ được nghĩa, thọ tŕ đọc tụng kinh điển thậm thâm như vầy và lúc v́ người diễn nói, th́ bị người khác khinh khi chê trách. V́ bị người khinh chê nên bèn bỏ các kinh điển thậm thâm như vầy mà đọc tụng các kinh tương ưng với Thanh Văn thừa, Bích Chi Phật thừa. V́ bị ràng buộc bởi lợi dưỡng danh dự các vật cần dùng nên họ trở lại hủy báng các kinh điển thậm thâm chơn thiệt như vầy. Họ cũng khinh miệt người thọ tŕ đọc tụng các kinh điển ấy, cho đến chẳng muốn đưa mắt nh́n ngó. Họ thường thích hạnh thấp kém mà thối thất pháp Đại thừa Bồ Tát. Đó là thối thất tâm thuần chí và thâm tâm. Ma thần ma thiên được những người nầy bèn cố gắng làm nhiều cách hoại loạn tâm họ cho đến khiến chẳng nghe các kinh ấy, dầu cho có nghe th́ khiến sanh ḷng hủy báng không tin. Các người nầy cũng c̣n chứa họp vô lượng tội thành tựu nghiệp phá pháp, ĺa hẳn Tam Bửu chẳng được thấy Phật nghe Pháp cúng dường tăng. Tại sao, v́ ở trong pháp luật được Phật nói mà sanh nghi do dự vậy".

Bấy giờ ma vương Ba Tuần tự thấy ḿnh có lỗi nên lo rầu sợ sệt đến lạy chưn Phật rồi đứng qua một phía.

Hư Không Tạng Bồ Tát hỏi: "Nầy Ba Tuần! Có chi mà ngươi lo rầu tiều tụy run sợ như người thất chí mà đứng qua một phía vậy?".

Ma vương Ba Tuần nói: "Thưa Đại Sĩ! Tôi từ nơi Phật nghe nói những sự đáng sợ như vậy nên tôi lo rầu sợ sẽ bị đọa ác đạo, ai sẽ cứu tôi. Ở trong pháp luật của Phật dạy tôi luôn luôn làm vô lượng sự trở ngại. V́ vậy mà tôi lo sợ lắm".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói: "Nầy Ba Tuần! Trong Phật pháp có pháp xuất tội. Ông nên đến chỗ Thế Tôn thành tâm sám hối các tội ác đă làm chớ có làm lại nữa. Nếu ông có thể như vậy th́ sẽ được lợi ích tốt chẳng luống uổng".

Nghe lời khuyên ấy, Thiên ma Ba Tuần liền đến chỗ Đức Phật năm vóc gieo xuống lạy chưn Đức Phật ngước nh́n Phật rơi nước mắt mà bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Nay tôi thành tâm sám hối từ xưa đến nay ở trong pháp luật của Đức Phật dạy thường làm vô lượng sự trở ngại. Ngưỡng mong Đức Như Lai v́ ḷng từ bi thương xót thọ tôi sám hối".

Đức Phật nói: "Lành thay, lành thay, nầy Ba Tuần! Ông có thể tự thấy các việc ác đă làm, là thượng thiện thay người có thể ăn năn tội lỗi như vậy ở trong Phật pháp th́ làm rộng lớn pháp tạng Như Lai. Chư Phật cũng thọ người ấy sám hối. V́ vậy nên từ nay ông chớ nên phạm nữa".

Đức Thế Tôn bảo chư Bồ Tát: "Các Đại Sĩ! Nay các người đều riêng nói pháp quá ma giới hành để tỏ ḷng thương Thiên ma Ba Tuần vậy".

Trong đại chúng có Bồ Tát tên Kim Sơn Vương bạch Đức Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có người pḥng hộ nội giới th́ chưa quá ma giới. Nếu thấy tất cả các giới đồng Phật giới, biết Phật giới ấy tức là phi giới, Bồ Tát nầy có thể quá ma giới".

Bửu Đức Bồ Tát bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! C̣n có chỗ dựa cậy nương nhờ là chưa khỏi ma giới. Nếu chẳng dựa cậy nương nhờ biết tất cả pháp vô sở đắc có thể v́ chúng sanh nói pháp không sở y, Bồ Tát nầy có thể quá ma giới".

Bửu Thủ Bồ Tát bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có thủ lấy ngă và ngă sở đây là ma giới. Nếu không có thủ ngă và ngă sở th́ không có tranh cạnh. V́ không có tranh cạnh th́ không có tâm hành. Tâm hành c̣n không có huống là có ma giới ư! Đây là Bồ Tát có thể quá các ma giới vậy.

Vô Tranh Dũng Bồ Tát bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có xúc có ly th́ có tranh tụng, có tranh tụng th́ ma được tiện lợi. Nếu không xúc không ly th́ tự ḿnh không có tranh tụng, cũng chẳng làm cho người tranh tụng, v́ được vô ngă vậy. Người không năo hành có thể quá ma giới".

Bửu Tư Bồ Tát bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có vọng tưởng phân biệt th́ là phiền năo và có phiền năo xứ th́ là ma giới. Nếu có Bồ Tát biết tất cả pháp không có tướng mạo, nơi các phiền năo th́ không vọng tưởng. Hoặc nội hoặc ngoại cũng chẳng biết khác. V́ bỏ ĺa tất cả vọng tưởng phân biệt đây là Bồ Tát có thể quá ma giới".

Lạc Hành Bồ Tát bạch rằng: " Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có chỗ thích chỗ chẳng thích th́ có yêu có ghét. Nếu có yêu có ghét th́ có ma giới. Nếu có Bồ Tát bỏ ĺa yêu ghét b́nh đẳng hành ở trong các pháp không có hai tưởng, được nhập bất khả tư nghị giới". Đây là Bồ Tát có thể quá ma giới.

Ly Tranh Bồ Tát bạch rằng: « Bạch Đức Thế Tôn! Ma giới do ngă mà phát khởi. Nếu Bồ Tát có thể biết được ngă được vô ngă nhẫn th́ biết ngă tịnh, v́ biết ngă tịnh nên biết tất cả pháp tịnh, v́ biết tất cả pháp tịnh nên biết tất cả pháp tánh tịnh như hư không. Đây là Bồ Tát có thể quá ma giới".

Pháp Tự Tại Bồ Tát bạch rằng: « Bạch Đức Thế Tôn! Nếu thuận phiền năo pháp th́ bị ái sai sử mà ma được tiện lợi. Nếu có Bồ Tát ở trong các pháp rất được tự tại tự nhiên khai ngộ, v́ được chư Phật thọ kư, nơi Bồ Tát pháp trọn chẳng thối chuyển. Đây là Bồ Tát có thể quá ma giới".

Sơn Tướng Kích Vương Bồ Tát bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Nếu tâm có khuyết lậu th́ là ma giới. Nếu Bồ Tát giới không khuyết lậu tâm không khuyết lậu thành tựu tất cả pháp không hành, Đây là Bồ Tát có thể quá ma giới".

Hỉ Kiến Bồ Tát bạch rằng: " Bạch Đức Thế Tôn! Nếu người chẳng thấy Phật chẳng nghe pháp th́ ma được tiện lợi. Nếu Bồ Tát thường thấy chư Phật mà chẳng thủ trước sắc tượng, thường nghe pháp mà chẳng trụ trước văn tự do v́ thấy pháp th́ là thấy Phật. V́ không ngôn thuyết nên có thể nghe pháp. Đây là Bồ Tát có thể quá ma giới".

Đế Vơng Bồ Tát bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có cậy có động th́ là ma giới. Nếu Bồ Tát khéo thuận tinh tiến biết tất cả pháp cứu cánh không có tướng thành tựu mà không cậy không động. Đây là Bồ Tát có thể quá ma giới".

Đức Minh Vương Bồ Tát bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Nếu hành hai pháp th́ ma được tiện lợi. Nếu Bồ Tát biết tất cả các pháp đồng với pháp tánh th́ chẳng thấy ma giới cùng pháp tánh có khác, biết pháp giới cùng ma giới b́nh đẳng v́ chẳng hai tướng vậy. Đây là Bồ Tát có thể quá ma giới".

Hương Tượng Bồ Tát bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Nếu Bồ Tát khiếp nhược sợ pháp thậm thâm th́ ma được tiện lợi. Nếu dũng kiện Bồ Tát khéo có thể không đạt ba môn giải thoát, ở trong các pháp thậm thâm chẳng kinh chẳng sợ, v́ có thể hiện tiền chứng biết các pháp thiệt tánh. Đây là Bồ Tát có thể quá ma giới".

Di Lặc Bồ Tát bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Như nước trong biển đồng một vị mặn. Trong biển Phật pháp cũng đồng một pháp vị, đó là giải thoát vị, ly dục vị. Nếu Bồ Tát khéo hiểu pháp một vị, Đây là Bồ Tát có thể quá ma nghiệp".

Hư Không Tạng Bồ Tát bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Như hư không cứu cánh vô cấu, cứu cánh sáng sạch, cứu cánh chẳng bị tất cả khói bụi mây mù làm rối nhiễu. Cũng vậy tâm Bồ Tát như hư không, biết rơ tất cả các pháp tánh thường thanh tịnh, cũng chẳng bị tất cả khách trần phiền năo làm rối nhiễu được đến bỉ ngạn Bát Nhă Ba la mật ĺa các tối tăm, nơi các pháp được huệ quang minh. Đây là Bồ Tát có thể quá ma giới".

Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử Bồ Tát bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có ngôn ngữ th́ có trệ ngại, nếu có trệ ngại th́ có ma giới. Nếu pháp chẳng bị tất cả ngôn thuyết biểu thị bèn không trệ ngại. Sao gọi là pháp chẳng ngôn thuyết được? Đó là đệ nhứt nghĩa. Trong đệ nhất nghĩa cũng không có văn tự và nghĩa. Nếu Bồ Tát có thể hành đệ nhất nghĩa đế, nơi tất cả pháp đều không có sở hành. Đây là Bồ Tát có thể quá ma giới, v́ không có sở quá vậy".

Đức Phật nói với Ma Vương rằng: "Nầy Ba Tuần! Ông có nghe nói pháp quá ma giới chăng?"

Ma Vương bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Tôi đă có nghe".

Đức Phật nói: "Nầy Ba Tuần! Nếu có người hành những pháp ấy th́ tất cả các ma không làm ǵ được. Nếu có ma muốn ở nơi hành nhơn ấy mà phát khởi các ma sự th́ trọn chẳng thể làm được mà c̣n gây nên vô lượng tội lỗi. V́ vậy nên, Ba Tuần nầy, ông phải phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, ở nơi pháp quá ma giới ấy phải kiên tŕ phụng hành. Nếu ông có thể hành như vậy th́ có thể quá tất cả quốc giới ma.

Nầy Ba Tuần! Dụ như bợn dơ đóng từ cả trăm năm, có thể trong một ngày giặt rửa sạch sẽ. Cũng vậy, trong trăm ngàn kiếp chứa họp các nghiệp bất thiện, v́ Phật pháp mà khéo thuận tư duy trong một ngày một giờ đều có thể tiêu diệt.

Nầy Ba Tuần! Như cỏ khô chứa họp đống lớn như núi Tu Di, lấy chút lửa ném vào th́ mau cháy hết. Cũng vậy dùng ít sức huệ có thể trừ diệt vô lượng khối tối tăm. Tại sao?

V́ sáng trí huệ dũng mănh mà vô minh th́ kém yếu vậy".

Lúc ấy ma vương Ba Tuần nghĩ rằng:

Đức Thế Tôn đại từ v́ thương xót tôi mà nói cho tôi về pháp Bồ Đề tâm. Nay tôi nên ở chỗ Đức Như Lai vun trồng chút ít căn lành.

Nghĩ xong, ma vương Ba Tuần hóa ra tám vạn bốn ngàn lọng báu rất đẹp lạ với vô lượng hoa hương anh lạc hương bột hương xoa, rồi bảo quyến thuộc ḿnh rằng: "Chư Phật Thế Tôn xuất thế rất khó, các người nên đồng đến chỗ Đức Thế Tôn để cúng dường".

Trong Thiên ma quyến thuộc có tám vạn bốn ngàn chúng cùng ma vương Ba Tuần đem đồ cúng như lọng báu hoa hương dâng lên Đức Phật và đồng phát tâm Vô Thượng Bồ Đề.

Ngoài ra cón có các Thiên ma quyến thuộc chẳng có tín tâm chẳng phát tâm Bồ Đề, họ hiện h́nh tướng cười chê luận bàn về ma vương Ba Tuần rằng: "Thật là hi hữu cho Ba Tuần có thể ở trước Sa Môn Cù Đàm trá hiện tướng Đốc tín như vậy, coi Cù Đàm như người chí thân. Hoặc là Ba Tuần muốn ở nơi Sa Môn Cù Đàm học chú thuật nên nay ở trước mặt Cù Đàm ca ngợi chăng?".

Trong chúng ấy có ma tử Xử Diện và các ma tử đều không có tín tâm đều nói rằng: "Giả sử Sa Môn Cù Đàm dùng các phương thuật hồi chuyển ma vương, chúng ta sẽ lập các phương tiện làm cho kinh điển như vậy chẳng lưu bố được, dầu có lưu bố cũng làm cho ít người hộ trợ, cũng làm cho ít người tín thọ phụng hành bị nhiều người khinh tiện, thường lạc ở địa phương biên địa chẳng cho tuyên truyền tại trung tâm các nước, chúng ta sẽ khiến các chúng sanh bần cùng không oai đức được nghe và thường bị người có oai đức hào phú chẳng tin chê trách".

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Hư Không Tạng Bồ Tát: "Nầy Đại Sĩ! Ông có nghe các ma tử nói lời ác ấy chăng?".

Hư Không Tạng Bồ Tát bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Tôi có nghe"

Đức Phật nói: "Nầy Hư KHông Tạng! V́ vậy mà ông nên hộ trợ an ủi kinh điển thậm thâm vi diệu như vậy v́ để hàng phục các ma thần".

Hư Không Tạng Bồ Tát bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Mười phưong chư Phật đều đă hộ tŕ kinh điển như vậy. Chúng tôi cũng nên an ủi thọ tŕ".

Hư Không Tạng Bồ Tát liền nói chú rằng: A bạt đê, bạt đê, tỳ bạt đê, bà hê đa nâu tán đề, đầu lâu đà la ni, niết già đa niết già đa ni, xa mế bát già đa ni, mê la dục đê, già lâu na niết nựu đề, tát giá bạt đê, phù đa lặc sai, đạt ma niết chiết đê, đạt ma lặc sai, úc cưu ly, thi cưu ly, hưu lâu hưu lâu hưu lâu đức ca ly, đa bà bà đế đê, thi la nâu bà đế đê, a xoa dạ niết thế tŕ, chỉ xa bà ca lợi thí, phật đà yết đề mị đê, đạt ma huất kỳ la nê, tăng già nâu ḱm mế, a nâu đầu lệ.

Chẳng thể tế độ được
Quyến thuộc ma hư hoại
Nếu ai phạm kinh nầy
Không có các đao trượng
Thuận chỗ lành ḿnh làm
Là chỗ làm chư Thánh
Những câu lành và tốt
Thuận với ḍng giải thoát
Phá các luận ngoại đạo
Hàng phục các chúng ma
Tứ Thiên Vương thường hộ
Và cùng Thiên Đế Thích
Phạm Thiên Vương thế chủ
Hàng chư Thiên phụng Phật
Người hộ tŕ Bồ Đề
Chư Thiên Thần như vậy
Thường phải nên ủng hộ
Hàng phục các chúng ma
V́ lợi ích chúng sanh
Mà thọ tŕ chánh pháp
Hộ tŕ thuyết pháp sư
Đều phải nên ủng hộ

Hư Không Tạng Bồ Tát nói chú ấy rồi, tức th́ nhà Diệu Bửu Trang Nghiêm Đường và cả Đại Thiên thế giới chấn động sáu cách.

Lúc các ma tử thấy trên không có năm trăm Mật Tích Lực Sĩ cầm chày kim cương chói sáng như lửa rất đáng sợ.

Chư Mật Tích xướng lên rằng: " Nếu có ma tử và ma thần nào nghe chú ấy mà không phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, chúng ta sẽ đập bể đầu họ thành bảy phần.

Chư ma tử và các quyến thuộc kinh sợ run rẩy lông trên thân đều dựng đứng, liền chắp tay lễ Đức Phật mà bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Chúng tôi nay phát tâm Vô Thượng Bồ Đề. Lành thay Thế Tôn mong cứu chúng tôi khỏi sự kinh hoàng nầy để được an vui vô úy".

Đức Phật bảo Tôn Giả A Nan rằng: "Trước đây các ma tử nầy có nói rằng: Chúng ta ở đời sau nơi kinh điển nầy sẽ làm trở ngại. Ắt sẽ xứng với bổn thệ ấy mà làm trở ngại. Kinh điển như đây chỉ sẽ do Phật thần lực và chư Bồ Tát thọ tŕ mà sẽ được lưu bố trong đời, nhưng không có được nhiều người thọ tŕ phân biệt giải thuyết.

Nầy A Nan! Ông có thấy các ma tử v́ muốn thoát khỏi sự kinh sợ mà phát tâm Vô Thượng Bồ Đề chăng?".

Tôn Giả A Nan bạch rằng: " Bạch Đức Thế Tôn! Tôi đă thấy".

Đức Phật nói: "Nầy A Nan! Lời nói phát tâm ấy sẽ làm nhơn rời ĺa ma sự cho các ma tử, v́ họ chẳng thâm tâm phát tâm Vô Thượng Bồ Đề vậy.

Nầy A Nan! Đời vị lai sẽ có Phật xuất thế hiệu là Vô Cấu Tướng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, ma vương Ba Tuần nầy ở chỗ Đức Phật ấy sẽ bất thối chuyển phát tâm Vô Thượng Bồ Đề. Đức Phật Vô Cấu Tướng biết Ba Tuần thâm tâm thành tựu nên sẽ thọ kư Vô Thượng Bồ Đề cho. Lúc vị lai ấy, vẫn làm ma vương thâm tâm kính tin nơi chánh pháp Như Lai.

Như lúc Phật Di Lặc xuất thế, có ma vương tên là Đạo Sư thâm tâm kính tin Phật, Pháp và Thánh chúng. Năm trăm ma tử nầy cũng sẽ ở lúc đó sanh trong hàng ma, họ sẽ ở chỗ Phật Di Lặc, v́ Bồ Đề mà vun trồng các căn lành, cho đến lúc Ba Tuần thành Phật sẽ thọ kư Vô Thượng Bồ Đề cho họ.

Nầy A Nan! Ma vương Ba Tuần nay dầu phát tâm Vô Thượng Bồ Đề mà vẫn do dự bất định chút ít. Dầu vậy ông ấy sẽ lần lần thành tựu vô lượng công đức làm bực Thế Tôn như Phật hiện nay".

Lúc bấy giờ trong đại chúng có vô lượng vô biên chư Thiên, thế nhơn Đế Thích, Phạm Thiên, Hộ Thế Thiên Vương nghe Đức Phật thọ kư cho ma vương Ba Tuần sẽ được thành Vô Thượng Bồ Đề, tất cả đều vui mừng hớn hở than chưa từng có đồng chắp tay hướng lên Phật bạch rằng: "Thật là hi hữu, ai được thấy Phật ắt được thành tựu vô lượng khối pháp bửu công đức. Tại sao, hoặc có chúng sanh chẳng tin muốn làm nhiễu loạn Như Lai mà được thấy Phật, hoặc có chúng sanh gặp gỡ thấy Phật, th́ làm nhơn lành cho kẻ ấy nhẫn đến làm nhơn khiến họ được Niết Bàn.

Bạch Đức Thế Tôn! Trừ ngoài Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, c̣n có ai có thể phân biệt biết rơ căn chúng sanh như vậy?".

Đức Phật bảo hàng chư Thiên và thế nhơn rằng: "Như lời các người đă nói, có ai được thấy Phật th́ đều nhờ lợi ích cả. Các người nên biết rằng hoặc có chúng sanh thiện căn đều hết, trong vô lượng vô số na do tha kiếp không có phần được thân người, các chúng sanh nầy thấy Phật bèn làm nhơn lành nhẫn đến khiến họ được Niết Bàn.

Đức Như Lai có thể làm phước điền vô thượng vô lượng bất tư ngh́ như vậy .

Nầy chư Thiên nhơn! Tâm tánh thường thanh tịnh mà phàm phu chúng sanh chẳng thể như thiệt thấy. V́ chẳng thể như thiệt thấy biết được nên nói là cấu. C̣n người có thể chơn chánh thấy biết th́ nói là tịnh. Nhưng trong đệ nhứt thiệt nghĩa không có một pháp nào là khả tịnh khả ố cả. Các người nên biết các phiền năo không có phương không có xứ chẳng nội chẳng ngoại, do v́ chẳng thiện thuận tư duy nên sanh phiền năo, c̣n thiện thuận tư duy th́ không có phiền năo. Người tăng giảm chẳng b́nh đẳng th́ sanh phiền năo, c̣n không tăng giảm th́ không phiền năo. Hư ngụy vọng tưởng th́ sanh phiền năo, không vọng tưởng th́ không phiền năo. V́ vậy mà Phật nói như thiệt biết tà kiến th́ là chánh kiến, mà tà kiến cũng chẳng tức là chánh kiến. Người có thể như thiệt biết th́ không hư vọng tăng giảm thủ trước, v́ vậy nên gọi là chánh kiến.

Nầy chư Thiên nhơn! Như đại địa thủy giới phong giới y nơi hư không mà trụ. Hư không không có chỗ y trụ, như vậy th́ đại địa cũng không chỗ y trụ mà giả có tên là y trụ. Các người nên biết như vậy. Khổ y nơi nghiệp, nghiệp y nơi kiết sử, mà khổ nghiệp kiết sử đều không có sở y, v́ tâm tánh thường thanh tịnh vậy. Do đó mà biết rằng tất cả các pháp không có căn bổn đều không có chỗ trụ, do giả ngôn thuyết mà nói là có, thiệt th́ không có vậy. Do cớ nầy nên nói tất cả pháp bổn tánh thường tịnh cứu cánh vô sanh vô khởi.

Nầy chư Thiên Nhơn! Pháp môn ấy gọi là tánh thường tịnh pháp môn. Bồ Tát thông đạt pháp môn nầy th́ không bị các phiền năo làm nhiễm ô, cũng chẳng cậy dựa pháp môn thanh tịnh ấy, v́ đă xả bỏ tất cả các cậy dựa động lay vậy. Do đây mà được đạo b́nh đẳng quá ma giới nhập vào Phật giới, cũng có thể nhập vào được chúng sanh giới mà chẳng động pháp giới. Biết tất cả pháp không có giới không có phi giới, có thể mau đến Nhứt thiết trí giới".

Lúc Đức Phật nói pháp ấy, có năm trăm Bồ Tát được Vô sanh Pháp nhẫn.

Bấy giờ Trưởng giả Thân Việt ở trong chúng rời chỗ ngồi đứng dậy đến lễ chưn Phật mà bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Đức Phật v́ chúng tôi mà nói kinh điển thậm thâm nầy.

Trước kia tôi v́ xúc năo Phật nên làm hầm lửa lớn và dâng cơm có độc. Nhưng đại thánh Như Lai là đấng chẳng thể làm hại được, do đó nên tôi đối với Phật sanh ḷng kính trọng. Từ ngày ấy đến nay, ḷng nghi hối của tôi c̣n chưa có thể trừ dứt. Hôm nay từ nơi Đức Phật được nghe kinh điển thậm thâm vi diệu nầy ḷng nghi hối liền trừ tâm không chướng ngại được hạnh an lạc. V́ vậy mà nay tâm kính tin của tôi càng thêm tăng trưởng. Nay trong nhà tôi có nhiều của cải châu báu sẽ mang cúng dường Phật Pháp và Tăng cùng các Sa Môn, Bà La Môn kẻ nghèo cùng hạ tiện xin ăn.

Bạch Đức Thế Tôn! Có ai được nghe kinh điển dứt tất cả kiết phược thậm thâm nầy mà c̣n tham lấy các thứ của cải vật chất! ".

Hư Không Tạng Bồ Tát bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Thật là hi hữu, chư Phật Như Lai Vô Thượng Bồ Đề rất là thậm thâm khó lường biết được. Nếu có Bồ Tát ở đời vị lai xả thân mạng ḿnh và lợi dưỡng danh dự mà có thể thọ tŕ Phật Bồ Đề rất là khó có".

Trong đại chúng có sáu mươi tám ức Bồ Tát đứng dậy chắp tay hướng lên Phật đồng nói kệ rằng:

Thế Tôn diệt độ rồi
Chúng tôi có thể nhẫn
Xả thân thọ mạng ḿnh
Để hộ tŕ chánh pháp
Xả lợi dưỡng danh dự
Rời ĺa các tham trước
Nguyện hộ tŕ chánh pháp
V́ được Phật trí vậy
Bị mắng chửi quở trách
Và lời khinh chê chọc
V́ có hộ chánh pháp
Sẽ nhẫn nhịn nhận đó
Bị khi dễ phá cợt
Xướng nói kêu ác danh
Sẽ dùng ḷng từ nhẫn
Để hộ tŕ kinh nầy
Tỳ kheo đời vị lai
Chấp trước ham các cơi
Cùng ma làm bè đảng
Phỉ báng Phật chánh pháp
Phá cấm giới làm ác
Chuyên nghiệp thế tục lụy
Bị danh lợi che trùm
Nên chẳng thích chánh pháp
Cậy biết các tục điển
Kiêu mạn và phóng dật
Cao khoe ḿnh hay giỏi
Khinh miệt người chánh hạnh
Thường bỏ chỗ nhàn tĩnh
Thích ở chốn ồn ào
Học văn từ thế tục
Chấp chặt lấy ngô ngă
Chẳng biết giáo hóa người
Chẳng trao giồi trí huệ
Bỏ tọa thiền niệm Phật
Chẳng gần kề Tam bửu
Người không có trí huệ
Kết bè đảng cầu lợi
Siêng cùng chung kiết sử
Thích thọ người dâng cúng
Thấy người từ tâm thí
Tham tiếc như của ḿnh
Thường qua đến chỗ người
Luận nói những thế sự
Ruộng nhà và nghề nghiệp
Cùng những sự bán buôn
Siêng ham cầu lợi tức
C̣n tự sưng Sa Môn
Ngạo mạn chấp lấy có
Dựa cậy nơi tà kiến
Nghe nói pháp tánh không
Sẽ kinh hoàng sợ hăi
Họ lánh xa chánh pháp
Chỉ biết cầu hiện báo
Họ sẽ hư vọng nói
Phi pháp nói là pháp
Tai hoạn lớn như vậy
Các Tỳ Kheo tệ ác
Ma cùng với ma tử
Lại sẽ tá trợ nhau
Kinh văn th́ là một
Nói nghĩa đều riêng khác
Đều luận theo ư ḿnh
Kẻ ngu sẽ như vậy
Các kinh điển thâm diệu
Hay làm cho giải thoát
Họ sẽ ngăn trở đó
Trái lại nói sự cạn
Ta thắng c̣n ngươi liệt
Do thắng nên đắc quả
Ở trong các Phật pháp
Sẽ tranh cạnh như vậy
Lúc cạnh tranh như vậy
Chúng sanh bị phá hoại
Bị phi pháp tri thức
Làm cho phải năo bức
Vị lai mạt thế ấy
Ḷng rất đáng lo sợ
Chúng tôi tŕ chánh pháp
Đấng cứu thế chỗ nói
Chúng tôi thường từ tâm
Chẳng rời bỏ pháp luật
Sanh khởi chánh đại bi
Để thủ hộ cho đời
Phá giới thích làm ác
Chẳng an trụ chánh pháp
Sa đọa nơi đạo nào
Chúng tôi thường lo thương
Thấy cố ư làm ác
Hủy báng nơi chánh pháp
Chúng tôi trọn chẳng cùng
Chung làm thân bạn đảng
Thường dùng sức chúng tôi
Khéo thủ hộ lỗi miệng
Thấy những người vô dụng
Chẳng nói lỗi của họ
Chúng tôi trụ ḍng thánh
Đầu đà hộ tịnh giới
Ở chánh định tu huệ
Thường siêng năng tu hành
Ĺa ồn náo thế gian
Thích ở chỗ nhàn tĩnh
Không tham trước như nai
Khéo điều phục tri túc
Nếu lúc đến tụ lạc
Nhiếp các căn ít nói
Thấy người diễn thuyết pháp
Cùng nhau luận chánh pháp
Ái ngữ làm lợi ích
Để giáo hóa chúng sanh
Lại thuyết pháp cho họ
Khiến họ dứt ác hạnh
Chúng tôi v́ chánh pháp
Kẻ ở xa tôi đến
V́ họ mà thuyết pháp
Để lợi ích cho họ
Nếu thấy hàng phàm ngu
Có người kém mất ấy
Tôi chỉ nên tự hộ
Trụ chánh pháp hành nhẫn
Hủy nhục hay cung kính
Tôi sẽ vững như núi
Chẳng nhiễm pháp thế gian
Làm đạo Sư cho đời
Các Tỳ Kheo phạm giới
Nếu đến quở trách họ
Bảo tự xét lỗi ḿnh
Đó sẽ là nghiệp báo
Sẽ v́ các hạng ấy
Những chúng sanh ganh ghét
Trước tỏ lời thân thiện
Hiện làm cách cung kính
Người ấy liền quan niệm
Ta cũng là Sa Môn
Thành tựu đức hạnh ấy
Không bị tiếng xấu chăng
Các người phạm cấm giới
Như là người thất chí
Nghe kinh nầy lo sợ
Như sứt mũi soi gương
Những phương tiện phải làm
Họ chẳng muốn nghe theo
Lại c̣n bảo người khác
Rằng chẳng phải chánh pháp
Họ c̣n bảo quốc vương
Phá ḷng tin thần dân
Phỉ báng pháp chơn chánh
Rằng chẳng phải Phật nói
Chúng tôi ở lúc nầy
Do thần lực của Phật
V́ hộ tŕ chánh pháp
Nên chẳng tiếc thân mạng
Thế Tôn biết chúng tôi
Lời nói không hề sai
Sẽ kiên tŕ thủ hộ
An trụ chánh pháp ấy
An trụ lời thành thiệt
Đúng như lời mà làm
Vui đẹp chư Như Lai
Mới thành tựu Bồ Đề

Hư Không Tạng Bồ Tát khen chư Bồ Tát rằng: "Lành thay, lành thay, nầy chư Đại Sĩ! Các Ngài có thể phát nguyện thành thiệt thọ tŕ đại pháp vô thượng thậm thâm vi diệu của Như Lai, thật là rất tốt vậy".

Hư Không Tạng Bồ Tát bạch Đức Phật: "Bạch Đức Thế Tôn! Có thiện nam tử thiện nữ nhơn thọ tŕ đọc tụng kinh điển nầy th́ được bao nhiêu phước?".

Đức Phật nói: "Nầy Hư Không Tạng! Ví như cả mười phương mỗi phương đều có mười Đại Thiên thế giới, đem nghiền nhỏ tất cả Đại Thiên thế giới ấy thành vi trần họp chung thành một đống. Giả sử có người thành tựu thần túc vô lượng oai đức thọ mạng lâu dài, người nầy mang đống vi trần ấy đi phương Đông quá số thế giới bằng số đống vi trần ấy mới bỏ rơi xuống một vi trần. Cứ như vậy đi qua phương Đông măi đến bỏ rơi hết số vi trần ấy, nhưng các thế giới vẫn chẳng hết. Như đi qua phương Đông bỏ rơi vi trần, đi qua chín phương kia bỏ rơi hết số vi trần cũng như vậy, nhưng các thế giới cũng chẳng hết.

Nầy Hư Không Tạng! Các thế giới như vậy chừng có nhiều chăng?".

Hư Không Tạng Bồ Tát bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Số thế giới ấy rất nhiều rất nhiều vô lượng vô biên chẳng thể đếm biết được".

Đức Phật nói: "Nầy Đại Sĩ! Các thế giới ấy hoặc có dính vi trần hay không dính vi trần đều đem họp cả lại làm một thành cao rộng bằng nhau, trong thành chứa đầy hột đ́nh lịch. Số hột đ́nh lịch nầy có thể đếm biết được chăng?".

Hư Không Tạng Bồ Tát bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Giả sử dùng thí dụ c̣n chẳng rơ được huống là có thể đếm biết, chỉ trừ Đức Như Lai, không ai có thể đếm biết được".

Đức Phật nói: "Nầy Đại Sĩ! Đúng như vậy, đúng như vậy, như lời ông nói, chỉ có Như Lai biết được số hột đ́nh lịch ấy. Nầy Đại Sĩ! Nếu như có người thành tựu thần túc vô lượng oai đức có thể dùng miệng thổi những hột đ́nh lịch ấy rải tan mười phương, một hột đ́nh lịch rơi xuống một thế giới, trong chẳng quá một hột. Nầy Đại Sĩ! Theo ư ông nghĩ thế nào? Những thế giới được hột đ́nh lịch rơi xuống ấy chừng có nhiều không?".

Hư Không Tạng Bồ Tát bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Những thế giới ấy chẳng phải tâm lực có thể phân biệt được. Giả sử có phân biệt khiến tâm người phải mê loạn".

Đức Phật nói: "Nầy Đại Sĩ! Nay Phật bảo với ông, nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn hành Bồ Tát đạo, ngày ngày đem vô lượng trân bửu đầy cả những thế giới ấy để bố thí không hề thôi nghỉ cũng chẳng làm việc khác.

Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn thọ tŕ đọc tụng thơ tả kinh điển thậm thâm nầy, chẳng cầu lợi dưỡng, v́ Bồ Đề mà diễn nói cho người, nhẫn đến chỉ làm cho một người sau khi nghe rồi khuyên ở nơi Vô Thượng Bồ Đề nhẫn đến phát một niệm lành, v́ muốn khiến chánh pháp được c̣n lâu ở thế gian vậy. Công đức của người nầy hơn người bố thí kia cả trăm lần, ngàn lần, trăm ngàn vạn lần, nhẫn đến chẳng phải toán số thí dụ biết được. Huống là có thể khiến người nghe pháp nầy an trụ nơi Vô Thượng Bồ Đề. Tại sao, v́ có thể diễn nói vô lượng thiện căn thành tựu chư Bồ Tát như vậy để hộ tŕ chánh pháp.

Nầy Đại Sĩ! Phật chẳng thấy Bồ Tát c̣n có pháp nào khác có thể hơn chánh hạnh kiên cố nhiếp các thiện pháp giáo hóa chúng sanh nầy".

Hư Không Tạng Bồ Tát bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Thật là hi hữu, Như Lai bất khả tư nghị, đại pháp của Như Lai cũng bất khả tư nghị. Như đại pháp của Như Lai bất khả tư nghị, người thọ tŕ kinh điển nầy được công đức cũng bất khả tư nghị.

Ngưỡng mong Đức Như Lai hộ tŕ kinh nầy v́ đời đương lai khiến các thiện nam tử thiện nữ nhơn thọ tŕ chánh pháp tay được kinh nầy ôm ở trong ḷng chẳng rời ĺa. Nếu là người đáng ĺa khỏi sanh tử th́ chẳng từ người khác nghe pháp mà tự nhiên được khai ngộ Bồ Đề. Ngộ Bồ Đề rồi lại rộng v́ người mà diễn nói".

Đức Phật nói: "Nầy Đại Sĩ! Lắng nghe lắng nghe, khéo suy nghĩ đó, Phật sẽ v́ hộ kinh điển nầy mà nói chương cú triệu thỉnh Hộ Thế Tứ Thiên Vương, Thiên Đế Thích, Phạm Thiên Vương các vị Thần Thiên. Do v́ được chương cú nầy triệu thỉnh nên chư Thiên chư Thần ấy sẽ ủng hộ các thuyết Pháp sư thọ tŕ kinh nầy lúc diễn nói kinh điển thậm thâm khó được đời tin ấy, làm cho không ai làm trở ngại được. Đó là hoặc bị quốc vương đại thần đuổi ra khỏi nước, hoặc bị bịnh nặng, hoặc lúc đấu tranh nổi lên, hoặc quốc độ có tật dịch. Lúc các sự tai nạn ấy phát khởi do sức thần chú làm cho liền tiêu diệt chẳng trở ngại được. Những ǵ là thần chú chương cú? Liền nói chú rằng:

Đầu đầu lệ, Đề đề lệ, đà dạ ki đế, đà dạ la già la, ni đế đề, tỳ bà tri, xa mế, xa di đa tỳ, mục xí, chiên đế đê, ni kỳ noa nễ, a nâu đa lệ, minh da la ni, bà ki tư, bát tha thâu đà ni, bát đà nâu chỉ, bát đà tán đề, bát nhă mâu lệ, a bà cứu lệ, phù đà lặc sai, luật na tát chi, đa bà tát chi, đa bà bát đê .

Tùy Phật ư, thuận Pháp tánh, cung kính Tăng, thế chủ tín hộ thế Tứ Vương v́ các Phật tử thọ tŕ chú nầy hộ tŕ người thuyết pháp" .

Lúc ấy Tứ Thiên Vương liền đứng dậy chắp tay hướng lên Phật mà bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Chúng tôi sẽ hộ tŕ các Phật tử thọ tŕ kinh nầy. Liền nói chú rằng: Thủ t́, thủ bà bát đê, thủ đề đế, mục đa ủng, đà lê ủng, đà la ni, phả đam mế, a kỳ ủng khiếp ti, a mục xí, đà la ni đà ủng, tẩu thủ sái hê na, t́ đề t́ đà lại tán đề, tam mế, bà dạ mế, ma lại di, ba phiến đa đề, hưu hưu, hê hê, khưu lâu khưu lâu lệ".

Lúc Tứ Đại Thiên Vương nói chú bất khả phạm ấy rồi, Thiên Đế Thích liền đứng dậy tâm tịnh vui vẻ chắp tay hướng lên Phật mà nói kệ rằng:

Lúc đời mạt đói kém
Các Đại Sĩ lớn rộng
Thọ tŕ nói kinh nầy
Tôi sẽ hầu hạ họ.

Nói kệ xong, Thiên Đế Thích liền nói chú rằng:

Di đê, thủ t́, ma ha di đê, đạt ma di đê, thiên đa già lệ, ma di đê, tát giá di đê, na đề mế, a nâu đa lệ, a nâu đầu ủng, a nâu lặc sai, tát bà tát đỏa a nâu già hê, a na nâu đa ti, tu kư đê, a tỳ lô đề, a tỳ già hê, phù đề bồ xá mế, nhị ly, yết tha ni đê, nê đề la ni, a na tha bà sai đế, mế đê, mế đê xà gia tư, tu sa la.

Các Ngài khởi thiền lạc
Đến hộ người tŕ pháp
Các thế giới Thế Tôn
Thảy đều đồng thọ tŕ.

Phạm Tự Tại Thiên Vương đứng dậy khen Thích Phạm Hộ Thế chư Thiên rằng: "Lành thay, lành thay! Các Ngài bèn có thể v́ hộ chánh pháp, v́ tŕ pháp, v́ người thuyết pháp mà phát đại trang nghiêm. Các Ngài đúng là phải nên như vậy rất được tiện nghi tùy theo pháp luật của Như Lai trụ thế lâu hay mau, trong thời gian ấy sẽ có người hiểu biết chánh hành pháp hành. Trong bao nhiêu thời gian ấy hàng chư Thiên và thế nhơn sẽ rất hưng thạnh cung điện nhà cửa dẫy đầy. Sau khi chánh pháp nầy diệt, hàng chư Thiên và thế nhơn trở lại giảm ít, cung điện nhà cửa trống hoang".

Đức Phật nói với Di Lặc Bồ Tát rằng: "Nầy Di Lặc! Ông thọ tŕ kinh điển thậm thâm nầy đọc tụng biên chép rộng v́ người mà diễn nói.

Nầy Di Lặc! Nay Phật đem kinh điển thậm thâm như đây phó thác ông để đại pháp nầy c̣n lâu ở thế gian, để hàng phục các chúng ma, để lợi ích tất cả chúng sanh, để tất cả ngoại đạo chẳng được tiện lợi, để dạy bảo chư Bồ Tát gần kề kinh nầy chẳng xa rời, v́ muốn khiến Phật pháp đại minh c̣n lâu ở thế gian mà chẳng suy diệt vậy, v́ khiến giống Phật Pháp Tăng chẳng đoạn tuyệt vậy".

Di Lặc Bồ Tát liền bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Lúc Đức Như Lai c̣n tại thế và sau khi diệt độ, tôi sẽ thường thọ tŕ kinh điển thậm thâm nầy rộng tuyên lưu bố. Tại sao, v́ người thọ tŕ pháp nầy th́ là thọ tŕ chánh pháp của tất cả chư Phật quá khứ vị lai hiện tại, chớ chẳng phải chỉ thọ tŕ chánh pháp của một Đức Phật.

Bạch Đức Thế Tôn! Tôi cũng v́ tự hộ pháp của ḿnh vậy.

Bạch Đức Thế Tôn! Tôi thường cùng đại chúng chư Thiên câu hội ở Đâu Suất Thiên cung thường v́ họ mà rộng diễn nói kinh điển thậm thâm nầy. Tôi c̣n sẽ làm cho người thọ tŕ đọc tụng kinh nầy tay họ được kinh nầy ôm giữ trong ḷng chẳng rời quyển kinh.

Bạch Đức Thế Tôn! Đời mạt thế sau, nếu lúc pháp muốn diệt, có ai thọ tŕ kinh nầy rồi v́ người mà diễn nói, nên biết đó là do oai thần của Di Lặc kiến lập vậy.

Bạch Đức Thế Tôn! Trong lúc ấy dầu có nhiều ma sự nhiễu loạn hành nhơn, các người thuyết pháp v́ dựa nơi phiền năo ma nên bị ma nhiếp tŕ mà chẳng thích kinh nầy chẳng siêng tu tập tranh cạnh thị phi lẫn nhau, chúng tôi sẽ đồng siêng làm phương tiện khiến người thuyết pháp ưa thích kinh nầy thường siêng tu tập đọc tụng thông thuộc rộng v́ người mà diễn nói".

Đức Phật nói: "Lành thay, lành thay, nầy Di Lặc! Ông có thể v́ hộ tŕ chánh pháp mà làm sư tử hống. Chẳng phải chỉ hôm nay ông ở trước ta làm sư tử hống, mà ông cũng ở trước vô lượng a tăng kỳ chư Phật quá khứ làm sư tử hống hộ tŕ chánh pháp".

Đức Phật bảo Tôn giả A Nan: " Nầy A Nan! Ông có thọ tŕ kinh nầy chăng?".

Tôn giả A Nan bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Do thần lực của Phật nên tôi đă thọ tŕ".

Đức Phật nói: "Nầy A Nan! Ông thường nên v́ hàng tứ chúng mà rộng phân biệt giải nói kinh nầy. Nếu có người trước đă vun trồng thiện căn thích pháp thù thắng, những người như vậy được nghe kinh nầy rồi có thể tin hiểu thọ tŕ đọc tụng rộng diễn nói cho mọi người. Người ấy sẽ được vô lượng vô biên bất khả tư nghị khối đại công đức".

Tôn giả A Nan bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Sẽ gọi tên kinh nầy là ǵ và phải phụng tŕ thế nào?".

Đức Phật nói: "Nầy A Nan! Kinh nầy tên là Khuyến Phát Chư Bồ Tát Trang Nghiêm Bồ Đề. Phải phụng tŕ như vậy".

Lúc ấy Công Đức Trang Nghiêm Bồ Tát ở trong đại chúng đứng dậy gối hữu chấm đất chắp tay hướng lên Phật bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Thật là hi hữu, Đức Như Lai v́ ủng hộ chánh pháp và người thuyết pháp nên khéo có thể tán thán kinh nầy như vậy.

Bạch Đức Thế Tôn! Hàng tân học Bồ Tát v́ Bồ Đề nên vun trồng thiện căn, đem các thứ hoa hương, anh lạc, hương bột, hương xoa siêng cúng dường Phật mà chẳng thọ tŕ kinh nầy, người ấy có thành tựu đệ nhứt cúng dường mà cúng dường Như Lai chăng?".

Đức Phật nói: "Nầy thiện nam tử! Chẳng thành đệ nhứt cúng dường Như Lai, cũng chẳng thể dùng nhơn duyên ấy để được vô lượng công đức. Chẳng bằng thiện nam tử thiện nữ nhơn thọ tŕ kinh nầy công đức rất nhiều".

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Như Lai dùng Phật nhăn
Những Phật độ được thấy
Cùng khắp cả mười phương
Đều rộng lớn vô biên
Bao nhiêu thế giới ấy
Đựng đầy những trân bửu
Bồ Tát đem báu nầy
Thường dùng để bố thí
Nếu có người ở nơi
Kinh vi diệu thậm thâm
Chánh pháp vô sở đắc
Được chư Như Lai nói
Mà có thể thọ tŕ
V́ người rộng diễn thuyết
Công đức của người nầy
C̣n nhiều hơn người kia
Hoa hương và anh lạc
Hương xoa và hương bột
Lọng báu với tràng phan
Những y phục thượng diệu
Mang những món cúng nầy
Đầy khắp các thế giới
Cúng dường chư Như Lai
Hồi hướng về Phật đạo
Nếu đời mạt thế sau
Lúc chánh pháp sắp diệt
Nơi chánh pháp cứu thế
Siêng tu tập hộ trợ
Thọ tŕ nơi chánh pháp
Thường hành bất phóng dật
Khối công đức người nầy
C̣n nhiều hơn người kia
Mười phương các thế giới
Tất cả những đại hải
Hương du tối thượng diệu
Đựng đầy tất cả biển
Làm tim đèn rất lớn
Dường như núi Tu Di
Thắp sáng để cúng dường
Tất cả chư Như Lai
Đời mạt thế sau nầy
Lúc chánh pháp sắp diệt
Biết chúng sanh thế gian
Bị vô minh che trùm
Nếu người có thể thắp
Cây đuốc chánh pháp lớn
Người nầy được công đức
C̣n hơn người trước kia
Chỗ được thấy của Phật
Vô lượng chư Như Lai
Dầu trong ức ngàn kiếp
Mang các thứ cúng dường
Các y phục cơi trời
Món vừa ư cúng dường
Mà chẳng hay thọ tŕ
Kinh điển thâm diệu nầy
Nếu người ở chư Phật
Biết là có ơn nặng
Nên ủng hộ Tam bửu
Để báo đáp ơn Phật
V́ muốn lợi chúng sanh
Nên thọ tŕ đọc tụng
Rộng nói kinh điển nầy
Phước nhiều hơn người kia
Ta dùng sức Phật nhăn
Những chúng sanh được thấy
Nếu có thể dạy bảo
Đều thành trời Thích Phạm
Người nầy được công đức
Chẳng bằng người biên chép
Thọ tŕ kinh điển nầy
Được công đức rất nhiều
Toàn Đại Thiên thế giới
Có bao nhiêu chúng sanh
Nếu người hay giáo hóa
Đều thành thánh nhị thừa
Nếu có người hay phát
Tâm Bồ Đề vô thượng
Hộ tŕ kinh điển nầy
Công đức lại hơn kia
Công đức thọ tŕ kinh
Nếu là có h́nh sắc
Sẽ đầy khắp tất cả
Mười phương các thế giới
Chỉ trừ trí vô thượng
Của chư Phật Như Lai
Không c̣n ai biết được
Công đức người thọ tŕ
Như trí của Như Lai
Rộng khắp vô biên tế
Hư không và pháp giới
Cũng rộng vô biên tế
Có thể thọ tŕ được
Kinh pháp nầy của Phật
Được công đức vô biên
Cũng như hư không kia.

Nghe Phật nói kệ ấy xong, Công Đức Trang Nghiêm Bồ Tát bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Nay tôi tin hiểu nghĩa thú được Như Lai nói, năm trăm năm sau lúc pháp sắp diệt, các chúng sanh phát tâm Đại thừa mà có người chẳng thọ tŕ kinh pháp nầy, nên biết là bị ma nhiếp xa ra ngoài Phật pháp.

Bạch Đức Thế Tôn! Nay tôi có khả năng sau khi Đức Như Lai diệt độ thọ tŕ kinh nầy để Phật pháp c̣n lâu ở thế gian".

Lúc bấy giờ v́ phó chúc kinh điển thậm thâm nầy nên Đức Thế Tôn phóng ánh sáng lớn chiếu khắp mười phương vô lượng a tăng kỳ chư Phật thế giới. Chư Như Lai ở các thế giới ấy cũng v́ phó chúc kinh pháp nầy nên đồng phóng ánh sáng nơi lông trắng giữa chân mày chiếu khắp cả mười phương thế giới không đâu là chẳng chiếu khắp.

Lúc nói kinh nầy rồi, Đức Như Lai dùng thần lực phóng ánh sáng lớn ấy, vô lượng a tăng kỳ chư Phật thế giới chấn động sáu cách. Có vô lượng a tăng kỳ chúng sanh phát tâm vô thượng đạo. Có vô lượng a tăng kỳ Bồ Tát được Vô Sanh Pháp nhẫn. C̣n có vô lượng a tăng kỳ Bồ Tát được thiện căn Nhứt sanh Bổ xứ. Lại c̣n có quá vô lượng a tăng kỳ chúng sanh được Thanh Văn thừa trụ bực học vô học.

Đức Phật nói kinh nầy rồi, Hư Không Tạng Bồ Tát, Tôn giả A Nan, đại chúng chư Bồ Tát, chư Thanh Văn, chư Thiên thế nhơn nghe lời Phật nói đều rất vui mừng.

*** Lấy ra câu này v́ bị tối nghĩa trong bài kệ: "Khắp đến vừa theo đánh chúng sanh". Kính thỉnh các vị Đại Đức và các dịch giả truy ra và đính chính câu văn này để làm cho bài kệ được chuẩn.

PHÁP HỘI HƯ KHÔNG TẠNG BỒ TÁT
THỨ NĂM MƯƠI LĂM
HẾT

Tiếp Tục  56 Pháp Hội Vô Ngôn Bồ Tát

Trang Mục Lục      Trang Chủ      Hình ảnh      Kinh điển      Thần Chú      Liên lạc
 

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0