Trang Mục Lục      Trang Chủ      Hình ảnh      Kinh điển      Thần Chú      Liên lạc
 
PHÁP HỘI QUẢNG BÁC TIÊN NHƠN
THỨ BỐN MƯƠI CHÍN

Hán dịch: Nhà Đường, Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chí
Việt dịch: Việt Nam Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh


Như vậy tôi nghe, một lúc Đức Phật ở tại thành Vô Đấu Chiến trên bờ sông Hằng, có vô lượng chúng Tỳ Kheo như các Tôn giả A Nan, Ma Ha Ca Diếp, Xá Lợi Phất, Bạc Câu La, Ly Bà Đa, A Nhă Kiều Trần Như v.v... Các Tôn giả nầy việc được làm đă xong, rời các trần nhiễm, phiền năo đă hết, chẳng c̣n thối chuyển. Các Tôn giả nầy luôn tọa thiền tụng niệm kinh hành không tạm lười nghỉ, hoặc như bầy nai đi đứng yên lặng, hoặc ở trong rừng thường nhập thiền định. Các Tôn giả nầy an trụ nơi giáo pháp sáng suốt của Đức Như Lai, điều phục sáu căn được vô sở úy.

Bấy giờ rừng Ta La nhánh lá rậm rợp, hoa thơm trải đất. Những chim câu chỉ la, chim ca lăng tần già, nga vương, bầy ong bay đậu kêu hót ḥa nhă có thể làm cho các chúng sanh rời ĺa hôn trầm giải đăi.

Lúc đó Đức Như Lai bảo các Tỳ Kheo : " Nầy chư Tỳ kheo! Các thầy phải siêng thật hành việc được làm, lấy giới luật oai nghi để tự ấp che".

Liền lúc ấy phương Tây bỗng nhiên chói sáng như ánh sáng mặt trời.

V́ chưa ly dục nên Tôn giả A Nan bạch rằng : " Bạch Đức Thế Tôn ! Ánh sáng nầy là tướng ǵ ?".

Đức Phật dạy : " Nầy A Nan! Đây là pháp tử của Hắc Hương bực tối thắng thượng ngũ thông tiên, tên là Quảng Bác. Tiên nhơn nầy tiết thực xấu gầy thân thể không nhuần sáng cùng chung với năm trăm người đồng hành như là tiên Bất Bạch, tiên Thiên Nhơn, tiên Chiêm Ba Dă Na, tiên Đơn Trà Dă Na, tiên Ca Ma Dă Na, tiên Mê Khư Na Tư, tiên Nghi Vị, tiên Độ La v.v... trước sau vây quanh sẽ đến chỗ ta".

Bấy giờ, Quảng Bác tiên nhơn từ xa thấy Đức Thế Tôn thân tâm tịch tĩnh ở tại rừng rậm được chư Tỳ Kheo hầu hạ, liền tự nghĩ rằng: Lạ thay bực tôn quí Nhứt thiết trí thân tướng đầy đủ, bỏ ngôi vua Chuyển Luân cùng các quan và sáu vạn cung nữ, như bỏ món ăn độc, mà tu khổ hạnh nơi núi rừng, ĺa những dục lạc, tiếng đồn khắp nơi thiệt chẳng hư dối.

Trong chúng ấy có một tiên nhơn tên Na Thích Đà từ xa nh́n Đức Thế Tôn sanh ḷng vui mừng liền nói kệ rằng :

Nh́n kia hoa xanh dưới rừng cây
Như khối vàng tía là người nào
Bửu châu Di Lâu chiếu sáng ngời
Cũng như trăng thu không mây khuất.

Các tiên đều vui sướng chắp tay cung kính đi lần đến chỗ Đức Phật.

Đức Thế Tôn bảo chư Tỳ Kheo: " Các thầy xem kia các tiên trong châu Diêm Phù, tóc xỏa tung lên, ở rừng hoang, thoa tro, tịch cốc, hoặc một tháng hoặc nửa tháng nhịn ăn gầy xấu, mặc da nai vỏ cây, tóc móng không cạo không cắt, ngồi xổm trên đất trống, nhan sắc như khói than ong đen, chú thuật cúng thờ lửa cho là cát tường, ở ngoài trống hay dưới cây, hoặc té từ gộp đá cao, hoặc nhảy xuống vực sâu, dùng lửa đốt thân hay phơi nắng cho phỏng đau, ỷ thị ḍng họ ĺa xa trí huệ vô thượng.

Các thầy Tỳ kheo nên biết các tiên nhơn nầy kiến thức chẳng thanh tịnh mê say ba cơi luân hồi sanh tử chẳng ra khỏi được".

Các Tỳ kheo nghe Đức Phật Thế Tôn dạy bảo như vậy rồi liền đồng thanh bạch rằng: "Nay chúng tôi nương Đức Như Lai mà siêng tu phạm hạnh, với ba cơi sẽ được ra khỏi hẳn".

Quảng Bác tiên nhơn cùng các tiên lần đến chỗ Đức Phật, thấy các A La Hán oai đức tôn nghiêm liền có ḷng e sợ. Họ khom ḿnh ngó xuống đều tự cột tóc xơa, thân đeo dây trắng. Dung nhan họ đen tối, hai mắt xanh vàng, đầu tóc khô khan thân h́nh xấu xí, tay cầm ba khúc cây to, hoặc đi trên hư không, hoặc đàm luận sách thế tục.

Quảng Bác tiên nhơn đến trước Đức Phật thưa rằng: " Bạch Đức Thế Tôn ! Nay chúng hội nầy xin Đức Phật biết cho''.

Đức Phật bảo: "Nầy Quảng Bác ! Ta đă biết rơ sự thọ sanh trong các cơi hữu lậu và tự tánh".

Tôn giả A Nan bạch rằng: " Bạch Đức Thế Tôn! Đây là tiên nhơn nào được chư tiên bao quanh, trí sáng lời hay, đầu tóc tung lên".

Đức Phật dạy: "Nầy A Nan! Đây là Quảng Bác tiên nhơn, người sáng tác sách Vi Đà phụng tŕ tu tập theo Xa Yết La Giáo làm ra các thứ văn tự thế tục''.

Chư A La Hán cùng bảo nhau: " Tiên nhơn nầy có sở đắc ǵ mà khổ hạnh như vậy nhưng vẫn không giải thoát được sanh tử".

Các A La Hán lại tự nghĩ rằng các tiên nhơn nầy nay đến chỗ Đức Phật sẽ thưa hỏi điều ǵ, hỏi nhơn duyên hay hỏi vô ngă?

Quảng Bác tiên nhơn chắp tay hướng về Đức Phật bạch rằng: " Bạch Đức Thế Tôn! Đức Phật xuất hiện khó, pháp hội Thánh chúng cũng khó. Nay tôi có chút ít điều nghi muốn hỏi, xin Đức Phật thương dạy cho".

Đức Phật bảo: " Nầy Đại Tiên! Cho ông hỏi, ta sẽ giải bày''.

Quảng Bác tiên nhơn hỏi: " Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là bố thí? Ǵ là nghĩa bố thí? Thế nào là thí chủ? Thí chủ có nghĩa là ǵ? Thế nào là người bố thí chẳng gọi là thí chủ ? Thế nào là thí chủ chẳng gọi là người bố thí? Bố thí thế nào để được phước báu nơi người thọ lănh? Thế nào bố thí rồi, hoặc hiện đời hoặc đời sau phước bố thí đi theo làm chứa làm nhóm?

Bạch Đức Thế Tôn! Sau khi Đức Phật nhập diệt, cúng dường tháp miếu th́ ai là người nhận thọ để được phước báu ?".

Đức Phật bảo: "Nầy Đại Tiên! Những điều ông hỏi rất là hi hữu, đó là ông muốn giác ngộ hàng mới phát tâm".

Bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất ở trong đại chúng, tóc bạc mặt nhăn, lấy tay mặt đỡ lông mày nh́n hồi lâu rồi nói rằng: " Xưa kia tôi từng nghe người đời khen ngợi Quảng Bác tiên nhơn, sao hôm nay chẳng biết hỏi han như trẻ nít. Sao không hỏi những nghĩa thâm diệu về nhơn duyên vô ngă, mà lại hỏi quả báo của sự bố thí".

Tôn giả A Nan đến lạy chơn Đức Phật bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Tiên nhơn ấy ham thích nơi bố thí, tôi xin được giải nói nghĩa bố thí cho ông ấy".

Đức Phật bảo: "Nầy A Nan! Nếu hỏi nơi Đức Như Lai mà hàng Thanh Văn giải đáp th́ chẳng phải là lời dạy của Như Lai".

Tôn giả Xá Lợi Phất lại bạch rằng: " Bạch Đức Thế Tôn! Nay tiên nhơn nầy có những điều nghi ngờ ấy, tôi xin giải đáp".

Đức Phật bảo: " Không được, trong hàng Thanh Văn ông là bực thượng thủ nhứt, nếu ở trước ta mà ông giải đáp sẽ khiến các chúng sanh phải sa đọa ác thú, v́ họ sẽ hủy báng rằng Đức Như Lai chẳng phải bực có trí huệ quyết định, hoặc cho rằng Đức Như Lai giác ngộ trọn vẹn rồi mà c̣n có ngă mạn''.

Chư Tỳ Kheo nghe Đức Phật nói như vậy rồi đều sanh ḷng tin thanh tịnh bạch rằng: " Bạch Đức Thế Tôn! Quảng Bác tiên nhơn có chỗ nghi hỏi, xin Đức Phật giải đáp cho".

Đức Phật bảo Quảng Bác tiên nhơn: " Đại tiên nay lắng nghe quả báo của bố thí và nghiệp nhơn sai khác.

Nếu người thọ có thể khiến thí chủ sanh được quả báo đó là nghĩa của bố thí. Nếu có chúng sanh nào tâm thanh tịnh đem của cải ḿnh giao cho người chấp sự đem ra bố thí, người chủ của căi gọi là thí chủ, c̣n người chấp sự gọi là người bố thí. Nếu có người tâm thanh tịnh tự đem của cải ra bố thí, người nầy gọi là thí chủ mà cũng gọi là người bố thí.

Lại nầy Đại tiên! Có ba mươi hai hạng bố thí chẳng thanh tịnh, nay ông nên lắng nghe:

Nếu có người thấy biết điên đảo mà bố thí th́ chẳng gọi là tịnh thí.
Bố thí v́ báo ơn, bố thí chẳng có ḷng thương,bố thí v́ sắc dục, đều chẳng gọi là tịnh thí.

Hoặc bố thí trong lửa, bố thí trong nước cũng chẳng gọi là tịnh thí.
Hoặc đe dọa mà bố thí, bố thí cho năm nhà, đem món độc bố thí, đem dao gậy binh khí bố thí, giết hại mà bố thí, đều chẳng gọi là tịnh thí.
Hoặc để nhiếp phục người mà bố thí, v́ khen ngợi mà bố thí, v́ xướng kỹ mà bố thí, v́ xem tướng mà bố thí, cầu trang sức đẹp mà bố thí, v́ kết bằng hữu mà bố thí, đều chẳng gọi là tịnh thí.
Hoặc chim thú vào nhà ăn mà chủ nhà không vui ḷng th́ chẳng gọi là tịnh thí.
V́ học nghề mà bố thí, v́ bịnh mà bố thí cho thầy thuốc, trước đánh mắng sau đem của cải bố thí, đều chẳng gọi là tịnh thí.
Bố thí mà nghi ngờ được báo hay không được báo th́ chẳng gọi là tịnh thí.
Hoặc bố thí rồi mà trong ḷng bực bội hối tiếc th́ chẳng gọi là tịnh thí.
Bố thí mà nói người thọ lănh sau sẽ làm trâu ngựa súc vật cho tôi th́ chẳng gọi là tịnh thí.
Hoặc bố thí mà nói phước báu đây tôi tự thọ lấy th́ chẳng gọi là tịnh thí.
Hoặc người trẻ mạnh không ḷng tin thanh tịnh, lúc sau bị bịnh khổ, hoặc sắp phải chết, thân thể đau khổ tay chưn rời ră, sứ Diêm La Vương đùa cợt trước mặt, quyến thuộc nh́n ngó khóc than, bấy giờ mới bố thí th́ chẳng gọi là tịnh thí.
Hoặc bố thí mà nghĩ rằng khiến các thành ấp khác biết tôi bố thí th́ chẳng gọi là tịnh thí.
Hoặc có ḷng ganh ghét ngạo nghễ mà bố thí th́ chẳng gọi là tịnh thí.
Ham mộ nhà giàu sang v́ cầu hôn nhơn nên đem vàng bạc lụa là bố thí th́ chẳng gọi là tịnh thí.
Hoặc cầu con trai con gái và các duyên tạp khác mà bố thí th́ chẳng gọi là tịnh thí.
Hoặc suy nghĩ nay tôi bố thí đời sau sẽ được phước báu th́ chẳng gọi là tịnh thí.
Thấy người nghèo cùng chẳng thương xót, trái lại đem tiền của bố thí người giàu sang th́ chẳng gọi là tịnh thí.
Hoặc tham hoa quả mà thí cho th́ chẳng gọi là tịnh thí.

Nầy Đại Tiên! Ba mươi hai loại bố thí ái nhiễm ấy, dường như có người đem hạt giống tốt gieo trồng trên ruộng hoang xấu, nương nơi đất gặp mưa ướt chắc chắn sẽ nẩy mầm lên cây, nhưng thu hoạch ít về bông trái".

Quảng Bác tiên nhơn lại bạch rằng: " Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là bố thí cho người tŕ giới người phá giới mà chẳng hư mất?".

Đức Phật bảo: " Nầy Đại Tiên! Nếu có người tịnh tín nhân quả phát ḷng vui mừng v́ các chúng sanh mà bố thí không hề hối tiếc cũng chẳng phân biệt là tŕ giới hay phá giới.

Lại nữa nầy Đại Tiên! Có năm loại bố thí gọi là bố thí lớn. Đó là bố thí đúng lúc, bố thí cho người hành đạo, người bịnh và người khán bịnh, người giảng thuyết chánh pháp, người đến nước khác.

C̣n có năm loại, đó là bố thí chánh pháp, bố thí món ăn, chỗ ở, đèn sáng, hương hoa".

Quảng Bác tiên nhơn lại thưa: "Bạch Đức Thế Tôn! Những ǵ là thanh tịnh ?".

Đức Phật bảo: " Nầy Đại Tiên! Nếu người phát ḷng tin v́ các chúng sanh có ḷng thương xót hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề khắp thanh tịnh giải thoát th́ được gọi là thanh tịnh.

C̣n có năm loại bố thí vô thượng, đó là bố thí nơi Đức Như Lai, nơi chúng Tăng, nơi người thuyết chánh pháp, nơi cha, nơi mẹ. Bố thí năm nơi ấy đều gọi là bố thí vô thượng.

C̣n có các loại bố thí gọi là bố thí lớn, đó là bố thí cho quốc vương mất ngôi, người bị quan quyền bức bách không nơi nương cậy, người bị bịnh tật đau khổ, đều gọi là bố thí lớn.

Nếu gặp người bị tội sắp hành h́nh và người bị nạn nguy đến tánh mạng mà chịu bỏ mạng ḿnh để cứu mạng sống cho kia, đều gọi là bố thí lớn.

Hoặc nơi người tật bịnh mà bố thí thuốc men th́ cũng gọi là bố thí lớn.

Hoặc nơi chúng Tăng đủ giới mà bố thí đúng lúc cũng gọi là bố thí lớn.

Hoặc bố thí cho người cầu trí huệ cũng gọi là bố thí lớn.

Hoặc bố thí cho súc sanh, chim thú, các loài ếch nhái cũng gọi là bố thí lớn.

Hoặc bố thí cho kẻ thiếu kém khiến cho họ được no đủ cũng gọi là bố thí lớn.

Hoặc khuyên người khác bố thí thanh tịnh cùng tùy hỉ cũng gọi là bố thí lớn.

Lại nầy Đại Tiên! Trước đây ông có hỏi sau khi Đức Phật diệt độ, gieo trồng thế nào mà được phước báu?

Nầy Đại Tiên! Chư Phật Như Lai đều là pháp thân mà chẳng phải sắc thân, hoặc Phật ở tại thế gian hay sau khi diệt độ, nếu có người cúng dường th́ phước báu không khác.

Như Chuyển Luân Vương truyền lịnh khắp cơi nước chẳng cho giết hại các chúng sanh, chẳng cho vọng ngữ. Người trong nước hoặc chưa được thấy vua cũng chưa từng hầu gần, họ chỉ nghe lịnh vua truyền mà tuân hành, nhà vua đối với những người nầy ắt có ḷng vui mừng, những người v́ được vua vui mừng nên được sanh lên cơi trời. C̣n những kẻ trái lịnh vua truyền th́ đọa vào ác thú.

Nầy Đại Tiên! Có người dầu thấy thân ta mà họ chẳng giữ giới của ta dạy th́ có lợi ích ǵ. Như Đề Bà Đạt Đa dầu gặp được Phật mà ông ấy vẫn phải đọa địa ngục.

Trong đời sau, có người siêng thật hành đúng giáo pháp của Phật, người nầy rất hi hữu như đă được thấy Phật không khác.

Nầy Đại Tiên! Như ông đă hỏi phước đức nhơn duyên theo thí chủ làm chứa làm nhóm thế nào?

Nầy Đại Tiên! Như bó lau sậy v́ đốt cháy mà có lửa sáng, ngọn lửa sáng ấy không thể nói là chứa nhóm trong bó lau sậy. Cũng vậy, thí chủ chứa họp phước đức như bóng theo h́nh, không thể thấy được.

Như trái nho, cây mía lúc chưa ép th́ không thấy được nước mật của nó, nhưng nước mật của nó không phải có ở nơi khác. Cũng vậy, quả báo phước đức chẳng thấy ở trong thân trong tay trong tâm của thí chủ, nhưng nó không rời ĺa thí chủ.

Như hột ni câu luật đà lúc chưa già chín th́ không thấy có mộng mầm.

Như người buôn mang hàng đến bán nơi ấp thành lớn được lời lăi nhiều, phước đức của thí chủ cũng vậy.

Như bầy ong lấy mật hoa, như mây trùm trên không, nào có thấy có chứa có nhóm, mà lúc kết quả th́ thành mật ngon, mưa nhuần phước đức quả báo của thí chủ cũng vậy".

Quảng Bác bạch Phật: " Nghĩa sai biệt của sự bố thí tôi đă được nghe Đức Thế Tôn giảng giải.

Bạch Đức Thế Tôn! Ở trong thân người, thần thức mến luyến như thế nào ?".

Đức Phật dạy: " Nầy Đại Tiên! Như Quốc Vương ở trong thành lớn sợ có quân địch đến, nên lo đào hào đắp lũy tích tụ lương thực nuôi dạy quân tướng, dựng bày cờ xí tập luyện voi ngựa, dàn quân bày trận truyền lịnh dự bị chiến đấu, mặc giáp dày cầm đao bén nghiêm hờ. V́ phước Quốc Vương hết nên thế giặc mạnh sẽ bị bại vong. Cũng vậy, thần thức ở trong thân người thấy sáu căn bị vô thường xâm hại, nên khởi tín tâm phát chánh niệm hành chánh pháp điều luyện ư tưởng tuyên cáo rằng: Nay có quân mạnh vô thường đến hại phải gấp mặc giáp bố thí, cầm gươm trí huệ, mang cung tàm quư dựng lũy cấm giới pḥng ngăn. Quân mạnh vô thường lần lần bức bách sáu căn, thần thức ấy phải bỏ thân, như Quốc Vương hết phước phải bỏ thành đến ở thành khác".

Quảng Bác bạch rằng: " Bạch Đức Thế Tôn! Làm thế nào biết là thành phước đức là thành chẳng phải phước đức mà tôi phải bỏ đi?".

Đức Phật bảo: " Nầy Đại Tiên! Như có người đi thuyền lớn tốt để qua đại hải, dầu gặp cuồng phong sóng to, cá ḱnh hung dữ nhưng nhờ thuyền vững nên đến được bờ kia. Đă an ổn rồi, người ấy tế tự đi nhiễu thuyền ba ṿng cung kính xướng rằng: Lành thay tôi nhờ thuyền nầy mà vượt được đại hải.

Nầy Đại Tiên! Cũng vậy, người có phước đức sau khi mạng chung tự suy nghĩ rằng: nay tôi được sanh lên cơi trời, thân người trước kia thiệt là chẳng uổng, nhờ thân người ấy mà tôi được khỏi đọa vào ác thú, lành thay thân trước rất đáng kính yêu.

Nầy Đại Tiên! Như người đi thuyền xấu hư để qua biển lớn, ở giữa biển bị ch́m bị lật, người ấy giận ghét nguyền rủa thuyền xấu. Cũng vậy, người tạo nghiệp ác không phước đức sau khi chết phải đọa ác thú, giận ghét mắng nhiếc thân trước, uổng công nuôi nấng nay phải khổ thế nầy, như đội cỏ dơ khô, như tằm làm kén tự vấn lấy thân tự chuốc lấy họa.

Nầy Đại Tiên! Người tạo phước đức ở thân kế sau, thần thức ở thai mẹ vừa được bảy ngày liền có thể nghĩ biết tôi từ nơi kia sanh vào đây. V́ có thiện nghiệp nên ḷng vui mừng hay làm cho mẹ hiện ra ba tướng lành: mặt mẹ luôn vui vẻ tươi đẹp, chưn phải giẫm đất mạnh vững hơn trước, tay thường xoa hông phải, thích mặc y phục sạch sẽ thêm vẻ xinh đẹp.

Thần thức người gây nghiệp ác cũng ở trong thai bảy ngày tự nhớ nghĩ tôi từ nơi kia đă từng tạo tội ác, nghĩ rồi sanh ḷng sầu năo hay làm cho mẹ có các hiện tượng xấu, như thân thể hôi dơ gầy g̣ vàng bủng, như thường buồn bực choáng váng ói mửa, tai họa cả nhà hoạn nạn bức khổ, như lúc sanh nở hoặc mẹ chết hoặc con yểu".

Quảng Bác lại bạch Phật: " Bạch Đức Thế Tôn! Lúc thần thức mới nhập thai nếu có trí huệ th́ nghĩ nhớ biết những ǵ?".

Đức Phật bảo: " Nầy Đại Tiên! Thần thức ấy lúc mới nhập thai thấy châu Diêm Phù có nhiều cung điện ao hồ vườn tược rừng cây nơi nơi xinh đẹp, thân tộc tụ họp rất là vui vẻ. Nếu có trí huệ cơi trời th́ tùy niệm nhớ biết vô lượng trăm ngàn đời trước. Chỗ đó tôi sanh ra, người ấy là mẹ cả trăm lần sanh tôi, cả trăm đời nuôi nấng tôi, nghĩ như vậy rồi sanh ḷng nhàm ĺa, khổ thay, chết đi sống lại ở thế gian nầy như vậy đă đủ rồi, các cơi cực nhọc mong được vĩnh viễn thoát khỏi".

Quảng Bác hỏi Đức Phật : " Bạch Đức Thế Tôn! Thần thức ấy có quan niệm nhàm ĺa mong thoát ly như vậy, há lại chẳng ra khỏi ṿng sanh tử ư?".

Đức Phật bảo: "Nầy Đại Tiên! Không thể được. Thần thức ấy không có tướng xuất ly mà được giải thoát th́ không bao giờ có. Dầu thần thức ấy ở trong sanh tử có quan niệm nhàm chán mong xa ĺa , nhưng nó vẫn thọ sanh. Nếu không như vậy thí lẽ ra người tạo phước đức cùng kẻ tạo ác, tất cả đều hướng đến quả Niết Bàn.

Nầy Đại Tiên! Như lời ông nói về thần thức suy nghĩ nhớ biết đó, là thức hiện hành chớ chẳng phải trí hiện hành. Thức th́ hay phân biệt, trí th́ hay biết rơ. Thức cùng trí ḥa hiệp nhau th́ mới có khả năng như lời ông nói.

Muốn tuyên lại nghĩa nầy Đức Phật nói kệ rằng :

Hay ngừa các tội ác
Hoặc chứa nhiều phiền năo
Biết là trí không trí
Là huệ hay ngu si
Thấy kiêu mạn vô minh
Thấy biết tất cả đó
Không bao giờ rời trí
Do trí nên biết rơ
Thức trí chẳng rời nhau
Phật thường nói ḥa họp
Một bánh chẳng thành xe
Hai bánh cũng chẳng thành
Cũng chẳng ngoài bánh xe
Cần có người và trâu
Gồm đủ căm và trục
Cũng đủ hai càng gọng
Ṿng ách và dây cương
Mới được gọi là xe
Thân thể cũng như vậy
Các giới ḥa hợp sanh
Các căn đều đầy đủ
Do thức hay kéo dắt
Lóng đốt dính liền nhau
Gân mạch luôn khắp đủ
Sọ đầu trùm da tóc
Ruột phổi và tim gan
T́ vị ḥa hợp nhau
Xây dựng nên thân giả
Vua Thức ở trong đó
Ngự trị điều khiển thân
Rơ biết các thể tánh
Gọi là thức trí chung

Nầy Đại Tiên! Thức ấy vi tế không thể do h́nh sắc thấy được, không có các căn chẳng ĺa các căn. Nếu có người khiếp nhược hoặc hoảng sợ hoặc suy tưởng ngẫm nghĩ, đều là thức hiện hành chẳng phải tác dụng của trí".

Quảng Bác bạch Phật: " Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào quan sát chúng sanh từ loài địa ngục sanh nơi loài người, nhẫn đến loài trời đến sanh loài người? Có những nghiệp nhơn sai khác ǵ mà sanh loài trời, loài muông thú, loài ngạ quỉ và sanh loài địa ngục?".

Đức Phật bảo: " Nầy Tiên Nhơn ! Bổn tánh của chúng sanh chết đây sanh kia chỉ có Phật là thấy rơ, chẳng phải hàng ngũ thông tiên nhơn biết được, cũng chẳng phải hàng Người, hàng Trời, Phạm Vương, Ma Vương hoặc bực Thanh Văn, Duyên Giác biết được.

Nầy Đại Tiên! Nếu người nào lúc ở nơi pháp của Phật ĺa được tham sân si phân biệt chứng sơ quả, cảnh giới của người nầy c̣n chẳng phải hàng Đế Thích, hàng Trời Na La Diên cùng hàng ngũ thông tiên nhơn như các ông biết rơ được".

Nghe Đức Phật nói lời nầy, Quảng Bác tiên nhơn tự nghĩ rằng "Thánh Trí biết rơ nghiệp báo trong ṿng luân hồi thiệt ta chưa từng có. "

Quảng Bác lạy chưn Đức Phật bạch rằng: " Bạch Đức Thế Tôn! Nay tôi già suy quên lăng chẳng thể đến được đạo quả, không có khả năng đảm nhiệm gánh nặng Bồ Đề, kể từ nay tôi và chúng đệ tử của tôi và hàng quyến thuộc quy y Phật Pháp Tăng. Ngưỡng mong Đức Thế Tôn chỉ dạy cho được lợi ích vui mừng, do mặt nhựt thánh trí thường ở thế gian trừ bỏ mê mờ phiền năo. Lành thay Đức Thế Tôn! Xin Đức Phật diễn nói về tất cả chúng sanh sanh về cơi trời".

Đức Phật bảo: " Đại Tiên lắng nghe! Nay ta sẽ nói về việc ấy.

Nếu có chúng sanh nào bền vững trọn nên công hạnh bố thí tràng hoa thơm xinh, người nầy ắt sanh về cơi Trời Tŕ Man. Lúc lâm chung, thân thể người nầy phát ra mùi thơm vi diệu và cảm hiện hoa tươi, lại tự thấy các thứ hoa nhiều màu rải trên thân ḿnh, hoặc lại có thấy đền đài cung điện treo nhiều linh, lục lạc, châu báu, trang sức với các thứ hoa đẹp, trăm ngàn Thiên nữ ở trong ấy. Sau khi chết, người ấy thấy cha và mẹ Trời Tŕ Man ḥa hiệp như người Diêm Phù Đề, do ái phong thổi người ấy nhập vào thai tạng. Bấy giờ mẹ Trời Tŕ Man ấy mang thai bảy ngày, ở dưới nách phải sanh ra con trai. Vừa sanh xong, trước ngực con trai ấy có hoa duyệt ư cơi trời tự nhiên kết thành tràng đủ bảy màu, đó là những màu trắng đen, vàng, đỏ, xanh biếc, hồng và đồng đỏ. Tràng hoa ấy có ánh sáng chói ḷa, mùi thơm của hoa do gió đưa lan khắp một do tuần, v́ thế nên trời ấy gọi là Trời Tŕ Man. Trong cung có cây, nước mật nó thơm ngon như chất cam lộ. Trái cây trong vườn đủ tám mùi vị phẩm cao. Trời ấy toàn ăn thứ trái đó, không vật thực nào khác. Lúc cảm thấy đói, trái chín tự hiện ra trên cây. Mặt đất không có gai góc sạn sỏi, toàn là cỏ mềm hoa tươi trải khắp sạch sẽ. Hoặc có cung điện như khối hoa trắng, hoặc có cung điện vàng ṛng dựng lên. Thiên nữ xinh đẹp cùng đùa vui dưới mái hiên. Trời Tŕ Man thọ hai trăm năm cơi trời. Lúc trời ấy sắp mạng chung hiện ra hai hiện tượng: Cây trong vườn nhà lá th́ héo úa cành th́ rũ xuống bông hoa mất mùi thơm, tràng hoa trên thân bỗng nhiên héo vàng gió mát biến thành gió nóng độc, muốn bỏ cung điện nguy nga mà đi. Bấy giờ các Thiên nữ thấy hiện tượng xấu nầy, cùng nhau vây quanh trời ấy mà kêu khóc rằng: Khổ thay cho vô thường không chút xót thương nơi người mà chúng tôi yêu quí bắt lấy chẳng cho tự do, giây lát đây sẽ bỏ ĺa chúng tôi. Lúc ấy Thiên Tử Tŕ Man đó lần bị bịnh nhiệt tăng cả thân hiện ánh lửa, dầu vậy nhưng nội tâm không cảm thấy nóng bức mà vẫn khoái lạc, rời cơi trời sanh vào nhơn gian. Ở trong thai thần thức ấy có thể làm cho mẹ thích tràng hoa thơm và các thứ trái ngọt, thường chiêm bao thấy thành ấp chợ búa trang nghiêm đông đúc, khắp nơi giăng rũ chuỗi hoa. Khi đă sanh ra, thân h́nh sáng đẹp ưa thích y phục sạch sẽ và tràng hoa xinh tươi, thích đến thân thuộc bạn bè, say mê dục lạc mến yêu nữ sắc, những món y phục quí vườn hoa bông trái không ǵ chẳng ham, thấy người giàu sang lại càng vui mừng.

Lại nầy Đại Tiên! Người xu hướng về Trời Tứ Thiên Vương th́ như sau đây: Nếu có người thấy kẻ nghèo cùng người bịnh tật, bố thí cho ăn uống y phục, thuốc men, hoặc đào ao giếng để bố thí. Lúc lâm chung, thân người ấy không ốm gầy không thay đổi sắc, ḿnh không hôi dơ, tiếng không khàn tắt, không đái dầm ỉa són, các căn không hư tổn có thể thấy tự ḿnh ở trong chúng trời. Sau khi mạng chung thi thể màu hoa sen hồng, miệng thoảng mùi thơm, lại c̣n có gió mát thổi hoa thơm phất trên thi thể. Lúc ấy thần thức thấy Trời Tứ Thiên Vương cha mẹ vui vầy giao du say đắm t́nh ái, thiên phụ dùng bàn tay phải xoa lưng thiên mẫu, liền thọ thai vào nơi vế mẹ, sau bảy ngày th́ sanh thân trời đầy đủ các thứ trang sức.

Nầy Đại Tiên! Địa xứ của Trời Tứ Thiên Vương ngang rộng tám vạn bốn ngàn do tuần, hoàng kim, bạch ngân, lưu ly, pha lê xen lẫn trang sức, trong cung điện Trời Tứ Thiên Vương có hàng trăm ngàn Thiên nữ, trăm ngàn thứ bông trái lớn như h́nh tượng người đầy trong các khu vườn, ánh sáng ma ni trời thường chiếu sáng cơi ấy, cành nhánh rừng cây rũ y phục kiếp ba và lụa hàng vi diệu. Những cây ấy đều bóng nhuần ai xem cũng thích, nơi các đền điện treo đầy nhạc cụ, tiếng tiêu tiếng sáo tự nhiên phát ra. Các thiên đồng tử chỉ có một việc là ṿ vắt món ăn. Cơm ấy thơm ngon, màu như hoa sen hồng, vị hơn chất cam lộ, bát đĩa đựng toàn bằng hai chất: hoàng kim và bạch ngân, tùy ư thích ưa món ăn đẹp thơm ngon ngọt tự nhiên hiện ra trong ấy. C̣n có rượu trời tên là hoa tửu thơm lạnh đặc biệt, nếu có ai ngửi cũng tự nhiên say. Mỗi Thiên Tử Trời Tứ Thiên Vương đều có tẩm điện riêng tên là Sơ Thu, có cả trăm ngàn cây sa lan kê hiệp trùm che kín phía trên. Khắp nơi tḥng rũ những dây hoa vàng bạc châu báu, c̣n có các loại giường ghế màn thảm sáng đẹp mịn nhuyễn, có sáu vạn Thiên nữ dung nhan xinh đẹp y phục sáng bóng tiếng nói lảnh lót âm vận hiệp với Thiên nhạc, các Thiên nữ nầy được các nhạc thần chỉ dạy nên lúc ca lúc vũ khi nói cười khi đi đứng có thể làm cho người thấy phải luyến ái. Trước cung điện có dựng cột phướn trang nghiêm với những vàng bạc gấm lụa, treo phan báu phất phơ theo gió.

Cơi ấy có bốn Thiên Vương là Tŕ Quốc Thiên Vương, Tăng Trưởng Thiên Vương, Quảng Mục Thiên Vương và Đa Văn Thiên Vương. Bốn Thiên Vương ở cơi trời ấy thường tụ họp các Thiên Tử yến ẩm vui vầy. Các Thiên Tử cơi trời Tứ Thiên Vương thọ năm trăm tuổi, tính theo năm cơi trời, không có ai yểu giữa chừng.

Nầy Đại Tiên! Lúc Thiên Tử cơi trời Tứ Thiên Vương măn tuổi thọ sắp chết th́ có ba hiện tượng: Một là mất ánh sáng nơi thân, hai là tràng hoa đeo không c̣n mùi thơm, ba là chẳng thích nghe các Thiên nữ ḥa tấu kỹ nhạc, cũng không thích dạo chơi trong vườn hoa, trên thân th́ y phục dơ bẩn, tràng hoa héo úa, mồ hôi rịn chảy, hai mắt khô rát nh́n lại các món thường ngày thích ngắm nh́n càng thêm mê muội, như cá dưới nước bắt để trên đất nắng mùa hạ, bị nóng bức quá nên lăn lộn trên đất. Các Thiên nữ thấy Thiên Tử ấy sầu khổ như vậy cùng đến vây quanh đồng nhau than khóc: khổ thay, khổ thay! Người mà chúng ta mến yêu sao lại đến thế nầy, trước kia vui sướng nay thành sầu khổ, ngày nay sao đành bỏ ta cùng những chỗ vui chơi.

Các Thiên nữ nói kệ than rằng :
Mọi món vật trang nghiêm
Chỗ của Ngài vui chơi
Cung thành phước đức lớn
Lâu đài khắp bốn mặt
Thiên nữ thường đông đúc
Vườn rừng luôn sum suê
Sao Ngài đành vứt bỏ
Khổ thay cho vô thường.

Các Thiên nữ nói kệ xong nh́n nhau nghẹn ngào, tay mặt cầm hoa tươi rải lên ḿnh Thiên Tử ấy mà nói rằng: Ngài có đủ phước sẽ sanh nhơn gian, nơi ấy là phước địa phải có ḷng tin gieo lấy giống lành.

Bấy giờ Thiên Tử ấy thấy các Thiên nữ đều xa bỏ ḿnh nên ḷng càng thêm bức rứt, thân tâm nóng bức như nhiễu giọt dầu lên sắt nóng đỏ vụt tự tiêu diệt c̣n thừa chút khói tro lại bị gió nghiệp thổi tan, như lân hư trần chia làm ngàn ức phần không c̣n thấy được. Thần thức của Thiên Tử ấy từ cơi trời giáng xuống nhơn gian thấy cha mẹ ḥa hiệp sanh ḷng vui thích liền nhập vào thai tạng. Vừa có thai mẹ liền có những hiện tượng: ăn uống thêm nhiều chẳng ăn món máu thịt, ưa mặc y phục bông hoa và thích nơi tụ hội đông người, đối với hàng thân thuộc bạn bè th́ thương mến hơn trước. Dầu bụng mang thai con mà không hề khó chịu, miệng không chảy nước dăi, thân không nặng nhọc. Sau khi sanh ra, đứa trai ấy tướng người đoan nghiêm, mắt nó xanh biếc như thanh bửu cơi trời, ai thấy nó đều thích. Nghe nói những sự việc Trời Tứ Thiên Vương ở cơi trên th́ nó vui mừng lắm. Nó thường ưa bố thí, ưa mặc y phục thơm tho, tánh ưa thường thường ăn uống, thích ca múa cùng lưu luyến vườn rừng nữ sắc.

Nầy Đại Tiên! Nếu có người nào do ḷng tin thanh tịnh mà xa rời sự sát hại và trộm cướp, mang món ăn uống đồ dùng tốt, mang những y phục và của tiền châu báu để cúng dường bố thí, thành kính mang hoa hương cúng dường tháp Phật, người nầy lúc lâm chung thân không bịnh khổ không dơ không hôi, chánh niệm không quên, sắc mặt như màu hoàng kim, sóng mũi chẳng xẹp găy, tâm không nhiệt năo, cổ họng không bế tắc cũng không kḥ khè, chẳng bị gió nghiệp bức bách, tiếng nói chẳng khàn chẳng ngọng, ngủ ăn b́nh thường.

Đại Tiên nên biết người lành trên đây th́ các thứ độc không hại được, ăn uống tiêu hóa cùng những sự tổn thương yểu vong cùng tai nạn đều đă xa ĺa.

Lúc chết thần thức người nầy v́ là thần thức cơi trời nên thấy lầu đài Trời Tam Thập Tam h́nh tượng cá ma kiệt bằng hoàng kim trang nghiêm các cột cổng nhà, mặt đất là chiên đàn tốt, nước thơm rưới lên, đất ấy mềm dịu sạch sẽ trắng hơn sương tuyết sạch như chuỗi ngọc. Cây hương huỳnh đàn đèn đuốc bằng châu báu trời bày hàng xen lẫn. Các Thiên nữ Thiên Tử vui đùa trong các khu vườn.

Thấy cảnh trời trên đây, thần thức sanh ḷng vui thích liền nhập vào tay Thiên nữ mẹ làm thành thai tạng. Lúc ấy bàn tay mẹ do đó mà sanh ra hoa cầm đưa Thiên phụ coi cùng nhau vui mừng. Thiên mẫu lại lấy hai tay xoa nâng bông hoa ấy, Thiên Tử liền sanh ra. Thiên mẫu nói với Thiên phụ nay tôi sanh ra một Thiên Tử làm cho giống lành càng thêm mạnh. Bèn tụ hội chư Thiên để làm lễ khánh hạ.

Sau khi sanh được bảy ngày, Thiên đồng tử ấy có đủ tướng người cơi trời Tam Thập Tam, nhớ biết đời trước từ chỗ đó chết sanh đến nơi đây, người đó là cha ta, người đó là mẹ ta, ta đă từng làm điều thiện đó, nghĩ nhớ như vậy rồi sanh ḷng vui mừng liền ở nơi ngũ dục sanh ḷng say đắm ưa thích, cung điện vườn rừng cơi trời tự nhiên hiện ra. Cánh tay của Thiên đồng tử ấy suông như ṿi voi, ngực cao đầy như ngực sư tử, hai vế tṛn trịa như thân cây chuối, da thịt sáng bóng sạch sẽ không có tàn nhang, không có nốt ruồi đen, không có lông mọc tạp, không có chút hôi dơ, toàn thân thoảng ra mùi thơm vi diệu. Tất cả y phục nhẹ kín chuỗi ngọc tràng hoa cơi trời đều chẳng cần t́m nơi ngoài, nó tự nhiên hiện đủ trên thân. Bấy giờ trong cung điện ấy không có Thiên Tử, chỉ có những Thiên nữ, họ thấy Thiên đồng tử liền đến vây quanh đồng nói rằng: Lành thay Ngài đến đây rất tốt, cung điện nầy thuộc về Ngài, chúng Thiên nữ các em đây trước nay không nơi nương tựa xin được theo hầu Ngài. Các Thiên nữ nầy đều hàng thanh niên vú như b́nh hoàng kim, gương mặt như hoa sen hồng. Sáu vạn Thiên nữ như vậy đưa Thiên đồng tử vào vườn toàn cây câu tỳ la cơi trời sum sê tươi tốt, các thứ nhạc trời, tiếng tiêu tiếng sáo, tiếng trống tiếng đờn tự nhiên phát ra, âm thanh vi diệu người nghe khoan khoái. Lại có ṭa sư tử nghiêm sức với các tràng chuỗi ngọc châu lót bằng gấm lụa. Thiên đồng tử thấy những cảnh nghiêm trang xinh đẹp nầy liền lên ngồi trên ṭa sư tử như vua quán đảnh.

Lúc Thiên Tử ngồi xong th́ các món trân ngoạn tự nhiên phát ra tiếng rằng: Người lành nầy từ châu Diêm Phù Đề do làm phước trời nên sanh nơi đây, mọi người đều nên đến hầu hạ Ngài, đờn hát ca múa làm cho Ngài vui vẻ không chán.

Âm thanh ấy phát ra rồi th́ trong vườn rừng cung điện tất cả sáu vạn Thiên nữ tay cấm hoa trời, ḿnh mặc y phục trời, hơi thơm từ thân Thiên nữ phát ra như mùi rượu nho, rượu mật, rượu họa, ngửi mùi hương ấy làm cho người phải say mê. Các Thiên nữ đồng thanh nói: Ngài đă có chứa phước trời, chúng em xin được phụng sự Ngài.

Bấy giờ Thiên Tử cùng hàng Thiên nữ dạo chơi trong các khu rừng hoan hỉ, rừng tạp hoa, rừng viêm ngọc, rừng cực quang nghiêm, rừng nhựt cung viên, cũng dạo chơi nơi các khu vườn tiếng suối reo, vườn tiếng âm nhạc. Các rừng các vườn ấy mát mẻ xinh tươi, không có gió xấu, mùi hoa ngào ngạt, chiếu sáng khắp nơi bằng châu ma ni bửu xanh, có những điểu vương hót tiếng vi diệu, lông chim ấy chiếu rực như khối châu báu, mỏ chim bằng phệ lưu ly cơi trời, các chim bay liệng đầy khắp vườn rừng.

Nầy Đại Tiên! Cơi trời Tam Thập Tam có ao nước đủ tám công đức theo tháng mà đầy vơi. Nước ao không hề bẩn, luôn trong sạch mát mẻ. Trong ao có những cây hoa thơm bá diệp. Bờ ao có cây ngay hàng, đầy những hoa đẹp. Những ao nước nầy là nơi mà các Thiên nữ thường đến tắm rửa vui đùa.

Đến giờ ăn th́ những bát đĩa bằng châu báu tự nhiên xuất hiện tùy theo ư muốn, các món ăn màu sắc đẹp thơm như hoa câu ma, trắng hơn ngọc tuyết, có tên là thiên cam lộ. Món ăn ấy đủ mùi thơm ngon cũng dễ tiêu hóa, không hề có vị cay chua đắng chát.

Nầy Đại Tiên! Có hạng trời báo chẳng được thuần nên dầu là đồng trong một bát ăn mà hoặc tự cảm thấy màu xanh màu đỏ, hoặc thấy cả màu vàng màu đen hoặc nhiều màu lẫn lộn. Thân h́nh trời th́ không khác nhau mà món ăn có sai khác. Nên biết những hạng trời nầy đời trước ở nhơn gian dầu là bố thí, nhưng sau khi bố thí rồi lại ăn năn có ḷng hối tiếc nên cảm báo như vậy.

Nầy Đại Tiên! Cơi trời Tam Thập Tam lại c̣n có những khu vườn tên là hiệp hôn, cây trái trong đó luôn sum sê. Nơi ấy là chỗ ở của các hàng ly dục tịch tĩnh. Những Thiên Tử cùng Thiên nữ mà vào vườn ấy đều chẳng phải v́ thích ưa dục lạc.

Nầy Đại Tiên! Đệ tử của ta bực Thanh Văn cao nhứt là Kiều Phạn Bát Đề hiện tại ở tại vườn hiệp hôn ấy, Kiều Phạn Bát Đề là con trai ḍng Bà La Môn thanh tịnh, trụ trong thiền định từ bi, dùng từ tam muội mở mắt từ bi, mỗi lần nhập định là bảy ngày làm hạn mới hiện có hơi thở ra thở vào. Lúc ông ấy nhập định theo ư muốn có gió mát thổi đến. Giả sử có kiếp hỏa đốt cháy đại địa thành một khối lửa lớn, nhưng với thân nhập thiền định của ông ấy chẳng thể làm tổn hại được phần nhỏ như hột cải. Thân thể nhập thiền định của Kiều Phạn Bát Đề thường vững vàng như ṭa núi Di Lâu.

Nan Đà Long Vương và Bạt Nan Đà Long Vương có oai lực lớn phun hơi rất mănh liệt có thể làm cho núi Di Lâu lay động khua ra tiếng, nước bốn đại hải biến làm vị mặn. Giả sử hai Long Vương nầy dùng hết thế lực ḿnh có cũng không thể làm nhiễu loạn được Kiều Phạn Bát Đề lúc ông nầy nhập thiền định.

Nầy Đại Tiên! Kiều Phạn Bát Đề, đệ tử của ta, ở rừng hiệp hôn, các Thiên nữ dầu say ái dục mà khi thấy Tôn giả nầy liền sanh ḷng thanh tịnh, đem hoa mạn đà la và những hoa sen đến cúng dường chắp tay cung kính. Các Thiên Tử trời Tam Thập Tam cũng đến vây quanh mang thiên cam lộ đến dâng cúng. Tôn giả Kiều Phạn Bát Đề ở rừng hiệp hôn nói những khế kinh, như trường hàng, kệ, trùng tụng, vị tằng hữu, vô vấn tự thuyết, bổn sanh, bổn sự, nhơn duyên, luận nghị, phương quảng, thí dụ và thọ kư, Hàng Thiên Tử và Thiên nữ ấy nghe Tôn giả thuyết pháp không ai là chẳng ân cần cung kính tôn trọng.

C̣n nữa, nầy Đại Tiên ! Trời Tam Thập Tam có nhà tụ hội. Nhà ấy có bốn vạn tám ngàn cột, toàn làm bằng những hoàng kim bạch ngân, ngọc xa cừ, ngọc mă năo cùng với lơi cây chiên đàn, treo linh tḥng lạc vang ra tiếng vi diệu. Trải khắp thiên y, dựng những tràng phan, tiếng nhạc như tiếng tiêu, tiếng sáo, tiếng không hầu, tiếng đờn cầm đờn sắc, tiếng loa tiếng trống, tiếng chiêng tiếng phèn la, các âm thanh vi diệu tự nhiên phát ra làm vui đẹp người nghe. Các Thiên Tử, Thiên nữ yêu kính nhau vui mừng gặp gỡ thường tụ họp nơi hội đường ấy. Trong hội đường dùng châu ma ni bửu để trang sức, mặt đất lót bằng lưu ly trong sáng nhuần bóng sạch sẽ trơn láng như gương, những hương xoa hương bột cùng các thứ hoa đẹp rải khắp mọi nơi, ở trong ấy không có ai hôn mê ngủ gật, cũng không có ư tưởng biếng lười, gió nhẹ thơm mát phảng phất khắp nơi.

Nầy Đại Tiên! Trời Tam Thập Tam ấy khắp nơi đều có lâu các bằng châu báu gỗ quư chiên đàn giăng màn lưới báu, treo nhiều chuỗi ngọc châu trải khắp hoa thơm. Có trăm ngàn Thiên nữ dầu say mê ái dục mà không hề tật đố, không ghen hờn không căi không giành, thường ḥa thuận nhau. Thiên nữ ấy diện mạo xinh đẹp như trăng tṛn sáng, tràng hoa và châu báu nghiêm sức trên đầu trên thân, giọng nói thanh tịnh tiếng ca vi diệu qua lại không ngớt.

Lại nầy Đại Tiên! Hội đường của trời Tam Thập Tam ngay ngắn rộng răi. Hiên đài rộng cao mát như bóng mây. Bốn phía hội đường c̣n có vườn đều rộng trăm do tuần, trong vườn nhiều hoa sen tươi màu hoàng kim, trong hoa vang ra tiếng ca vi diệu làm người nghe đều vui đẹp. Ngoài vườn có lùm rừng toàn những cây cơi trời như những cây câu ca na đà, những cây ba lợi dă đa, những cây câu tỳ đà la.

Nầy Đại Tiên! Hội đường thiện pháp ấy, tất cả những vật trang sức trân ngoạn đều là những khối hoàng kim bạch ngân, những khối ngọc lưu ly, ngọc pha lê, ngọc xa cừ, ngọc mă năo và ngọc xích chơn châu. Đền đài cũng là khối bảy thứ báu ấy. Kho tàng th́ đầy những trân kỳ bửu vật.

Các cung điện đến số trăm ngàn.Vườn tược rừng cây trang sức châu báu liên tiếp xa gần.

Cơi ấy thường nghe sự an vui không hề có sầu khổ bịnh tật cũng không có họa hoạn.

Các Thiên Tử và Thiên nữ trời Tam Thập Tam vui chơi nơi các khu vườn rùng ấy xong th́ họp nhau tại hội đường thiện pháp ấy để cùng hưởng vui sướng.

Lại nầy Đại Tiên! Trời Tam Thập Tam c̣n có cung điện riêng tên là Thiện Kiến. Hội đường Thiện Kiến nầy sáng như giữa ban ngày, sạch trong dường gương sáng, ṿng quanh bốn phía nhà dùng dây châu báu giăng treo trang sức.

Trong hội trường nầy có một ngàn Thiên nữ, trên măo trang sức bằng những hoa thất bửu, chuỗi châu ngọc chiếu rực rỡ, the chỉ hoàng kim bao trùm.

Đền Thiện Kiến ấy có sáu vạn cột, trính kèo chói sáng lẫn nhau, trùng trùng điệp điệp những trân kỳ xen lẫn để trang sức. Sơn phết th́ màu đỏ thắm, rải đất th́ dùng nước chiên đàn nước trầm hương cùng hương tô hiệp mùi thơm ngào ngạt.

Nơi ấy voi ngựa xe cộ qua lại tung bay bụi hoàng kim làm cho nơi nơi thành màu hoàng kim.

Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn tay cầm chày kim cương, có trăm ngàn Thiên nữ theo hầu, đến vào đền báu ấy cùng thưởng ngoạn vui chơi.

Nầy Đại Tiên! Phải biết trong cơi trời Tam Thập Tam có Thiên Vương tên Nhơn Đà La, có sức dũng kiện địch nổi chín ngàn voi lớn. Thiên Vương ấy cánh tay tḥng xuống đẹp như ṿi voi trời, thân thể như vàng hoàng kim sạch bóng. Gân thịt kín đáo rắn dẻo, xương cốt và mạch máu không lộ bày, ngực tṛn như ngực sư tử chúa, bụng chẳng vun cao, eo lưng bó nhỏ. Trên đầu trang sức với những châu báu ngọc quư xỏ bằng chỉ hoàng kim ḷng tḥng chiếu sáng. Y phục th́ dài nhuyễn nhẹ, tiếng nói trong trẻo, từ lâu đă thông thuộc và soạn tác những sách luận, khi ăn th́ thuần là món thiên cam lộ, khi đi th́ ngồi voi Y Bạt La.

Nầy Đại Tiên! Sắc thân đẹp mạnh của Thiên Vương Nhơn Đà La ấy chẳng phải là xương thịt thường, mà thuần là hoa báu hợp thành, giọng nói trong tốt, hơi người thoát ra mùi thơm kỳ lạ. Giả sử như voi say cuồng ngửi được hơi thơm nơi thân Thiên Vương ấy thoảng ra th́ nó tự điều thiện. Thiên Vương ấy h́nh mạo đoan nghiêm như thân Phật, màu sắc cùng ánh sáng ấy có thể làm cho khối hoàng kim để gần phải mất cả màu sáng".

Quảng Bác nói: "Bạch Đức Thế Tôn! Như Lai hôm nay khen ngợi Thiên Đế thật là hi hữu".

Đức Phật nói: " Nầy Đại Tiên! Thân của Thiên Đế ấy là thân vô thường, là thân hạ liệt nào đáng ngợi khen. Thân ấy như món kết bằng cỏ bở, như hoa nhờ kéo hớt, như h́nh tranh của họa sĩ, cũng như tượng gỗ của thợ điêu khắc, lại cũng như kết hoa làm tràng nào c̣n được lâu.

Nầy Đại Tiên! Đệ tử có thần thông của Phật như ông A Na Luật, chỉ cứ nơi thân do cha mẹ sanh ra, lấy sức mạnh nơi mỗi lóng đốt so với Thiên Đế c̣n hơn gấp bội phần".

Bấy giờ Tôn giả A Na Luật hiện đang ngồi trong pháp hội nghe lời Đức Phật phán như vậy th́ tự nghĩ rằng nay Đức Thế Tôn có ư giác ngộ tôi. Nghĩ xong, Tôn giả liền nhập tam muội, thân Ngài chiếu sáng như hoàng kim cơi trời, đội măo thù thắng ánh sáng châu ngọc rực rỡ, mặt Ngài nhuần bóng hơn thoa đề hồ, cặp mắt xanh biếc như ngọc phệ lưu ly. Cánh tay trang sức với châu ma ni châu mă năo và châu nhựt quang. Ánh sáng và hơi thơm nơi thân Ngài chiếu lan khắp nơi.

Quảng Bác Tiên nhơn thấy thân tướng nầy ḷng rất kinh ngạc liền đứng dậy chắp tay cung kính chiêm ngưỡng cho là ít có, to tiếng xướng lên rằng: " Lạ thay, lành thay! Tôi được thân người thiệt là chẳng uổng. Nay gặp Đức Thế Tôn phát huy tụ hội xưa chưa từng thấy mà nay được nghe thấy".

Đức Phật phán hỏi: " Nầy Đại Tiên! Thân Thiên Đế ấy cùng thân của A Na Luật so sánh nhau hơn kém thế nào?".

Quảng Bác nói: " Bạch Đức Thế Tôn! Đem so với thân của Tôn giả A Na Luật đây th́ thân Thiên Đế ấy không bằng một phần trăm cũng không bằng một phần ngàn".

Đức Phật bảo: " Nầy Đại Tiên! Với thân thể nầy chẳng đủ cho là hi hữu. V́ người đă có phước đức th́ tùy ư ḿnh muốn đều được thành tựu thân thể theo sở nguyện cả".

Lúc bấy giờ chúng hội sanh ḷng hi hữu vui mừng bạch Đức Phật: " Bạch Đức Thế Tôn! Xin Phật v́ chúng tôi mà lại giảng nói về cơi trời".

Đức Phật bảo: " Nầy Đại Tiên! Trời Tam Thập Tam ấy, Thiên Đế có bà phu nhơn tên là Xá Chi. Bà ấy ở vườn hoan hỉ có trăm ngàn Thiên nữ hầu hạ. Bà phu nhơn ấy dung nhan đẹp lạ như bông hoa nở, má như cánh sen hồng, mặt như màu hoàng kim. Bà ấy mặc y phục mịn nhuyễn tươi sáng, hoa báu vi diệu trời trang sức trên đầu, tḥng những chuỗi châu báu những bội ngọc quư khi lúc lay động khua vang tiếng vi diệu. Trán bà ấy rộng bằng ngay thẳng rũ the lượt hoàng kim, cặp mắt dài nhọn như hoa sắp nở, thân h́nh bà ấy chẳng mập chẳng ốm chẳng cao chẳng thấp, thể chất thơm sạch không có dơ xấu. Thường có gió đưa hoa đẹp đến kết thành lọng che. Đối với Thiên Đế, bà ấy một ḷng chơn thành vững chắc không hề hờn giận tranh căi. Bà ấy cũng không có sự lo về thai nghén.

Đại Tiên nên biết bà phu nhơn Xá Chi ấy say mê ân ái nặng hơn các Thiên nữ khác, bà ấy chí ư kiêu căng c̣n hơn núi Di Lâu, núi Mạn Đà rậm rạp khó ngước nh́n. Dầu vậy, mà bà phu nhơn ấy hay phát huy chủng tánh Phật.

Nầy Đại Tiên! Trời Tam Thập Tam không có những khổ nạn xen tạp, chỉ thuần vui sướng chơi đùa trong các cung điện vườn rừng .

Nầy Đại Tiên! Thọ mạng của trời Tam Thập Tam là một ngàn tuổi tính theo năm của trời ấy. Lúc người trời ấy sắp lâm chung có năm hiện tượng xấu.

Nơi ao hồ trong mát làm người tắm vui thích, gió nhẹ thổi các hoa đẹp thơm tươi sáng lung lay tỏa hương thơm, mà nay đối với vị trời ấy lúc sắp sửa tắm rửa liền biến thành mỡ nhớt. Vị trời ấy thấy vậy kinh sợ nhảy lên khỏi nước dơ chạy vào rừng, các Thiên nữ theo hầu thấy Thiên Tử ấy hoảng sợ như vậy cũng cùng nhau chạy đuổi theo. Vị trời ấy dừng ở dưới cội cây buồn rầu nghẹn ngào. Chúng Thiên nữ đồng tiếng nói sao Ngài lại vội rời bỏ chúng em mà đứng một ḿnh ở đây?

Vị Thiên Tử ấy tiếng nói càng lúc càng thảm thiết bảo các Thiên nữ rằng: Từ nào đến giờ chưa từng có chất nhờn dơ hiện ra trên thân ta. Vừa nói lời trên xong th́ hai nách vị trời ấy bỗng nhiên chảy mồ hôi. Chúng Thiên nữ thấy hiện tượng xấu dơ ấy liền dang ra xa. Đây là tướng suy xấu thứ nhất.

Vị Thiên Tử nầy thấy chúng Thiên nữ lánh xa ḿnh th́ rầu rĩ buồn khổ trong ḷng thêm nhiệt năo. Tràng hoa trên đầu bỗng nhiên úa héo, y phục trời đang mặc cũng th́nh ĺnh dơ bẩn, không c̣n thích những trân ngoạn giường ghế báu quư trước. Các Thiên nữ thấy tướng xấu ấy biết là hiện tượng sắp chết v́ gớm hơi hôi dơ, nên đều dang ra xa, chỉ có vói nh́n Thiên Tử ấy phát tiếng kêu khóc luyến tiếc nghẹn ngào than rằng: Thân trời mịn nhuyễn thơm lành trước kia cùng chúng tôi vui chơi yến ẩm dạo đi trong vườn rừng, cũng cùng chúng tôi tắm lội trong ao hồ mát trong, cũng cùng chúng tôi hội họp nơi nhà thiện pháp như nga vương, cũng cùng chúng tôi vui đùa trong vườn hoan hỉ như chim ca lan, cùng chúng tôi dạo đi trên sông mạn đà như hương tượng, cùng chúng ở vườn ba gia và vườn câu la như phong vương, cùng chúng tôi ở rừng tạp thọ như măo trời quư đẹp, nay sao lại hiện năm tướng suy sẽ rời bỏ chúng tôi mà đi. Đây là tướng suy xấu thứ hai hiện ra.

Bấy giờ vị Thiên Tử ấy nghe tiếng than khóc của chúng Thiên nữ nên càng thêm tức giận, ḷng sanh sợ hăi, bèn bị bịnh nhiệt thiêu đốt cả thân ḿnh khô héo, đôi mắt kinh hoàng như nhà đi buôn bị lạc mất đoàn buôn, như ghe thuyền hư bể giữa biển lớn, như người đánh mất châu như ư, như cội cây mục trên gành núi cao bị ngọn gió lớn thổi lay, như rồng con bị chim kim sí bắt ngậm nơi miệng. Vị Thiên Tử ấy sợ hăi hoàng chắp tay vói nói với chúng Thiên nữ rằng: Các nàng đến đây, xin được tay các nàng xoa bóp cho tôi được sống thêm chốc lát. Dầu nghe vị Thiên Tử ấy nói như vậy nhưng chúng Thiên nữ không ai dám đến gần v́ gớm mùi hôi dơ, chỉ có đứng xa nh́n mà kêu khóc. Chúng Thiên nữ ấy đều cầm các thứ hoa vói ném mà nói rằng: Phước trời của Ngài đă hết Ngài mau sanh vào Diêm Phù Đề.

Nghe lời nói của chúng Thiên nữ, vị Thiên Tử ấy biết là họ đă xa bỏ ḿnh nên phát thanh thán oán rằng: Lạ thay tại sao từ lâu trong lâu đài các thứ ngoạn cụ cùng vườn tược nầy, chúng Thiên nữ ấy cùng tôi sum họp hưởng lạc, mà nay họ lại đứng dang ra xa bảo vói với tôi là Ngài nên mau sanh vào Diêm Phù Đề.

Than nói lời trên rồi, nh́n lại cảnh tượng đang ở và các khu vườn trang nghiêm xinh đẹp mà ḿnh đă từng dạo chơi hằng ngày, trong ḷng luyến ái buồn thương, vị Thiên Tử ấy cất tiếng nói lớn rằng : Than ôi nào là hội đường thiện pháp, than ôi nào là vườn hoan hỉ, vườn tạp thọ, vườn hoàng viêm thạch, vườn ba lộ sa, vườn ba lê gia, vườn quan thắng, than ôi nào là sông mạn đà, ao thanh lương, than ôi nào là cung ngọc đền vàng lầu châu các báu, nay tôi đều không c̣n thọ hưởng được, từ đây phải đọa lạc. Than nói chưa xong, lại thấy chúng Thiên nữ kinh hoàng đi qua đi lại, tay th́ lau nước mắt sụt sùi than thở lộ vẻ lo sợ, bèn than rằng: Than ôi nào người thân nào người yêu, tại sao họ thấy tôi sắp chết mà họ không chuyện tṛ với tôi, tôi đang sắp sửa vĩnh biệt mà họ không chịu tiếp cận tôi để giă biệt, tôi cùng chúng nó sẽ không c̣n thấy lại nhau. Nay tôi phước trời đă hết nên tự thấy chỗ ở nầy tối om trống vắng. Than ôi nhạc trời có lẽ không ḥa tấu chăng, tại sao tôi không c̣n nghe. Trong cơi trời nầy sự vui sướng cao độ nhứt, tất cả hàng Thiên Tử cùng chúng Càn Thát Bà chư Thần phục vụ tôi, cùng thần tướng sắc đẹp mạnh mẽ cầm chày kim cương, thần tướng ngàn mắt, than ôi nay tôi không c̣n được thấy được hưởng. Than ôi cho các thứ hoa trời, nào là hoa ba lợi gia, hoa câu tỳ la ở trên đầu tôi sao nó lại héo úa.

Chúng Thiên Tử, Thiên nữ thấy vị Thiên Tử ấy buồn rầu như vậy thảy đều lo sầu.

Bấy giờ, Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn và Xá Chi phu nhơn cùng trăm ngàn chúng Thiên Tử, Thiên nữ, Thần Càn Thát Bà tấu âm nhạc trời vầy đoàn du hành, thấy vị Thiên Tử ấy hiện năm tướng suy xấu sắp chết đều sanh ḷng thương xót mà đồng than rằng: Than ôi ! Lạ thay cho vô thường kia không chút t́nh thương rất hung bạo độc hại.

Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn dùng phạm âm thanh bảo vị Thiên Tử ấy rằng: Thôi đi Thiên Tử, người chớ quá sầu năo, chúng ta rồi đây cũng sẽ như thế nầy thôi. Ngươi chớ sanh ḷng luyến ái mà phải đọa vào ác thú.

Chúng Thiên Tử cũng đồng bảo rằng: Ngài nên siêng năng làm đủ các điều thiện sanh vào nhơn gian, nơi mà tất cả chúng sanh tu tạo nghiệp phước đức.

Vị Thiên Tử ấy nghe lời khuyên bảo của Thiên Đế và chúng Thiên Tử bèn tự nghĩ rằng nay tôi quyết chắc sẽ đọa lạc. Nghĩ rồi chắp tay hướng về chúng Thiên Tử mà nói rằng: Các Ngài an ủi tôi cho tôi vui mừng, nhưng thời gian tôi đọa lạc đă đến.

Nói xong, vị Thiên Tử ấy than thở ngắm nh́n, bấy giờ lại hiện ra thêm hai hiện tượng suy xấu: Một là đôi mắt ngầu đỏ như xích liên hoa, hai là các món trang sức trên thân bỗng ẩn mất.

Chúng Thiên Tử, Thiên nữ thấy hiện tượng nầy đồng đem hoa trời rải lên ḿnh vị Thiên Tử ấy và cũng tấu thiên nhạc lên.

Vị Thiên Tử ấy thấy chúng Thiên Tử, Thiên nữ rải hoa tấu nhạc để tiễn đưa ḿnh liền sanh ḷng thích muốn sanh vào Diêm Phù Đề, tự buồn than rơi lệ từ giă cơi trời Tam Thập Tam sanh vào Diêm Phù Đề, khi đă nhập thai làm cho mẹ phát hiện các tướng tốt, thường ca múa cười vui, thích dục lạc, luôn vui vẻ, ưa những nơi vườn rừng cây hoa quả, ưa mặc các thứ y phục nhiều màu tươi đẹp, thích thường ăn uống, dầu mang thai mà mẹ vẫn không hề cảm thấy khó chịu, chẳng ưa tà dục, thích tràng hoa đẹp xinh và các thứ hương thơm lành, lúc ngủ th́ chiêm bao thấy cảnh tốt điều lành không bao giờ thấy sự điên đảo.

Nầy Đại Tiên! Thiên Tử trời Tam Thập Tam sanh xuống Diêm Phù Đề, lúc c̣n ở thai tạng có thể làm cho mẹ phát sanh những hiện tượng như vậy.

Đại Tiên nên biết trong thời gian mang thai ấy, mẹ được khỏi tất cả bịnh hoạn về nội tạng, sau khi sanh luôn khỏe mạnh.

Khi đă sanh ra, trẻ đồng tử ấy thân thể ngay ngắn, chỉ tay đậm rơ những nét tốt đáng mừng, tay chưn nhu nhuyến, răng đều kín, eo lưng đẹp, toàn thân dịu dàng, ḷng ưa những sự công đức lành thù thắng, tánh thích dục lạc tốt, y phục th́ thích món nhẹ sạch, thích dạo chơi trong vườn rừng. Thân thể thoát ra hơi thơm dịu, ḍng họ sang quư giàu có lớn đầy đủ vàng ngọc châu báu, thường làm những việc giữ giới hạnh và bố thí cúng dường.

Đại Tiên nên biết nếu vị Thiên Tử ấy mà ḷng dục quá nặng nhiều th́ sẽ sanh vào nhà nghèo, nhưng thân h́nh vẫn là đoan chánh đầy đủ các căn, không lùn không cao, không đen không quá trắng, tay chưn đều ngay ngắn, ai thấy cũng sanh ḷng yêu kính. Tánh người nầy thích luận nghị, tâm luôn ḥa dịu ít giận hờn, ưa gần vợ người, đối với vợ nhà chẳng có ḷng yêu thích, với bạn bè anh chị em cùng quyến thuộc cũng chẳng thương luyến.

Đại Tiên nên biết, các vị Thiên Tử trời Tam Thập Tam sanh xuống nhơn gian, có những sự tướng như vậy".

Nghe Đức Phật bảo xong, Quảng Bác tiên nhơn cùng tất cả chúng tiên đều vui mừng đồng tiếng khen rằng lành thay.

PHÁP HỘI QUẢNG BÁC TIÊN NHƠN
THỨ BỐN MƯƠI CHÍN
HẾT
 Tiếp Tục  50 Pháp Hội Nhập Phật Cảnh Giới Trí Quang Minh Trang Nghiêm

Trang Mục Lục      Trang Chủ      Hình ảnh      Kinh điển      Thần Chú      Liên lạc
 

google-site-verification=Iz-GZ95MYH-GJvh3OcJbtL1jFXP5nYmuItnb9Q24Bk0